Tiểu luận Hình thái kinh tế xã hội với việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Xã hội loài người luôn vận động biến đổi từ thấp tới cao, trong mỗi thời kỳ phát triển có những hình thái kinh tế xã hội khác nhau phù hợp với quy luật biến đổi của lịch sử, thế giới dần tiến tới một xã hội hoàn hảo được coi là chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa. Con người luôn tìm tòi sáng tạo, vươn tới những mục tiêu cao hơn, tri thức là vô hạn do đó nghiên cứu tìm hiểu về quá trình phát triển của xã hội loài người trong quá khứ và xu hướng vận động trong tương lai luôn thôi thúc, khuyến khích các nhà triết học, xã hội học và những ai quan tâm tới khoa học xã hội khám phá. Học thuyết kinh tế xã hội đã được C.Mác vận dụng kế thừa có chọn lọc từ những nghiên cứu của các nhà triết học duy vật trước đó và ứng dụng thực tiễn đối với nhiều quốc gia trên thế giới, cho tới hiện nay học thuyết này vẫn được coi là nền tảng cơ sở của kinh tế học hiện đại. Đảng và nhà nước ta đã vận dụng học thuyết này trong quá trình định hướng phát triển kinh tế xã hội nước ta một cách phù hợp với những điều kiện thực tế của nước nhà. Sau một thời gian nghiên cứu tìm hiều cùng với sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn em nhận thấy đây là một đề tài rất đáng quan tâm đối với mọi thế hệ yêu thích tìm hiểu các môn khoa học xã hội, và có những hiểu biết hơn về thực tiễn lịch sử phát triển của kinh tế xã hội nước nhà.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2283 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hình thái kinh tế xã hội với việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cứu tỉ mỉ về quá rình lịch sử loài người, học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của mác đã chỉ rõ những quy luật cơ bản của vận động xã hội, vạch ra phương pháp khoa học để giải thích lịch sử. Với ý nghĩa và vai trò ấy, có thể xem học thuyết về hình thái kinh tế xã hội là hạt nhân lí luận, là hòn đá tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử. đây thực sự là một đóng góp to lớn, một thành tựu lý luận quan trọng trong việc giải quyết nguyên nhân và định hướng sự phát triển của xã hội trong thực tiễn. Dưới sự phân tích khoa học và biện chứng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phạm trù hình thái kinh tế xã hội không phải là một thực thể độc lập đơn lẻ, cứng nhắc mà nó rất sinh động và linh hoạt, tồn tại như một cơ thể sống, là sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập, mâu thuẫn nhau. Các mặt, các yếu tố cấu thành của một hình thái kinh tế xã hội gồm có: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (họp thành phương thức sản xuất) cơ sở hạ tầng (về quan hệ sản xuất) và kiến trúc thượng tầng. Các yếu tố này luôn luôn tác động qua lại, làm chuyển hoá lẫn nhau tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của xã hội, có sự thay thế nhau liên tục của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử loài người. 1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với đời sống xã hội Sản xuất vật chất. Trước đây ở thời kỳ sơ khai nguyên thuỷ, để có thể duy trì sự sống con người chỉ biết sử dụng những thức ăn có sẵn trong tự nhiên bằng cách hái lượm, khi xã hội dần phát triển con người đã biết chế tạo ra những dụng cụ thô sơ cho tới hiện đại phục vụ cho việc tìm kiếm thức ăn và xây dụng chỗ ở, cứ như vậy trải qua thời gian biến đổi lâu dài con người đã biết sản xuất ra của cải vật chất từ những nguồn nguyên liệu có sẵn hoặc tổng hợp để tạo ra những hàng hoá phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt và đem lưu thông trao đổi rộng rãi, đó là hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo để phát triển của loài người. Sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, và sản xuất ra bản thân con người, ba quá trình này không tách biệt với nhau mà có mối quan hệ đan xen, biện chứng song sản xuất vật chất giữ vai trò quan trọng nhất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội, quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội. Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát tiển của con người. Theo Ph.Ăngghen “ lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người”, cùng với giới tự nhiên cung cấp những vật liệu cho hoạt động sản xuất, lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Hoạt động sản xuất vật chất tạo ra tư liệu sinh hoạt nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể con người nói riêng. Quá trình con người sử dụng sức lao động (thông qua công cụ lao động) tác động vào tự nhiên sản xuất ra của cải vật chất, thoả mãn nhu cầu con người, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với tính cách là chủ thể trong sản xuất, con người với sức lao động, kinh nghiệm, thói quen và tri thức khoa học-kĩ thuật của mình, sử dụng tư liệu lao động mà trước hết là công cụ tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất. C. Mác cho rằng “ Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của người ta. 1.2 Vai trò và ý nghĩa của sản xuất vật chất đối với đời sống xã hội a) Vai trò của sản xuất vật chất đối với đời sống xã hội. Quan điểm duy vật biện chứng của Mác: Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển xã hội, biểu hiện: +Sản xuất vật chất đảm bảo cho sự tồn tại của con người, trong quá trình sản xuất vật chất, con người làm biến đổi thiên nhiên, biến đổi xã hội và biến đổi chính bản thân họ, từ đó mà ta thấy vai trò to lớn của người lao động. +Sản xuất vật chất của con người là cơ sở tái sản xuất ra quan hệ xã hội, mà trên cơ sở đó xây dựng nên toàn bộ những mối quan hệ xã hội khác như chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo nghệ thuật, khoa học và cả triết học nữa. +Sản xuất vật chất là cơ sở đánh giá sự tiến bộ xã hội quy định sự biến đổi phát triển các mặt đời sống xã hội, quy định sự phát triển từ thấp đến cao. Ý nghĩa phương pháp luận Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, để có thể duy trì cuộc sống cho xã hội loài người không thể thiếu quá trình sản xuất vật chất, bởi những gì sẵn có trong tự nhiên không phải tất cả đề là vô hạn, nếu cứ khai thác mà không tìm cách bồi đắp bổ xung hoặc tìm nguồn nguyên liệu thay thế thì tới một lúc nào đó những nguồn lực đó sẽ dần dần cạn kiệt và mất đi vĩnh viễn, kết quả là loài người sẽ đi đến giai đoạn diệt vong. Cuộc sống ngày càng phát triển thì đòi hỏi những yêu cầu cao hơn, không chỉ là cơm no, áo ấm mà còn là ăn ngon mặc đẹp, điều đó thể hiện vai trò to lớn của quá trình tìm tòi sáng tạo lâu dài của loài người để sản xuất vậtc chất cho xã hội. Cần tìm nguyên nhân của các hiện tượng xã hội trong sự tồn tại và phát triển của loài người. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn, thời kỳ lịch sử nhất định, cách thức sản xuất ra của cải vật chất là không giống nhau. Vậy đặc điểm của từng giai đoạn đó là gì, cách thức sản xuất vật chất đó ra sao, đâu là nguyên nhân của sự phát triển xã hội? Chúng ta cần phải nghiên cứu tìm hiểu để có câu trả lời thích hợp, từ đó có những phương hướng vận dụng thích hợp với từng giai đoạn nhất định, không thể áp đặt chung cho mọi thời kỳ cùng một phương pháp bởi những quy định đó có thể đúng cho giai đoạn này nhưng sẽ là lỗi thời lạc hậu hoặc quá xa vời chênh lệch với những quan hệ xã hội, chưa thích ứng đối với giai đoạn khác. 2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất-quan hệ sản xuất 2.1 Phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Phương thức sản xuất C.Mác đã từng chỉ ra một điểm quan trọng mang tính quy luật của sự phát triển xã hội rằng lịch sử loài người là lịch sử thay thế nhau của các phương thức sản xuất. Khái niệm: Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất, chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Đối với sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng, trong sự thay đổi đó các quá trình kinh tế, xã hội được chuyển sang một chất mới. Dựa vào phương thức đặc trưng của mỗi thời đại lịch sử, người ta có thể hiểu được thời đại lịch sử đó thuộc về hình thái lịch sử nào. Vai trò của phương thức sản xuất trong xã hội: Quy định tính chất, kết cấu, sự vận động và phát triển của xã hội, điều đó thể hiện rất rõ nét qua các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội. Phương thức sản xuất hiện đại tối tân phù hợp với quan hệ sản xuất sẽ làm cho xã hội phát triển nhanh, ngược lại phương thức sản xuất lạc hậu, không tương xứng với sự phát triển của quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội. Lịch sử xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử đã chứng minh điều đó. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ phương thức sản xuất lạc hậu làm cho xã hội tồn tại hơn một triệu năm. Phương thức sản xuất nô lệ có sự phát triển tiến bộ hơn làm xã hội nô lệ tồn tại hơn 6000 năm. Xã hội phong kiến, lực lương sản xuất đã mang tính chất nửa cơ khí, do đó tồn tại 1000 năm, đến xã hội tư bản phương thức sản xuất đã ở trình độ phát triển cao, trong vòng 300 năm tổng sản phẩm thu nhập xã hội bằng cả ba xã hội trước kia cộng lại. Từ sự phân tích trên ta thấy muốn cho xã hội và đời sống xã hội phát triển, chúng ta phải quan tâm tới phương thức sản xuất vì chính nó quyết định sự tồn tại, vận động, phát triển của xã hội chứ không phải tư tưởng, ý muốn chủ quan của con người. Phương thức sản xuất là phạm trù mang tính chất khách quan: Trong lịch sủ nhân loại có những phương thức sản xuất gắn với chế độ tư hữu và phương thức sản xuất gắn với chế độ công hữu, dù phát triển xã hội theo mỗi hướng khác nhau nhưng tất cả đều hướng tới xã hội chủ nghĩa công sản trong tương lai, chỉ trên cơ sở xoá bỏ phương thức sản xuất dựa trên quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, xác lập phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa thì toàn bộ cơ cấu của đời sống xã hội mới thay đổi căn bản. Bởi xu hướng tất yếu của lịch sử là hướng tới một xã hội bình đẳng giữa người với người, không có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt. Xây dựng và phát triển sản xuất trong xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở Việt Nam, dựa trên nền tảng cơ sở đã nêu trên, đảng ta luôn nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng một phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, xem đó như là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. b) Lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, trong mối quan hệ đó người lao động là nhân tố chủ yếu, hàng đầu của lực lượng sản xuất, thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lênin viết: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động." Tư liệu sản xuất, người lao động với kinh nghiệm sản xuất có kĩ năng lao động biết sử dụng và chế tạo công cụ lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động, trong tư liệu lao động có công cụ lao động và các vật liệu phụ trợ khác để bảo quản công cụ lao động, chuyên trở và bảo quản sản phẩm lao động. Đối tượng lao động gồm một bộ phận của tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất vật chất được con người sử dụng tạo ra sản phẩm lao động và con người tạo ra đối tượng lao động, chúng ta không chỉ tìm trong tự nhiên những vật liệu có sẵn để sản xuất mà còn tạo ra những đối tượng lao động mới. Do vậy trong các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thì người lao động giữ vai trò quan trọng nhất. Ngày nay khoa học và công nghệ phát triển mạnh chúng ta đã tìm ra hơn 400 loại vật liệu mới đưa vào quá trình sản xuất làm cho sản xuất ngày càng được phát triển. Chưa bao giờ tri thức khoa học được vật chất hoá, kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất nhanh và có hiệu quả như ngày nay. Khoa học không còn là lý thuyết đứng ngoài quá trình sản xuất vật chất mà chuyển thành mắt xích bên trong của hệ thống sản xuất cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Ý nghĩa trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của khoa học không chỉ riêng khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội ở