A.LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA .và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nứoc mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt .thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Em xin chọn đề tài: "Hội nhập kinh tế quốc tế với nâng cao năng lực cạnh tranh ở Việt Nam". Đây là đề tài rất sâu rộng, mang tính thời sự. Đã có rất nhiều nhà kinh tế đề cập đến vấn đề này. Bản thân em, một sinh viên năm thứ ba, khi được giao viết đề tài này cũng cảm thấy rất hứng thú và say mê. Tuy nhiên do sự hiểu biết còn hạn chế nên em chỉ xin đóng góp một phần nhỏ suy nghĩ của mình. Bài viết còn có rất nhiều sai sót, em kính mong cô giúp đỡ em hoàn thành bài viết tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1
BẢNG TÓM TẮT 2
A. MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Mục đích của đề tài 4
3. Ý nghĩa của đề tài 5
4. Phạm vi nghiên cứu 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5
B. PHẦN NỘI DUNG 7
CHƯƠNG 1: 7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 7
1.1 Khái niệm 7
1.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế 7
1.2.1 Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế 7
1.2.2 Nội dung của hội nhập (chủ yếu là nội dung hội nhập WTO) 8
1.3 Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam 8
1.3.1 Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam 10
1.3.2 Hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết nợ quốc tế 11
1.3.3 Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh 12
1.3.4 Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế 14
1.3.5 Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước 14
1.4 Thách thức đối với nền kinh tế và pháp luật Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 15
1.4.1 Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay 15
1.4.2 Những nguy cơ của Việt Nam khi tham gia kinh tế quốc tế và khu vực 18
1.4.3 Thách thức đối với hệ thống pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 22
1.5 Điều kiện để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế 23
1.5.1 Lợi thế cơ bản của nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế: 23
1.5.1.1 Vị trí địa lý thuận lợi 23
1.5.1.2 Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng 24
1.5.2 Nhiệm vụ cần phải thực hiện khi tham gia hội nhập 25
CHƯƠNG 2: 26
THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA VIỆT NAM 26
2.1 Quan điểm, mục tiêu của đảng về hội nhập kinh tế quốc tế 26
2.1.1 Quan điểm 26
2.1.2 Mục tiêu 28
2.2 Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 28
2.3 Thực trạng pháp luật Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 29
3.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế 29
2.3.2 Một số kết quả đã đạt được 30
CHƯƠNG 3: 32
QUAN ĐIỂM CÓ TÍNH CHỈ ĐẠO VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 32
3.1 Tầm vĩ mô 32
3.1.1 Hệ thống pháp luật phải đồng bộ 32
3.1.2 Điều chỉnh một số chính sách 32
3.1.3 Cải cách thủ tục hành chính 32
3.2 Tầm vi mô 33
C. PHẦN KẾT LUẬN 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 37
Hội nhập kinh tế quốc tế với nâng cao năng lực cạnh tranh ở Việt Nam
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1839 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hội nhập kinh tế quốc tế với nâng cao năng lực cạnh tranh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu hoá đem lại.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nứoc mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Em xin chọn đề tài: "Hội nhập kinh tế
quốc tế với nâng cao năng lực cạnh tranh ở Việt Nam". Đây là đề tài rất sâu rộng, mang tính thời sự. Đã có rất nhiều nhà kinh tế đề cập đến vấn đề này. Bản thân em, một sinh viên năm thứ ba, khi được giao viết đề tài này cũng cảm thấy rất hứng thú và say mê. Tuy nhiên do sự hiểu biết còn hạn chế nên em chỉ xin đóng góp một phần nhỏ suy nghĩ của mình. Bài viết còn có rất nhiều sai sót, em kính mong cô giúp đỡ em hoàn thành bài viết tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
2.Mục đích của đề tài
Việc nghiên cứu và viết báo cáo kiến tập thực tế là một nhiệm vụ của sinh viên Luật năm thứ 3 trong chương trình đào tạo Đại học Luật. Qua đó, giúp cho sinh viên hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý, hệ thống hóa những kiến thức đã được truyền đạt của giảng viên qua những bài giảng, giáo trình và các tài liệu tham khảo khác. Đồng thời, việc nghiên cứu cũng sẽ giúp sinh viên có sự liên hệ giữa lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện tốt phương pháp học tập “học phải đi đôi với hành” để nâng cao hiệu quả của việc học tập hiện tại cũng như quá trình làm việc sau này.
Do tính đa dạng, phức tạp của vấn đề, cùng thời gian kiến tập không được nhiều, nguồn tài liệu còn hạn chế…nên niên luận khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong nhận được sự hướng dẫn, nhận xét của quý thầy cô, và sự đóng góp của các bạn lớp Luật K31 để đề tài này được hoàn chỉnh hơn.
3.Ý nghĩa của đề tài
Qua việc nghiên cứu đề tài giúp chúng ta có cơ hội tìm hiểu về xu thế phát triển của nền kinh tế của quốc gia, có một cái nhìn tổng quát hơn về xu thế họi nhập của nền kinh tế thế gới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Đó là một quá trình mang tính lịch sử lâu dài chứ không phải chỉ trong ngày một ngày hai.Bởi vậy các quốc gia khi tham gia vào quá trình đó đề phải phát huy sức mạnh một cách toàn diện và phải đáp ưng được những đòi hỏi của thời đại mới.