mức độ nhất định. Trong tư liệu sản xuất, công cụ lao động là yếu tố quan trọng, là hệ thống xương cốt bắp thịt trong kĩ thuật sản xuất, nó thường xuyên được con người cải tiến, là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Khi công cụ lao động được cải tiến, kinh nghiệm và trình độ sản xuất của con người ngày càng được nâng cao, các nghành mới ra đời, phân công lao động xã hội phát triển dẫn đến sản xuất của xã hội phát triển. Nhờ đó đã tiết kiệm được thời gian cũng như sức lao động của con người. Người lao động với kinh nghiệm và sáng tạo của mình đã cải tạo công cụ lao động, chế tạo ra công cụ lao động mới đồng thời con người là chủ thể quyết định năng suất lao động và năng suất lao động được coi là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ lực lượng sản xuất của một xã hội nhất định. Các yếu tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, sự hoạt động của công cụ lao động phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm, thói quen của con người đồng thời bản thân con người lại phụ thuộc vào công cụ lao động hiện có, đây là mối liên hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan. Ngày nay khoa học và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi vào trong sản xuất, nó có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ, vì vậy khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, cho phép con người tạo ra năng suất lao động cao hơn so với trước kia, chúng ta khẳng định ngày nay khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, lực lượng sản xuất độc lập vì những tri thức khoa học đã được vật chất hoá, được kết tinh vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất. Trải qua các cuộc cách mạng khoa học trên nhiều lĩnh vực trong lịch sử, cùng với sự tiến triển của sản xuất, khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống. Khoa học công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất do vậy nó hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII của đảng ta đã vạch ra mục tiêu đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung, của nền khoa học nước nhà nói riêng như sau: “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”. Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn là lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc. điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng xuất lao động xã hội và hiệu quả kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đủ sức cung cấp luận cứ cho việc hoạch định các chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển. Tính khách quan của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất do con người tạo ra song nó vẫn là yếu tố khách quan, là nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại. Lực lượng sản xuất được kế thừa liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác, mỗi thế hệ sinh ra đều phải thích ứng với một trình độ lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại vì lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người, những lực lượng đã đạt được bởi hình thái xã hội trước tạo ra. c) Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất sản xuất vật chất, thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi với nhau cũng như quan hệ về phân phối sản phẩm. Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức, mỗi mặt quan hệ của hệ thống sản xuất có vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác định khi nó tác động tới nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung. Tính khách quan của quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, nó là hình thức xã hội của sản xuất. Quan hệ sản xuất là nền tảng vật chất, kinh tế, để hình thành nên những quan hệ xã hội khác, và là hình thức của lực lượng sản xuất đồng thời cũng là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Tính ổn định tương đối: Quan hệ sản xuất là một hệ thống ổn định tương đối so với sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Sở dĩ như vậy bởi trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định, hình thái kinh tế xã hội cũng có tính ổn định tương đối, không thể tuỳ tiện thay đổi. Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt sau: Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất Quan hệ phân phối sản phẩm lao động Ba mặt này có quan hệ biện chứng và tác động qua lại với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan trọng nhất, tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, biểu hiện thành chế độ sở hữu. Quan hệ sở hữu là quan hệ cơ sở, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất khác. Chính quan hệ sở hữu trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng thể chế trong hệ thống sản xuất xã hội. Có thể thấy rõ điều đó qua các hình thái xã hội khác nhau trong lịch sử, ví như trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì quyền lực thuộc về những người nắm giữ tư bản, bởi họ là những người nắm giữ tư liệu sản xuất, từ đó họ có thể thuê nhân công lao động, qua đó cũng đã thể hiện được vai trò quản lý của những người nắm giữ tư bản trong tay. Vậy nó có thể quy định tính chất của quan hệ tổ chức quản lý và việc phân phối sản phẩm sản xuất xã hội. Hiện nay có thể phân biệt rõ ràng rằng trong nền kinh tế, lực lượng sản xuất do cơ sở vật chất kĩ thuật của nền sản xuất quyết định, còn quan hệ sản xuất lại do chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất trực tiếp quyết định. Tuy nhiên mỗi mặt đều có tính chất độc lập tương đối của nó. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: Lịch sử có hai loại hình sở hữu là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. ØSở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất: Tư liệu sản xuất nằm trong tay số ít người vì vậy của cải xã hội cũng được tập trung trong tay một số ít người. Xã hội hình thành nên quan hệ thống trị và bị trị, có sự đối kháng giai cấp, phân biệt giàu nghèo sâu sắc. ØSở hữu xã hội về tư liệu sản xuất: Tư liệu sản xuất là của mọi người trong xã hội, mọi công dân đều có quyền hưởng lợi ích chung của xã hội, nhờ đó mà quan hệ giữa người và người trong xã hội có sự bình đẳng hợp tác với nhau. Do đó nhìn vào loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, chúng ta có thể phân biệt được các chế độ xã hội khác nhau. Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất: Tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động sản xuất, điều khiển quá trình sản xuất, góp phần tạo nên hiệu quả của quá trình sản xuất. Nó chịu sự quy định và phải điều chỉnh phù hợp với quan hệ sở hữu, tuy nhiên nó cũng tác động ngược lại tới quan hệ sở hữu, nếu tổ chức quản lý khoa học thì hiệu quả sản xuất cao từ đó sẽ củng cố quan hệ sở hữu, ngược lại nếu tổ chức kém thì sẽ kìm hãm sản xuất phát triển, từ đó tác động xấu thậm chí có thể góp phần làm biến đổi quan hệ sở hữu theo chiều hướng tiêu cực. Quan hệ phân phối sản phẩm: Đây là khâu cuối của quá trình sản xuất, tại đó sản phẩm sản xuất của xã hội được phân chia, nó là nguồn lợi trực tiếp của các chủ thể sản xuất cũng như người lao động. Do đó nó có thể kích thích hay hạn chế năng suất lao động, phát huy sáng kiến sáng tạo, cải tiến công cụ lao động trong quá trình sản xuất, qua đó tạo động lực thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của xã hội. 2.2 Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất, tốc độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất, chúng tồn tại song song với nhau nhưng không tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Là quy luật cơ bản mang tính phổ biến ở tất cả các giai đoạn của lịch sử loài người. Sự phát triển của sản xuất vật chất xã hội trước hết là sự phát triển của lực lượng sản xuất, nó được thể hiện cụ thể ở sự phát triển của tính chất và tốc độ của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hoá. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân, khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá. a) Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, từ đó để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. C.Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có...trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của quan hệ sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Tính độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất có vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất vì nó là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất phải dựa vào đó mà phát triển. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, quy định cách thức quản lý, tổ chức lao động, phân phối sản phẩm, tạo ra điều kiện thúc đẩy hay hạn chế việc cải tiến công cụ lao động và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất theo hai hướng. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ của trình độ lực lượng sản xuất hiện có, nó sẽ thú đẩy và mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất mâu thuẫn vơí lực lượng sản xuất, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho sản xuất không phát triển được. Song sự kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo xu hướng phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất thì cuối cùng quan hệ sản xuất cũng bị thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất. Sự liên hệ lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa là xã hội mà quan hệ sở hữu công về tư liệu sản xuất, công bằng được thiết lập, ở đấy giữa cong người với con người không có sự phân biệt tầng lớp, không còn quan hệ thống trị và bị trị như các xã hội trước kia, người lao động có quyền tự chủ, làm theo năng lực và hưởng theo lao động. Xã hội luôn vận động biến đổi, lực lượng sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như dưới bất cứ phương thức sản xuất nào là yếu tố động hơn, biến đổi nhanh hơn quan hệ sản xuất, do vậy luôn tạo ra những mâu thuẫn mới, từ đó cần có những biện pháp giải quyết mâu thuẫn, nhưng khi mâu thuẫn cũ được giải quyết thì lại thiết lập những mâu thuẫn mới, chính nhờ có mâu thuẫn và sự giải quyết mâu thuẫn ấy đã thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển cao hơn. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn liên quan đến cả quan hệ phân phối và trao đổi. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì hình thức phân phối cũng càng phát triển, đồng thời nguyên tắc lợi ích vật chất của người sản xuất vẫn được duy trì và củng cố. Sự vi phạm nguyên tắc lợi ích vật chất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, do đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có thể trở nên phức tạp nếu có khuyết điểm và sai lầm trong việc thi hành chính sách kinh tế. Nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa là phân phối theo số lượng và chất lượng lao động, nhưng trong thực tế thường mắc phải một số sai lầm như phân phối bình quân, sai lầm này sẽ dẫn đến người lao động không hăng say lao động sáng tạo, đôi khi là sở hữu chung nên tính không tự chủ, ỉ lại cao và dẫn đến không kích thích phát triển sản xuất hay một sai lầm khác như sự cách biệt một cách vô lý giữa tiền lương của các loại công nhân. Lý luận về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất tạo cho chúng ta một nền tảng vững chắc để tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn nhất là trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa hiện nay ta vẫn còn gặp nhiều vướng mắc trong tư tưởng và hành động. 3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng bao gồm toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động thực hiện của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Một xã hội được tạo nên bởi các quan hệ như: Quan hệ sản xuất thống trị Quan hệ sản xuất tàn dư Quan hệ sản xuất mầm mống xủa xã hội tương lai Vai trò của mỗi loại quan hệ khác nhau, trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo chi phối toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, quyết định đặc trưng của toàn bộ hệ thống chính sách hạ tầng của xã hội, ví như trong xã hội phong kiến những địa chủ nắm giữ ruộng đất, họ là những người thống trị trong xã hội, những người không có ruộng đất là những người phải lao động làm thuê trên ruộng đất đi thuê và phải nộp địa tô cho địa chủ. Xã hội phát triển lên tư bản chủ nghĩa xong không thể xoá bỏ hết ngay quan hệ sản xuất cũ, do vậy vẫn duy trì quan hệ sản xuất tàn dư trong một thời gian dài. Đối với nước ta từ sau đổi mới, đảng và nhà nước đã xác định phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế nhà nước vẫn chiếm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, điều đó khẳng định việc xác định được quan hệ sản xuất thống trị là rất quan trọng, bởi nó quyết định hướng đi cho nền kinh tế. Các loại quan hệ sản xuất khác nhau cũng có vai trò nhất định trong nền kinh tế sản xuất xã hội. Tồn tại và phát triển một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất, và biến đổi theo sự vận động và phát triển của tính chất và tốc độ của lực lượng sản xuất. Kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những tư tưởng, quan điểm xã hội như chính trị, pháp luật, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học...với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội và mối quan hệ nội tại giữa chúng, được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng nhưng không tách rời mà tác động qua lại nhau, đều nảy sinh trên cơ sở cơ sở hạ tầng và phản ánh cơ sở hạ tầng. Có yếu tố nảy sinh và quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng như Nhà nước, pháp luật, có yếu tố nảy sinh và quan hệ gián tiếp như đạo đức, nghệ thuật. Kiến trúc thượng tầng bao gồm: Hệ tư tưởng và thể chế của giai cấp thống trị, tư tưởng tàn dư của xã hội cũ, và tư tưởng của các giai cấp mới, đồng thời có cả tư tưởng của các tầng lớp trung gian. Trong đó hệ tư tưởng và thể chế của giai cấp thống trị có vai trò quan trọng chi phối các quan điểm tư tưởng khác. Kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp trong những xã hội có giai cấp, do vậy kiến trúc thượng tầng mang tính chất đối kháng giữa hệ tư tưởng của những giai cấp khác nhau. Một thiết chế quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng là Nhà nước, đó là công cụ để đảm bảo duy trì quyền thống trị của gia cấp thống trị và là lực lượng quản lý, điều tiết xã hội. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng. Bộ mặt kiến trúc thượng tầng trong đời sống xã hội luôn được biểu hiện ra một cách phong phú, phức tạp. Cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội không chỉ sản sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng, quy định tính chất kiến trúc thượng tầng. hình thành nên một kiến trúc thượng tầng mới tương ứng. Những biến đổi ở cơ sở hạ tầng sớm hay muộn cũng tạo nên sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Tuy vậy sự biến đổi này không chỉ diễn ra trong giai đoạn có sự biến đổi của hình thái kinh tế xã hội mà còn diễn ra trong lòng một hình thái kinh tế xã hội nhất định nào đó. Trong những xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi này thực hiện thông qua cuộc đấu tranh giai cấp, làm cách mạng xã hội lật đổ sự thống trị của giai cấp cũ, cơ sở hạ tâng cũ được thay thế bằng một cơ sở hạ tầng của giai cấp thống trị mới và qua đó thay thế cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng. Nguyên nhân của sự biến đổi kiến trúc thượng tầng là ở sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, tuy vậy lực lượng sản xuất không quyết định trực tiếp mà nó gián tiếp tác động đến kiến trúc thượng tầng thông qua quan hệ sản xuất và qua đó là cơ sở hạ tầng. Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp, có yếu tố biến đổi phù hợp với cơ sở hạ tầng mới như Nhà nước, pháp luật.. song bên cạnh đó cũng có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn tồn tại dai dẳng, được kiến trúc thượng tầng mới thừa kế và phát triển như nghệ thuật, tôn giáo. Kiến trúc thượng tầng tác động tới cơ sở hạ tầng. Kiến trúc thượng tầng có vai trò duy trì, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Chỉ có xác lập quyền thống trị về chính trị, tư tưởng thì giai cấp thống trị mới có thể duy trì sự thống trị về cơ sở hạ tầng. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng lại tác động với những mức độ khác đến cơ sở hạ tầng. Trong đó đặc biệt chú ý đến vai trò to lớn của Nhà nước, ví dụ ở nước ta thiết lập mô hình nhà nước của dân, do dân và vì dân, cho phép mọi người dân được tự do tín ngưỡng tôn giáo. Cơ sở hạ tầng thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. Tồn tại các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền nhau, thậm chí đối lập, đan xen nhau. Như vậy là phải chấp nhận nhiều quy luật kinh tế cùng lúc. Điều đó nói lên sự không đồng bộ của bản chất nền kinh tế nước ta, sự không đồng bộ đó là do trình độ lực lượng sản xuât không đều, thành phần kinh tế nhà nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân và hộ gia đình còn nhỏ lẻ. Hiện nay chúng ta đã đề ra biện pháp khắc phục, đảng ta tập trung hướng các thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên việc định hướng này rất khó khăn phức tạp. Để làm được điều đó, đảng ta phải sử dụng nhiều biện pháp như kinh tế, hành chính, giáo dục, trong đó biện pháp kinh tế là quan trọng. Cần sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế trong đó có sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đồng thời kiến trúc thượng tầng cũng phải đựơc đổi mới về mọi mặt như đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy hoạt động của bộ máy nhà nước, đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, hiệp hội đoàn thể, mở rộng dân chủ nhằm quy tụ sức mạnh của quần chúng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế phát triển. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, bổ xung về mặt pháp luật, hiến pháp, đường lối chủ trương chính sách của đảng phải phù hợp với sự phát triển kinh tế, cụ thể là chấp nhận kinh tế nhiều thành phần thì phải đề ra chính sách pháp luật phù hợp với nền kinh tế đó. Nền kinh tế có thể đi lên xã hội chủ nghĩa nếu được định hướng quản lý có hiệu quả, do đó kiến trúc thượng tầng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng. Đảng ta không chấp nhận đa nguyên, đa đảng mà xây dựng hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp công nhân, do đảng lãnh đạo, đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân trong quản lý kinh tế, xã hội, và mọi lĩnh vực khác của xã hội. 5. Phạm trù hình thái kinh tế xã hội Hình thái kinh tế xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được hình thành trên những quan hệ sản xuất đó. Sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Xã hội loài người tuân theo những quy luật khách quan, phát triển từ thấp tới cao, các quy luật đó là quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, cùng nhiều quy luật xã hội khác. Nguyên nhân sâu xa của sự phát triển kinh tế xã hội là sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó là sự tác động của các quy luật khách quan trong xã hội. Ngoài các yếu tố thuộc về quy luật chung, khi xem xét sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội, ta phải chú ý đến các yếu tố mang tính chất đặc thù của mỗi dân tộc như: Điều kiện tự nhiên, tâm lý xã hội, truyền thống dân tộc, phong tục tôn giáo, bản sắc văn hóa, chính trị, những điều kiện quốc tế khác. Chính những điều đó làm nên sự đa dạng, phong phú của lịch sử loài người. Nó cũng bao hàm một ý nghĩa mang tính chất lý luận: Quá trình phát triển tự nhiên không chỉ diễn ra tuần tự mà còn bao hàm sự bỏ qua, những bước nhảy vọt trong một số điều kiện nhất định ví như nước ta đã bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Trải qua quá trình phát triển lâu dài từ xã hội nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa đã tạo dựng được những thành tựu đáng kể, xã hội trước là tiền đề cơ bản để xã hội sau phát triển có kế thừa những mặt tích cực của xã hội trước, cứ như vậy xã hội loài người được phát triển ngày càng ở mức cao hơn về mọi mặt. Những dự báo của Mác và Ăngghen đã về xã hội cộng sản chủ nghĩa mà loài người sẽ hướng tới là ở đó lực lượng sản xuất đã phát triển rất cao, chủ nghĩa tư bản đã tạo nên lực lượng sản xuất đồ sộ dựa trên nền tảng đại công nghịêp nhưng cộng sản chủ nghĩa còn phát triển cao hơn nữa, chế độ sở hữu xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu hoàn toàn, sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, mục đích của nền sản xuất cộng sản chủ nghĩa là thỏa mãn nhu cầu về mọi mặt cả về vật chất và tinh thần. Nền sản xuất được tiến hành một cách có kế hoạch trên phạm vi toàn xã hội và không còn sản xuất hàng hóa nữa, ở đó sự phân phối sản phẩm cũng bình đẳng với mọi người dân trong xã hội và xóa bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, xóa bỏ giai cấp. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử của xã hội loài người, xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. 5.2 Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế xã hội. Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm thống trị trong học xã hội, các nhà triết học thực chất không hiểu được quy luật của sự phát triển xã hội, không thể giải quyết được một cách khoa học vấn đề phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhìn thấy động lực của lịch sử nằm ngay trong hoạt động thực tiễn của con người. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội đã khắc phục được quan điểm duy tâm, trừu tượng, vô căn cứ về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả xã hội một cách chung chung phi lịch sử, mở ra một chân trời mới mang tính hiện thực trong sự nhìn nhận về quá trình phát triển của xã hội loài người. Học thuyết này đã vạch ra sự thống nhất lịch sử trong cái muôn vẻ của các sự kiện của các xã hội khác nhau trong những thời kỳ khác nhau, vì thế nó đã đem lại cho khoa học xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra những mối liên hệ nhân quả, để giải thích chứ không chỉ mô tả các sự kiện lịch sử. Nó là cơ sở khoa học để tiếp cận đúng đắn khi giải quyết các vấn đề cơ bản của các ngành khoa học xã hội rất đa dạng. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần, đều chỉ có thể được hiểu đúng khi gắn với một hình thái kinh tế xã hội nhất định. II. VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA. Trong thời đại ngày nay, chủ trương phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa chẳng những không mâu thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tính lịch sử, tự nhiên mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử. Trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, Việt Nam là một quốc gia chưa trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa theo tuần tự phát triển như hầu hết các quốc gia trên thế giới, bởi đảng và nhà nước nhận thấy chúng ta có thể kế thừa những kinh nghiệm phát triển của những quốc gia đi trước, thực hiện chiến lược “đi tắt, đón đầu”, chúng ta có đủ khả năng về kinh nghiêm và bản lĩnh để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không nhất thiết phải tuần tự phát triển theo các hình thái kinh tế xã hội. Song điều đó khiến chúng ta gặp không ít khó khăn, vì nếu theo tuần tự phát triển mới có thể tạo dựng được cơ sở vật chất đầy đủ nhằm tiến tới một xã hội mới hoàn thiện hơn. Bởi vậy con đường trực tiếp lên xã hội chủ nghĩa là không có khả năng, nhưng con đường phát triển rút ngắn theo cách gián tiếp là quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con đường hiện thực. Để thực hiện được điều này cần phải có sự giúp đỡ tích cực của các nước tiên tiến, và giai cấp vô sản của các nước đó nhưng không vì thế mà chúng ta hoàn toàn dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài, mà phải dựa vào chính nội lực của mình, có như vậy mới thực hiện thành công được chiến lược mà đảng và nhà nước ta đã xác định. Đại hội đảng IX đã xác định việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ ở Việt Nam là cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên trong thực tiễn vẫn còn có nhiều sai lầm trong tư tưởng cũng như hoạt động nên nó đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của ta. Do đó, việc nghiên cứu thật kĩ lưỡng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang đặc điểm Việt Nam có ý nghĩa sâu sắc về phát triển lý luận và hoạt động thực tiễn. Trước đây, chúng ta đã quá chú trọng quan hệ sản xuất xã hội về tư liệu sản xuất mà không căn cứ vào tình hình thực tiễn lực lượng sản xuất chưa phát triển tương ứng phù hợp với sự phát triển của tư liệu sản xuất, coi nhẹ và quan liêu, lạc hậu trong tính chất quản lý sản xuất. Hiện nay Đảng ta vẫn tiếp tục đề cao quan hệ sản xuất xã hội về tư liệu sản xuất song đã chú ý tới sự phát triển kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sản xuất khác để phù hợp với tình hình thực tế, khơi dậy sức mạnh tiềm ẩn của nhân dân và tiềm năng của đất nước. Đổi mới tính chất quản lý sản xuất hướng tới hiệu quả kinh tế cao, thực hiện phân phối sản phẩm theo hiệu quả kinh tế là mục tiêu nhưng bên cạnh đó vẫn phải đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo mọi người dân đều được hưởng thành quả xứng đáng với công sức mà họ đã bỏ ra và lợi ích chung của toàn xã hội 1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư sản chủ nghĩa ở Việt Nam. a) Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chế độ phong kiến đã tồn tại và duy trì ở nước ta trong một thời gian khá dài, khi mà quan hệ sản xuất phong kiến không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử nữa, nó đã trở nên lỗi thời lạc hậu và ngày càng mục nát suy đồi, đòi hỏi phải có một hướng đi mới cho nền kinh tế xã hội. Trước những yêu cầu cấp thiết mà thực tế đặt ra cho nước nhà thì đảng và nhà nước ta đã xác định chúng ta có đủ khả năng để tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội là chế độ tiên tiến phù hợp nhất. Chúng ta có một điều kiện quốc tế cực kỳ quan trọng đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cuộc cách mạng này vừa đặt ra những thách thức không nhỏ, song lại tạo ra những thuận lợi dáng kể cho sự phát triển của đất nước. Đó là những điều kiện rất đặc biệt mà việc vận dụng nó sẽ tạo ra những cơ sở hiện thực cho sự phát triển rút ngắn. Đảng cộng sản Việt Nam là một nhân tố có vai trò quyết định đối với việc thúc đẩy sự phát triển nhanh của đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta có cơ sở khoa học để tin tưởng rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường hợp với quy luật và có khả năng thực hiện. Việt Nam hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó lãnh đạo nhân dân tiến hành đổi mới, bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Khi một sự vật, hiện tượng, tư duy cũ kết thúc, thay vào đó là một sự vật, hiện tượng, tư duy mới bao giờ cũng cần thời gian để cái cũ chuyển sang cái mới, khoảng thời gian này được gọi là thời kì quá độ. Đây là yêu cầu khách quan của quy luật phát triển, nó mang tính phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Do đó, từ chế độ phong kiến bỏ qua tư bản chủ nghĩa mà chuyển sang xã hội chủ nghĩa cân phải trải qua thời kì quá độ cũng là một tất yếu khách quan. Mặt khác để chuyển từ xã hội phong kiến lên xã hội chủ nghĩa cần thời kì quá độ còn do chính sự khác biệt về bản chất giữa hai chế độ này. Các cuộc cách mạng xã hội trước đây chỉ thay đổi chế độ tư hữu này thành chế độ tư hữu khác, còn chế độ xã hội chủ nghĩa lại thay hẳn chế độ tư hữu thành chế độ công hữu. Hai chế độ này hoàn toàn trái ngược nhau, nên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không thể hình thành trong lòng xã hội phong kiến. Thêm vào đó vai trò của giai cấp công nhân không những là lực lượng lật đổ chính quyền cũ mà còn tham gia vào xây dựng chính quền mới, công việc này hoàn toàn mới mẻ với giai cấp công nhân nên bản thân cần thời gian để giữ vững và củng cố chính quyền. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ biến chuyển từ xã hội cũ sang xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, nó bắt đầu kể từ khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản giành được chính quyền sẽ kết thúc khi xây dựng xong cơ sở về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng của chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nước ta đi từ điểm xuất phát thấp hơn rất nhiều các quốc gia khác, là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lại chịu ảnh hưởng của chiến tranh kéo dài, cơ sở hạ tầng nghèo nàn. Bước vào thời kì quá độ, nền kinh tế vốn dĩ không đồng đều về trình độ của lực lượng sản xuất, mà xuất phát từ yêu cầu của quy luật phù hợp cho nên sẽ phải xác lập nhiều hình thức khác nhau của quan hệ sản xuất do đó sự tương hợp giữa các quan hệ sản xuất với các tính chất và trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất sẽ tạo nên nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại bên cạnh nhau. Trước đây chỉ tồn tại hai thành phần kinh tế, nhưng từ sau đổi mới đảng và nhà nước ta xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, bởi có như vậy mới tận dụng được mọi nguồn lực sẵn có của nước nhà đồng thời khuyến khích sự đầu tư, hợp tác từ nước ngoài, tạo điều kiện để phát triển các thành phần kinh tế trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, song vẫn coi thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo, làm nền tảng vững chắc để các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong những năm vừa qua doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xoá bao cấp, các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiêm về sản xuất kinh doanh, và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp, có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở đa dạng hoá về hình thức sở hữu nên quan hệ sở hữu có sự khác nhau. Ngay trong một thành phần kinh tế, dựa trên cùng một hình thức sở hữu, giữa các doanh nghiệp vẫn có sự khác nhau về trình độ công nghệ, về năng lực quản lý, về trình độ tay nghề của người lao động, về điều kiện sản xuất kinh doanh nên chi phí sản xuất cá biệt giữa các doanh nghiệp không giống nhau. Do