4.Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu một cách tổng quát tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam,những thuận lợi và khó khăn của nước ta trong tiến trình hội nhập.Từ đó Đảng và nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách để nhăm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam
5.phương pháp nghiên cứu
Với phương châm nghiên cứu đề tài một cách toàn diện, có hệ thống, chúng ta luôn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Đặt sự vật, hiện tượng trong một trạng thái động theo mối quan hệ biện chứng để từ đó phân tích đánh giá vấn đề một cách khách quan trong tinh thần thấm nhuần các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề hội nhập kinh tế với nâng cao năng lực cạnh tranh ở Việt Nam.Từ đối tượng nghiên cứu đã trình bày ở trên nên phương pháp nghien cứu đươc áp dung trong quá trình nghiên cứu là :
ØPhương pháp tổng hợp – liệt kê
ØPhương pháp phân tích – so sánh
ØPhương pháp chứng minh
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm:
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả.
1.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế:
1.2.1 Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế:
Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung.
Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập:
- Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các nước, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển.
1.2.2 Nội dung của hội nhập (chủ yếu là nội dung hội nhập WTO):
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau, thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư:
- Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như QUOTA, giấy phép xuất khẩu..., biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận...
- Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thong qua liên doanh, hiện diện.
- Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ lệ nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ, khuyến khích tự do hoá đầu tư...
1.3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam:
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang 1 trong những vẫn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thông và tin học, thì giữa các quốc gia ngày càng có mối liên kết chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Xu hướng toàn cầu hoá được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới. Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới ngày càng gia tăng. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, giá trị trao đổi buôn bán trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ.
Về tài chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức kinh tế quốc tế là một phần của quốc tế hoá. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các nước phát triển mạnh hơn nữa. Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hoá các nước giàu luôn có những lợi thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá trình hội nhập. Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc với nền kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn. Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu thế phát triển tất yếu, nhận thức được những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại, Việt Nam, một bộ phận của cộng đồng quốc tế không thể khước từ hội nhập. Chỉ có hội nhập Việt Nam mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo ra những thuận lợi phát triển kinh tế. Chính vì vậy mà đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1991 đã đề ra đường lối chiến lược: “ Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại “. Đến đại hội đảng VIII, nghị quyết TW4 đã đề ra nhiệm vụ: ” giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mới, hội nhập với khu vực và thế giới “.
1.3.2 Thời cơ đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập:
Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại mà Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạo để nền kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc năm châu.
1.3.2.1 Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam:
Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nước thành viên cũng đã tăng đáng kể. Năm 1990, Việt Nam đã xuất khẩu sang ASEAN đạt 348,6 triệu USD, nhưng đến năm 1998 đạt 2349 triệu USD. Nếu thực hiện đầy đủ các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có xuất xứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả các thị trường các nước ASEAN. Nếu sau 2000 nước ta gia nhập WTO thì sẽ được hưởng ưu đãi dành cho nước đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ với 132 nước thành viên của tổ chức này. Do vậy, hàng của ta sẽ xuất khẩu vào các nước đó dễ dàng hơn. Đối với các nước EU cũng vậy, tiềm năng mở rộng thị trường hàng hoá Việt Nam tại các nước đó là rất lớn. Dĩ nhiên nước ta có bán được hàng ra bên ngoài hay không còn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mẫu mã...hay nói cách khác là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ra sao? Nếu hàng hoá Việt Nam có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, giá thành rẻ...thì việc chiếm lĩnh thị trường thế giới là tất yếu.
Nhưng do hiện nay nước ta còn thiếu vốn, khoa học kĩ thuật chưa được cải tiến đồng bộ, do đó chất lượng hàng hoá chưa cao, giá thành chưa rẻ, mặc dù có được hưởng những ưu đãi về thuế.
1.3.2.2 Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế:
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Hiện nay đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có nhều công ty và tập đoàn lớn, có công nghệ tiên tiến. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng công nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất và tạo nên công ăn việc làm. Tuy nhiên, kể từ giữa năm 1997 đến nay, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta có hướng suy giảm. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tăng nhanh. Nếu như năm 1991 đạt 52 triệu USD thì năm 1997 là 1790 triệu USD.
- Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hoá quan hệ tài chính của Việt Nam, các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế đã tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Tính đến 1999, tổng số vốn viện trợ phát triển cam kết đã đạt 13,04 tỉ USD. Tuy nhiên, vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là tình trạng giải ngân chậm và việc nâng cao hiêu quả của việc sử dụng nguồn vốn ODA.
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ Việt Nam:
Trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước.
1.3.2.3. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh:
- Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả . Qua đó mà các kĩ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh quốc tế có thể công nghệ này là cũ đối với một số nước phát triển, nhưng lại là mới, có hiệu quả tại một nước đang phát triển như Việt Nam. Do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới.
Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng...và những xí nghiệp liên doanh trong ngành công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó.
Dĩ nhiên ngoài việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến bộ kĩ thuật và công nghệ, nước ta vẫn có thể sử dụng ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu để nhập công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song vì nước ta còn nghèo, dự trữ ngoại tệ rất hạn hẹp,kinh nghiệm tiếp cận thị trường bên ngoài chưa nhiều, trình độ thẩm định công nghệ lại kém và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh với công nghệ cao còn yếu cho nên còn đường thích hợp hơn với nước ta hiện nay là tiếp tục đổi mới cơ chế và chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để lấy lại nhịp độ gia tăng thu hút đầu tư trực tiếp như những năm trước, qua đó tiếp nhân và chuyển giao công nghệ có hiệu quả hơn.
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Bởi mỗi khi liên doanh hay liên kết hay được đầu tư từ nước ngoài thì từ người lao động đến các nhà quản ký đều được đào tạo tay nghề, trình độ chuyên môn được nâng cao. Chỉ tính riêng trong các công trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 600 cán bộ quản lý và 25000 cán bộ khoa học kĩ thuật đã được đào tạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tính đến năm 1999 Việt Nam đã đưa 7 vạn người đi lao động ở nước ngoài.
1.3.2.4. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế.
Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các hoạt động hội nhập. Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và các nước Đông Âu, nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 166 quốc gia trên thế giới. Với chủ trương coi trọng các mối quan hệ với các nước láng giềng và trong khu vực Châu á Thái Bình Dương. Chúng ta đã bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực Đông Nam á. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường quốc tế hoà bình, ổn định nhằm tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Ngoài ra đối với Mĩ chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1955. Tháng 7 Việt Nam, Mĩ đã kí kết hiệp định thương mại, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình bình thường hoá nối quan hệ kinh tế giữa hai nước.
1.3.2.5. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước:
Với dân số khoảng 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào.
Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thong qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà t a chưa có.
1.4. Thách thức đối với nền kinh tế và pháp luật Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự thua thiệt về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược thông minh, chính sách không khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được lợi ích nhiều hơn cho đất nước.
1.4.1. Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay:
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng về tăng trưởng kinh tế. Song chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp.
1.4.1.1. Tình trạng phổ biến hiện nay là sản xuất còn mang tính tự phát, chưa bám sát nhu cầu thị trường. Nhiều sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí có nhiều sản phẩm cung vượt quá cầu, hàng tồn kho lớn. Năng lực cạnh tranh hang hoá, dịch vụ của nước ta nói chung còn thấp do trang thiết bị công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 30 năm, cộng thêm những yếu kém về quản lý, môi trường đầu tư kinh doanh (thủ tục hành chính chưa thông thoáng, chính phủ đầu tư quá cao so với các nước trong khu vực), hạn chế về cung cấp thông tin xúc tiến thương mại.
1.4.1.2. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỉ lệ số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều thực trạng tài chính của nhiều doanh nghiệp thực sự đáng lo ngại: nhìn chung thiếu vốn, nợ nần kéo dài, tổng số nợ phải thu của các doanh nghiệp chiếm 24% doanh thu, nợ phải trả chiếm 133% tổng số vốn nhà nước các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không xác định tự lực phấn đấu vươn lên mà còn dựa vào sự hỗ trợ, bảo hộ của nhà nước, chưa tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Tuy nhiên không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các doanh nghiệp mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp còn lớn đang làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ có thể giảm chi phí đầu vào bằng cách đầu tư công nghệ mới, thay đổi phương thức quản lý triệt để tiết kiệm. Song họ không thể ngăn chặn được sự gia tăng của chi phí đầu vào do sự leo thang giá cả của không ít loại vật tư, nguyên liệu, điện nước, cước phí giao thông, viễn thông. Nhất là cước phí của các ngành có tính độc quyền. Chẳng hạn như giá truy cập internet trực tiếp có mức cước cao hơn các nước trong khu vực là 139%...Thêm vào đó hầu hết các sản phẩm của ta dù để xuất khẩu hay tiêu dùng đều phải nhập ngoại nguyên, phụ liệu nên chi phí đầu vào cao. Đã vậy hàng nhập khẩu ngoài việc phải chịu thuế nhập khẩu còn phải chịu thuế VAT dù chưa có giá trị tăng thêm. Trong khi đó thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng lại chậm, do vậy làm khó khăn cho doanh nghiệp về vòng quay vốn, chịu lãi suất ngân hàng. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải chịu chi phí do sự sách nhiễu của một số cán bộ nhà nước thoái hoá biến chất. Hơn nữa sự rườm rà về thủ tục hành chính, thanh kiểm tra chồng chéo cũng làm tăng chi phí đầu vào của các doanh nghiệp. Do chi phí đầu vào cao nên giá thành sản phẩm quá cao so với khu vực và thế giới, dẫn đến ứ đọng, khó tiêu thụ, năng lực sản xuất không khai thác hết làm cho nhiều doanh nghiệp thua lỗ.
Điều đáng lo ngại nữa hiện nay là mặc dù thời điểm hội nhập với khu vực và thế giới đang đến gần, song tư tưởng đòi bảo hộ, chưa tích cực chuẩn bị còn phổ biến ở nhiều doanh nghiệp. Theo điều tra của phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam mới có 84% doanh nghiệp điều tra trả lời là có nhận được tin về hội nhập, 16% doanh nghiệp chưa có hiểu biết về quá trình hội nhập. Trong các doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng hoá xuất khẩu, 13,7% doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu và 62,5% doanh nghiệp hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu. Việc Trung Quốc, Đài Loan gia nhập WTO, việc 6 nước thành viên ASEAN cũ thực hiện AFTA từ 1/1/2002 và gần đây Nhật Bản kí thoả thuận với Singapo về thành lập khu vực tự do thương mại giữa hai nước, cũng như kế hoạch thành lập khu vực tự do thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN vào 2010 sẽ tạo ra 1 số tuận lợi, song sẽ làm tăng cạnh tranh gay gắt về kinh tế giữa các nước trong khu vực cũng như đối với nền kinh tế nước ta về thương mại, đầu tư.
1.4.1.3. Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải tiến song nhìn chung còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn: khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực của một số tổng công ti nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, sự thiếu minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa thong thoáng. Các thể chế thị trường như thị trường vốn, sức lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản...còn sơ khai, chưa hình thành đồng bộ.
1.4.1.4. Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dao nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao động rẻ có xu hướng đang mất dần:
Trước mắt, do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường rộng lớn nên ngành may mặc và giầy da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất trong nhóm năm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên lợi thế về nhân công rẻ đang mất dần và giá nhân công các ngành này hiện đang cao hơn một số nước trong khu vực. Hơn thế nữa, để đào tạo nghề, nâng cao kĩ năng, trình độ tay nghề cần phải chi phí đầu tư lớn, điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá.
Như vậy nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, sức cạnh tranh thấp.
1.4.2. Những nguy cơ của Việt Nam khi tham gia kinh tế quốc tế và khu vực:
1.4.2.1. Nếu như những ưu đãi về hàng rào thuế quan và xoá bỏ phí thuế quan tạo điều kiện để nước ta mở rộng thị trường xuất khẩu ra các nước thì nó cũng gây ra những thách thức khá nghiêm trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam: Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế quan và gỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hàng hoá nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo thoe hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Bởi hàng hoá Việt Nam do kĩ thuật và công nghệ và quản lý còn kém nên chất lượng thấp, giá thành lại cao. Trong khi đó, nước ngoài với dây chuyền công nghệ hiện đại, tay nghề lao động vững vàng, trình độ quản lý cao, vốn lớn nên sản phẩm làm ra mẫu mã đẹp, chất lượng tốt lại không phải nộp thuế khi xuất khẩu sang thị trường Việt Nam nên giá thành phù hợp. Sức cạnh tranh bấp bênh của các doanh nghiệp trong nước được thể hiện rõ. Ví dụ đường của ta xuất xưởng năm 1999 là 340 – 400 USD/tấn nhưng giá nhập khẩu chỉ có 260 – 300 USD/tấn (giá nhập khẩu rẻ hơn giá xuất xưởng 20 – 30%), giá săt thép trong nước sản xuất bình quân 300 USD/tấn nhưng nhập khẩu chỉ 285 USD/tấn, giá xi măng Việt Nam là 840 ngàn đồng/tấn trong khi nhập khẩu chỉ có 630 ngàn đồng/tấn. Với vấn đề trên, nhiều doanh nghiệp trung bình và yếu kém thường đòi hỏi nhà nước thi hành chính sách càng lâu càng tốt. Tuy nhiên nếu đứng từ góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài của quốc gia mà xem xét thì nhà nước không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi của các doanh nghiệp đó. Bởi Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại. Khi đã tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới. Hơn nữa, việc thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch luôn là con dao hai lưỡi. Một chính sách bảo hộ có chọn lọc có điều kiện có thời hạn thích hợp thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn trương đổi mới, tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn. Trái lại, một chính sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành gậy ông đập lưng ông gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội. Chẳng hạn như việc hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng năm 1999, làm cho giá xi măng thông dụng cao hơn giá xi măng nhập khẩu chưa có thuế là 50%. Do đó năm 1999, toàn bộ xã hội phải trả thêm 220 triệu USD để bảo hộ ngành xi măng, trong đó gần 1/2 số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá thương mại tức là chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nước khác. Nhưng hiện tại chúng ta vẫn còn tụt hậu khá xa về kinh tế (nhất là trình độ công nghệ và thu nhập bình quân đầu người) so với các nước trong các tổ chức kinh tế mà ta sẽ và đã tham gia. Chẳng hạn so vơi AFTA, thu nhập bình quân đầu người của ta chưa bằng 1/3 của Indonexia, 1/100 của Singapo...Đây là một thách thức, bất lợi lớn đòi hỏi ta phải có nỗ lực và quyết tâm cao. Đã vậy, trên thị trường thế giới ta mới chỉ xuất khẩu các mặt hàng sơ chế như: dầu thô, gạo, cà phê...còn các sản phẩm công nghiệp chế biến nhất là sản phẩm chất lượng cao còn ít, sức cạnh tranh yếu. Trong khi đó giá mặt hàng nguyên liệu và sơ chế lại bấp bênh hay bị tác động xấu, bất lợi cho nước xuất khẩu.