đó, nó đòi hỏi mọi quan hệ kinh tế giữa người và người vẫn cứ phải giải quyết thông qua quan hệ mua bán hay là quan hệ hàng hoá, tiền tệ. Đây là định hướng đúng đắn mà Đảng và nhà nước ta đã đặt ra cho chiến lược phát triển kinh tế trong giai đoạn mới, chỉ có thể thông qua thị trường mới có thể thúc đẩy kinh tế phát triển một cách tự do lành mạnh, muốn tồn tại và phát triển chúng ta phải luôn luôn đổi mới trong sản xuất kinh doanh cũng như phương thức quản lý sao cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Thực tiễn hơn 15 năm đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế tương đối cao và ổn định trong thời gian dài, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, chủng loại hàng hoá trên thị trường ngày càng đa dạng, phong phú nên thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Trong thời gian tới với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa để có thể cạnh tranh và tồn tại được khi các điều kiện ràng buộc bảo hộ kinh tế trong nước được dỡ bỏ. Trước đây vai trò của nhà nước có tầm quan trọng rất lớn, can thiệp quá sâu vào kinh tế, xu hướng trong thời gian tới nhà nước chỉ có vai trò chỉ đạo ở tầm vĩ mô, không can thiệp quá sâu vào kinh tế mà để các thành phần kinh tế tự hạch toán kinh doan độc lập theo pháp luật kinh doanh. Cơ chế vận hành kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điểu khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Yừu tố thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kì, do đó nó còn phải chịu sự điều chỉnh quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tồn tại nhiều hình thức phân phối như phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và tài sản, phân phối theo hiệu quả kinh tế, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi, các quỹ tiêu dùng công cộng, phân phối theo sự đóng góp về các nguồn lực. Trong điều kiện của Việt Nam, phân phối theo lao động và phân phối theo hiệu quả lao động là chủ yếu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội. Từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Hiện đại hoá nền kinh tế thực chất là thay đổi cơ cấu công nghiệp, dựa trên các ngành công nghệ cao, trong đó những công nghệ cũ, tiêu hao nhiều tài nguyên và lao động, dựa trên nền tảng điện cơ khí được thay thế bằng những ngành công nghiệp cao cấp, dựa trên nền tảng cơ điện tử. Chúng ta phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bởi muốn phát triển kinh tế cần phải phát triển các ngành công nghiệp, mức sống của chúng ta còn thấp so với thế giới, để có thể mở rộng hợp tác với kinh tế toàn cầu thì cần thiết phải thực hiện công nghiệp hoá, bởi nếu không sẽ có sự mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, lạc hậu so với sự phát triển kinh tế của thế giới. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ Từ thực tiễn phát triển của nền kinh tế nước ta, và xu hướng phát triển trong thời gian tới, trước những yêu cầu đặt ra đối với nền kinh tế trong thời kỳ mới, thời kỳ hợp tác phát triển kinh tế toàn cầu. Có thể xác định những phương hướng và nhiệm vụ trong thời gian tới như sau: Cần tiếp tục duy trì và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tạo điều kiện để phát triển đồng đều các thành phần kinh tế nhằm tận dụng nguồn lực sẵn có, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế khác nhau khi tham gia hội nhập. Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước, không can thiệp quá sâu và quá trình kinh tế mà vai trò của Nhà nước thể hiện ở tầm quản lý vĩ mô. Cần hoàn thiện các quy định về pháp luật nhằm đảm bảo an toàn và bền vững cho kinh tế trong nước khi tham gia hội nhập kinh tế toàn cầu trong thời gian tới. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng, văn minh trong xã hội, đảm bảo tính ưu việt của xã hội mới, điều đó không những đem lại sự ấm no hạnh phúc trong nhân dân mà còn thúc đẩy xã hội phát triển. Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới, đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định bảo đảm cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. KÊT LUẬN Xã hội loài người luôn vận động biến đổi từ thấp tới cao, trong mỗi thời kỳ phát triển có những hình thái kinh tế xã hội khác nhau phù hợp với quy luật biến đổi của lịch sử, thế giới dần tiến tới một xã hội hoàn hảo được coi là chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa. Con người luôn tìm tòi sáng tạo, vươn tới những mục tiêu cao hơn, tri thức là vô hạn do đó nghiên cứu tìm hiểu về quá trình phát triển của xã hội loài người trong quá khứ và xu hướng vận động trong tương lai luôn thôi thúc, khuyến khích các nhà triết học, xã hội học và những ai quan tâm tới khoa học xã hội khám phá. Học thuyết kinh tế xã hội đã được C.Mác vận dụng kế thừa có chọn lọc từ những nghiên cứu của các nhà triết học duy vật trước đó và ứng dụng thực tiễn đối với nhiều quốc gia trên thế giới, cho tới hiện nay học thuyết này vẫn được coi là nền tảng cơ sở của kinh tế học hiện đại. Đảng và nhà nước ta đã vận dụng học thuyết này trong quá trình định hướng phát triển kinh tế xã hội nước ta một cách phù hợp với những điều kiện thực tế của nước nhà. Sau một thời gian nghiên cứu tìm hiều cùng với sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn em nhận thấy đây là một đề tài rất đáng quan tâm đối với mọi thế hệ yêu thích tìm hiểu các môn khoa học xã hội, và có những hiểu biết hơn về thực tiễn lịch sử phát triển của kinh tế xã hội nước nhà. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trìnhTriết học Mác - Lênin (Nxb Chính trị quốc gia). 2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin (Nxb Chính trị quốc gia). Lý luận chính trị số 5/200. 4. Tạp chí hoạt động khoa học số 8/2002. 5. Nghiên cứu kinh tế số 7/2004. Tạp chí quản lý nhà nước. Tạp chí cộng sản số 6 - 2003. Văn kiện đại hội đảng VIII. Văn kiện đại hội đảng IX. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập (Nxb Chính trị quốc gia)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35716.doc
Tài liệu liên quan