1.4.2.2. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ ảnh hưởng đến quyền độc lập tự chủ của một quốc gia: Không it ý kiến cho rằng: nước ta hiện nay với xuất phát điểm kinh tế quá thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, thị trường phát triển chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế chưa thoát khỏi lối sản xuất hang hoá nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém. Trong khi đó các nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt. Do đó nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó thì nước ta khó tránh khỏi sẽ bị lệ thuộc về kinh tế, và từ chỗ lệ thuộc về mặt kinh tế có thể đi đến không giữ vững được quyền độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về thực chất là mỗi nước cần có sự tự lựa chọn còn đường và mô hình phát triển của mình, tự quyết định các chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong từng thời kì và các biện pháp thực hiện mục tiêu đó. Nhưng độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng cửa với thế giới. Nếu đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển. Khi tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được sớm khắc phục thì sẽ làm xói mòn lòng tin của nhân dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo ra nguy cơ tư bên trong đối với trật tự an toàn xã hội. Trái lại, mở rộng hợp tác kinh tế hai bên cùng có lợi, nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế đan xen lợi ích với nhau, chúng ta sẽ có thêm thế lực để củng cố độc lập tự chủ của đất nước. “ Quốc gia nào muốn độc lập và giàu mạnh thì phải buôn bán với nhiều nước, còn quốc gia nào chỉ buôn bán với một nước thôi thì khó tránh khỏi bị phụ thuộc vào nước duy nhất ấy “ (Jose Marti)
1.4.2.3 Hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng tới bản sắc văn hoá dân tộc:
Xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập với quốc tế thông qua “ siêu lộ “thông tin với mạng internet, một mặt tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc, cộng đồng ở mọi nơi có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hang hoá, dịch vụ, kiến thức...Qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, mở mang sự hiểu biết về văn hoá của nhau. Mặt khác, quá trình trên cũng làm nảy sinh mối nguy cơ ghê gớm về sự đồng hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ, làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của nhân loại. Nguy cơ nói trên lại càng tăng gấp bội khi một siêu cường nào đó tự xem giá trị văn hoá của mình là ưu việt, từ đó nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là xâm lược văn hoá với nhiều biện pháp trắng trợn tinh vi. Trước tình hình đó chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa, khước từ giao lưu, trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Ngược lại, chúng ta, với bản lĩnh vốn có của dân tộc: “ hoà nhập chứ không hoà tan “, tiếp thu những yếu tố nhân bản, hợp lí, khoa học tiến bộ của văn hoá các nước để làm giàu bản sắc văn hoá dân tộc. Đây sẽ là nhân tố khơi dậy tiềm năng sáng tạo làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên chúng ta cũng tỉnh táo phản đối những văn hoá ngoại lai không phân biệt tốt hay xấu dẫn đến mất gốc, lai căng về văn hoá gây hậu quả xấu về tư tưởng đạo đức của các tầng lớp dân cư. Như vậy chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu tú của văn hoá dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại thì văn hoá Việt Nam ngày nay mới có thể đóng được vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực và sẽ điều tiết sự phát triển của kinh tế xã hội.
1.4.3.Thách thức đối với hệ thống pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu cấp bách trong mọi lĩnh vực trong đó có việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật. Trong thơi gian qua mặc dù đã có nhiều nổ lực để hoàn thiện khuôn bkhoor pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
Trước hết phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. Các nước ngày càng có xu hướng ít sử dụng những biện pháp bảo hộ mang tính lộ liễu như áp đặt lệnh cấm hạn chế số lượng hoặc áp đặt thuế suất nhập khẩu cao. Thay vào đó các biện pháp bảo hộ được lồng vào những lý do chính đáng như để bảo vệ những ngày sản xuất trong nước trước những hành động thương mại không lành mạnh. Các nước phát triển áp dụng chính sách bảo hộ nông nghiệp của mình cộng với hàng rào kỹ thuật về an toàn thực phẩm, môi trường, lạm dụng luật chống bán phá giá, tự vệ, chống trợ cấp, thủ tục hải quan, ghi nhãn mác…
Các quy định về an toàn thực phẩm trong thương mại quốc tế hiện cũng là một rào cản lớn đối với hàng xuất khẩu, nổi bật là hàng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, những quy định về dư lượng kháng sinh…tất cả những điều này tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh trên trường quốc tế và gây khó khăn không nhỏ cho Việt Nam. Về phía chúng ta chưa co kinh nghiệm về thiết lập cơ chế cũng như điều kiện để xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm soát.
Tóm lại, để góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, chúng ta phải sớm có được một chiến lược lập pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống luật kinh tế nói riêng. Đồng thời nâng cao chất lượng nghiên cứu biên soan các dự án luật, pháp lệnh nhằm đảm bảo tính khoa học, tính thống nhất của caccs văn bản. Trong việc nghiên cứu chuẩn bị các dự án phải tổng kết thực tiễn một cách đầy đủ, kết hợp với việc kết hợp vận dụng kinh nghiệm nước ngoài co chọn lọc phù hợp với thực tiễn và hệ thống pháp luật Việt Nam. Đồng thời phải loại dần các quy định chung, thiếu cụ thể, xây dựng các quy định dễ hiểu, dễ thưc hiện tiến tới xây dựng các đạo luật với các quy định chi tiết đầy đủ góp phần giảm bớt việc ban hành các văn bản hướng dẫn kèm theo. Mặt khác cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu dư luận xã hội về việc ban hành và thực hiện luật, pháp lệnh. Gắn công tác xây dựng luật, pháp lệnh với việc giám sát, thi hành.
1.5. Điều kiện để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế :
1.5.1 Lợi thế cơ bản của nước ta khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế:
- Vị trí địa lý thuận lợi
Bản chất kinh tế của vị trí địa lý là địa tô chênh lệch. Vị trí địa lý thuận lợi sẽ cho phép thu được địa tô chênh lệch cao và ngược lại, vị trí địa lý không thuận lợi chỉ đem lại địa tô chênh lệch thấp. Vị trí địa lý thuận lợi là lợi thế “so sánh” - là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế.
Nước ta có một vị trí địa lý rất thuận lợi đó là:
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam á, là nơi gặp gỡ của những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh tạo nên tự nhiên Việt Nam phong phú và đa dạng. Điều này có tác động sâu sắc đến cơ câu, quy mô và hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
- Việt Nam nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương, trở thành một đầu mối giao thông quan trọng từ ấn Độ Dương tới Thái Bình Dương. Vị trí này cho phép nước ta có thể dễ dàng phát triển các kinh tế thương mại, văn hoá, khoa học kĩ thuật với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Việt Nam nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nhất thế giới. Điều này tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động phát triển kinh tế. Việt Nam có điều kiện giao lưu với những thị trường sôi động, học hỏi được những kinh nghiệm quý báu của các “ con rồng Châu á “.
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng:
Việt Nam có nhiều loại tài nguyên thiên nhiên, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế lớn nhưng chưa được khai thác hoặc khai thác ở mức độ thấp, sử dụng chưa hợp lý. Đây là nguồn lực bên trong để phát triển kinh tế, đồng thời là đối tượng đầu tư của Tư Bản nước ngoài.
- Tài nguyên nhân văn phong phú: bao gồm lực lượng lao động dồi dào và những hệ thống giá trị do con người tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử của dân tộc. Đây là đối tượng đầu tư phát triển rất quan trọng của Tư Bản nước ngoài
Những lợi thế trên đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tiến vào thế giới.
1.5.2. Nhiệm vụ cần phải thực hiện khi tham gia hội nhập:
Trong nghị quyết, bộ Chính Trị đã nêu 9 nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:
- Tuyên truyền, giải thích rộng rãi để đạt được nhận thức và hành động thông nhất trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, doanh nghiệp và nhân dân.
- Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể.
- Chủ động và khẩn trương sử dụng cơ cấu kinh tế.
- Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nên kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chính trị, có đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ.
- Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại.
- Gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố quốc phòng an ninh.
- Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
- Kiện toàn uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1 Quan điểm, mục tiêu của đảng về hội nhập kinh tế quốc tế:
2.1.1. Quan điểm:
Nhận thức được xu thế và yêu cầu chung về toàn cầu hoá của thời đại, đại hội VI của Đảng (12/1996) trong khi ký quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN; thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao đông quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học kĩ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Trong nghị quyết 07, Bộ Chính Trị đã nêu ra quan điểm chỉ đạo về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế:
- Quán triệt chủ trương được xác định tại đại hội Đảng IX: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp toàn dân, quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; vừa đề phòng tư tưởng thụ động vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng...
- Đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của đất nước.
2.1.2.Mục tiêu
Bộ Chính Trịnh: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN; thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, trước mắt là thực hiện kế hoạch nhiệm vụ đưa ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005.”
2.2. Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện những mục tiêu theo những quan điểm trên, chính phủ đã ban hành những chính sách nhằmm thúc đẩy tiến trình hội nhập.
- Nhà nước ban hành hệ thống luật đồng bộ bao gồm: luật đầu tư, luậ lao động, luật thương mại, luật ngân hàng, luật hải quan, luật bưu chính viễn thông, luật xây dựng, luật khoa học công nghệ, luật tài nguyên...Sửa đổi và bổ sung pháp luật và pháp lệnh hiện hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam...Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật...
- Đối với những chính sách: Nhà nước ban hành chính sách thương mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư...để kích thích mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp...tạo điều kiện cho nước ta hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam:
3.1.Thực trạng pháp luật Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
Việt Nam vừa là một nước đang phát triển, vừa là một nước đang chuyển từ một nền kinh tế hoạch định qua nền kinh tế thị trường. Điều nay có nghĩa là hệ thống luật pháp Việt Nam hiện nay đang trong tình trạng luôn luôn biến chuyển.
Sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về kinh tế là quá trình gắn liền với việc thực hiện đường lối đổi mới từ những năm 1980 do Đảng ta khởi xương và lãnh đạo thực hiện.Cơ sở pháp lý cho nghành kinh tế có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam(1987), luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân(1990). Các văn bản này về mặt pháp lý đã có những điểm mới so với những quy luật hiện hành.Sau khi hiến pháp được ban hành, Quốc hội đã ban hành những luật , pháp lệnh liên quan đến các lĩnh vực kinh tế_xã hội. Xét về số lượng các luật kinh tế đã chiếm đến 60%, pháp lệnh 30% tổng số luật, pháp lệnh dược ban hành trong thời gian qua.
Các văn bản được ban hành trên diện rộng đã tạo hành lang pháp lý tương đối toàn diện cho các thành phần kinh tế, giải phóng mọi năng lực sản xuất, thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại, khuyến khích đầu tư nước ngoài, chuyển mạnh sang quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật. Có thể đánh giá một cách khái quát rằng, trong vòng 10 năm qua(từ 1992 đến nay) chúng ta đã xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật về kinh tế tương đối đầy đủ. Mặc dù còn nhiều khiếm khuyết nhưng về cơ bản đã tích cực cho việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, huy đọng và sử dụng hiệu quả các nguồn nhân lực.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn một số hạn chế. Mặc dù chúng ta đã ban hành được các văn bản như đã nói nhưng chúng vẫn còn có những điểm chưa thong nhất làm cản trở đến các hoạt động kinh tế. Các nước còn e ngại khi đầu tư vào Việt Nam do hệ thống pháp luật nước ta còn rườm ra, ngay trong các điều luật cũng có những điểm chưa thống nhất. Khi các luật và pháp lệnh ban hành rất nhiều cũng nói lên chúng ta còn có một cách nhìn thiển cận, chưa có tầm nhìn xa.
Để bắt nhịp được với thế giới chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều về mọi mặt, phải làm sao để hệ thống pháp luật của chúng ta ngaỳ càng hoàn thiện, tăng cường xây dựng các hiệp định song phương, đa phương nhằm rút ngăn khoảng cách pháp lý giứa các quốc gia với nhau.
2.3.2 Một số kết quả đã đạt được:
Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam đã kí kết một số hiệp định: hiệp định khung Việt Nam – EU, hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU, hiệp định Việt – Mĩ...tham gia một số tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như: ASEAN, APEC...đã đưa đến cho Việt Nam những thành quả kinh tế rất cao. Thông qua các hiệp ước song phương và đa phương đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 154 nước ở khắp các châu lục. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng từ 677,8 Rup/USD năm 1986 lên 14,3 tỉ USD năm 2000. Trong cùng thời gian, kim ngạch nhập khẩu tăng từ 1,83 tỉ Rup/USD lên 15,2 tỉ USD. Từ chỗ nhập siêu tương đối lớn vào cuối những năm 80 đến nay, cán cân xuất nhập khẩu gần đạt đến độ cân bằng. Từ chỗ có rất ít mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD đến cuối những năm 90 nước ta đã có những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD như dầu thô, gạo, hàng dệt may, giày dép, chế biến thuỷ sản. Thông qua các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, hàng hoá Việt Nam chiếm thị phần ngày càng lớn, tăng tính đổi mới để cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài...
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM CÓ TÍNH CHỈ ĐẠO VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
3.1. Tầm vĩ mô:
3.1.1. Hệ thống pháp luật phải đồng bộ:
- Tham gia vào hội nhập kinh tế với những nguyên tắc cơ bản của các tổ chức kinh tế, chúng ta phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ và chặt chẽ để đảm bảo thực hiện những nguyên tắc đó. Nhà nước phải đề ra những bộ luật rõ ràng, cụ thể về đầu tư, thuế xuất nhập khẩu, quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong và ngoài nước...Có như vậy mới tạo ra được một môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế.
3.1.2. Điều chỉnh một số chính sách:
Một nền kinh tế muốn phát triển được không chỉ dựa vào những điều kiện tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà còn cần phải có những quan điểm chỉ đạo, chính sách cải cách kinh tế hợp lý. Những chính sách đó bao gồm trên tất cả các lĩnh vực: thương mại – dịch vụ, đầu tư, tài chính – tiền tệ...
3.1.3. Cải cách thủ tục hành chính:
Hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường nhưng tự do trong khuôn khổ của pháp luật và theo định hướng XHCN. Vì vậy, nền kinh tế vẫn còn nhiều rườm rà gây cản trở việc thực hiện một số dự án kinh tế quan trọng. Chẳng hạn như một công ty muốn xin giấy phép xuất khẩu phải trải qua rất nhiều “ cửa “. Mỗi cửa lại phải tốn một chi phí gọi là “ làm luật “. Điều đó không chỉ làm tăng chi phí của công ty mà nhiều khi làm cho doanh nghiệp để tuột mất thời cơ vì khi xin được giấy phép xong thì đã quá muộn. Hay tình trạng nhiều cơ quan chức, năng nhiệm vụ chồng chéo lên nhau dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm khiến cho các doanh nghiệp nhiều khi không biết kiến nghị hoặc kiện tụng ai. Do đó, chính phủ cần phải có những biện pháp cải cách thủ tục hành chính như:
- Cụ thể hoá sự phân cấp quản lý giữa các cơ quan của chính phủ với các cấp chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với yêu cầu nâng cao hiệu lực chỉ đạo, điều hành thống nhất và thông suốt của hệ thống tài chính nhà nước và thủ trưởng cơ quan hành chính.
- Khắc phục tình trạng nhiều đoàn kiểm tra, thanh tra chồng chéo lên nhau gây phiền hà tốn kém cho cơ sở.
3.2. Tầm vi mô:
Như chỉ có những chính sách của nhà nước mà không có sự hợp tác của các doanh nghiệp thì Việt Nam vần chưa đủ điều kiện để hội nhập. Do vậy doanh nghiệp cũng là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình hội nhập. Theo nhiều ý kiến hiện nay, Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế, tiến hành kí kết các hiệp định một mặt mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp Việt Nam nhưng mặt khác nó lại là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình cạnh tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhơ, quy mộ sản xuất không lớn, thiếu vốn, công nghệ chưa được cải tiến đồng bộ...do vậy chất lượng hàng hoá thấp nhưng giá thành lại cao. Hơn nữa nhiều doanh nghiệp lại quen với “ vòng tay bảo hộ “ của nhà nước nên thụ động với nền kinh tế thị trường. Như vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam là thách thức lớn nhất đối với vấn đề hội nhập của nước ta. Vấn đề đặt ra là phải làm gì và làm như thế nào để phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả đất nước, vận dụng có hiệu quả cơ hội, giảm thiểu những thách thức do hội nhập đem lại. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng một kế hoạch dài hạn với những biên pháp cụ thể cải tạo tình hình hướng tới phát triển. Các biện pháp đó có thể là:
- Các doanh nghiệp phải nắm bắt và vận dụng sáng tạo các thành tựu khoa học công nghệ mới vào quy trình sản xuất kinh doanh: đổi mới dây chuyền công nghệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp giảm được chi phí đầu vào, từ đó hạ được giá thành sản phẩm mà chất lượng lại cao. Những tiến bộ về khoa học công nghệ còn giúp cho doanh nghiệp giảm được số lao động trực tiếp sản xuất, dẫn tới giảm nhân công và tăng lương cho người lao động.
- Các doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi thực trạng của thị trường: khảo sát nhu cầu của thị trường, xác định lượng cung, lượng cầu để có kế hoạch sản xuất. Bởi hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục sản xuất các sản phẩm với giá trị gia tăng thấp trong khi nhu cầu thị trường đã có sự chuyển đổi. Để khảo sát được thị trường, doanh nghiệp có thể tổ chức các đợt tiếp thị, quảng cáo sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cần có tầm nhìn dài đón đầu được xu hướng thay đổi thị trường khu vực và thế giới.
- Các doanh nghiệp còn phải coi trọng cải tiến quản lý tài chính. Các chế định tài chính cần được củng cố vững mạnh và có công nghệ hiện đại đủ sức cạnh tranh các dịch vụ tài chính với các định chế tài chính nước ngoài để doanh nghiệp và nhà đầu tư trong nươc không tìm kiếm dịch vụ nước ngoài.
- Một vấn đề quan trọng nữa hiện nay đối với các doanh nghiệp là nâng cao tay nghề của người lao động. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận với công nghệ hiện đại, tổ chức đào tạo nghiệp vụ qua trường lớp. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của người lao động để người lao động có đủ điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Nói tóm lại, những giải pháp cả ở tầng vĩ mô và vi mô chư trên mà được thực hiện tốt thì trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ mở rộng thị trường mạnh mẽ trên thế giới.
PHẦN KẾT LUẬN
Thế kỉ 21 đang bước những bước đi đầu tiên. Quá trình hội nhập của Việt Nam trong thế kỉ 21 – thế kỉ của công nghệ thông tin cũng đang dần được mở rộng. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thực sự là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể phát triển kinh tế và hoàn thành sứ mệnh “ sánh vai với các cường quốc năm châu “. Bởi Việt Nam không chỉ là đi theo xu hướng chung của thời đại mà còn tìm kiếm những thời cơ cho đất nước.
Việt Nam hộ nhập với thế giới sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận lợi. Đó không chỉ đơn thuần là mở rộng giao lưu với các nước mà còn là minh chứng cho sự khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế. Từ việc mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư...làm cho doanh nghiệp có thị phần ngày càng rộng lớn trên thế giới. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập cũng không tránh khỏi những khó khăn, thử thách như: hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ đe doạ đến sự tồn tại của một số doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng tới chính trị, văn hoá của một quốc gia...Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ đi thời cơ của mình.
Trái lại, chúng ta “ hoà nhập chứ không hoà tan ”, các doanh nghiệp Việt Nam không tự chôn mình mà tìm những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh. Nói một cách chung nhất, chúng ta hãy tranh thủ thời cơ, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh quá trình chủ động hội nhập hơn nữa. Chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước phải thấy được tầm quan trọng của vấn đề hội nhập đối với sự phát triển của quốc gia. Từ đó thực hiện tôt trách nhiệm của mình để góp phần vào sự tiến bộ của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
8. Chân trới mới trong thương mại tự do – tương lai của toàn cầu hóa và vai trò nổi lên của châu Á
3. M.Lênin: “ Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản toàn tập – tập 27”
2. Nguyễn Luyện: “ Việt Nam trên đường hội nhập kinh tế thế giới “ (Tạp chí xây dựng số 6 - 2000).
4. Nguyễn Thanh Mai: “ Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập của Việt Nam trước thiên niên kỉ mới “ (Thương mại số 7 - 2000).
7. Nguyễn Xuân Thăng: “ Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” NXB khoa học xã hội, Hà Nội(2007).
5. Phạm Bình Mân: “ Hội nhập kinh tế quốc tế: cơ hội và thánh thức “ (Tạp chí công nghệ Việt Nam số 3 - 2001).
6. Phạm Thị Tuý: “ Toàn cầu hoá và những tác động “ (Nghiên cứu kinh tế số 290 – tháng 7/2002).
1. Văn kiện đại hội đảng VII
Văn kiện đại hội đảng VIII
Văn kiện đại hội đảng IX.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuong.doc