Tiểu luận Khu di tích lịch sử đền Hùng

LỜI MỞ ĐẦU Như ông cha thường nói: “sông có nguồn, cây có cội, con người có tổ có tông”. Từ bao đời nay, trong tâm niệm của người Việt giỗ tổ Hùng Vương là thiêng liêng, cao cả không thể lãng quên: “Dù ai đi gần về xa Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mồng mười Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba Khắp miền truyền mãi câu ca Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”. Câu ca dao đậm đà tình nghĩa ấy đã đi sâu vào lòng người dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong sâu thẳm tâm thức của mỗi người dân đất Việt từ miền ngược đến miền xuôi, từ miền Nam ra miền Bắc, đều có ý thức tìm về cội nguồn của dân tộc. Hàng ngàn năm nay, truyền thống Giỗ Tổ Hùng Vương tưởng nhớ cha Rồng, mẹ Tiên và 18 đời vua Hùng đã trở thành biểu tượng văn hoá tâm linh, tín ngưỡng, điểm hội tụ tinh thần đại đoàn kết của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nơi để đồng bào cả nước và Kiều bào ta ở nước ngoài có điều kiện thắp những nén nhang bày tỏ lòng thành kính của mình trước anh linh của các vị Vua Hùng. Trong chuyến đi thực tập xuyên Việt, hành trình từ thành phố Hồ Chí Minh về Hà Nội và điểm cuối cùng dừng chân là đền Hùng. Chúng tôi thực sự cảm thấy xúc động về bề dầy lịch sử của dân tộc ta, tự hào khi mang trong mình dòng máu con cháu Lạc Hồng và dâng lên một niềm xao xuyến bâng khuâng với những cảm xúc khó tả khi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên nơi đây. Những lớp sương bồng bềnh như dải lụa trắng mềm mại, thanh khiết trải ngang dãy núi, rừng cây làm cho khung cảnh Đền Hùng trở nên kỳ ảo như giữa cõi Bồng lai. Chính tại vùng đất Tổ thiêng liêng này Bác đã để lại cho chúng ta và muôn đời con cháu mai sau một lời dặn dò cô đúc: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước", lời căn dặn của Bác chứa đựng một sự hàm ơn sâu sắc đối với người đã có công "khai quốc", làm sáng ngời truyền thống đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc, đồng thời khẳng định việc giữ gìn giang sơn gấm vóc của cha ông để lại, giữ gìn nền độc lập, tự do mà hàng ngàn năm qua dân tộc ta đã không tiếc máu xương để bảo vệ là trách nhiệm của mọi người Việt Nam. Khu di tích lịch sử đền Hùng là nơi thờ các vị vua hùng đã có công dựng nước – tổ tiên của dân tộc Việt Nam, trải qua bao biến thiên của lịch sử, nơi đây đã hội tụ văn hóa tâm linh, tín ngưỡng phong tục, thể hiện tình cảm ghi nhớ công ơn của các vua Hùng và tinh thần đại đoàn kết của cộng đồng các dân tộc. Nhằm góp phần hiểu sâu sắc về quê cha đất tổ - cội nguồn dân tộc, chúng tôi quyết định chọn khu di tích lịch sử đền Hùng để viết bài báo cáo thực tập. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1972, T.1. 2. Phạm Bá Khiêm, Khu Di Tích Lịch Sử Và Rừng Quốc Gia Đền Hùng, 2008,Nxb sở văn hóa thông tin Phú Thọ, 2008. 3. Ngô Văn Phú, Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng, Nxb Hội nhà văn, 1996. 4. Trần Quốc Vượng, Văn Hóa Việt Nam Tìm Tòi Và Suy Ngẫm, Nxb Văn học hà nội. 5. Trần Văn Giàu, Giá Trị Tinh Thần Truyền Thống Của Dân Tộc Việt Nam, Nxb tp HCM, 1993. 6. Vũ Kiêm Liên, Giới Thiệu Khu Di Tích Lịch Sử Đền Hùng, sở văn hóa thông tin Vĩnh Phú, 1990. Luận văn dài 34 trang, chia làm 3 chương

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 7642 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khu di tích lịch sử đền Hùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c ta, tự hào khi mang trong mình dòng máu con cháu Lạc Hồng và dâng lên một niềm xao xuyến bâng khuâng với những cảm xúc khó tả  khi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên nơi đây. Những lớp sương bồng bềnh như dải lụa trắng mềm mại, thanh khiết trải ngang dãy núi, rừng cây làm cho khung cảnh Đền Hùng trở nên kỳ ảo như giữa cõi Bồng lai. Chính tại vùng đất Tổ thiêng liêng này Bác đã để lại cho chúng ta và muôn đời con cháu mai sau một lời dặn dò cô đúc: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước", lời căn dặn của Bác chứa đựng một sự hàm ơn sâu sắc đối với người đã có công "khai quốc", làm sáng ngời truyền thống đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc, đồng thời khẳng định việc giữ gìn giang sơn gấm vóc của cha ông để lại, giữ gìn nền độc lập, tự do mà hàng ngàn năm qua dân tộc ta đã không tiếc máu xương để bảo vệ là trách nhiệm của mọi người Việt Nam. Khu di tích lịch sử đền Hùng là nơi thờ các vị vua hùng đã có công dựng nước – tổ tiên của dân tộc Việt Nam, trải qua bao biến thiên của lịch sử, nơi đây đã hội tụ văn hóa tâm linh, tín ngưỡng phong tục, thể hiện tình cảm ghi nhớ công ơn của các vua Hùng và tinh thần đại đoàn kết của cộng đồng các dân tộc. Nhằm góp phần hiểu sâu sắc về quê cha đất tổ - cội nguồn dân tộc, chúng tôi quyết định chọn khu di tích lịch sử đền Hùng để viết bài báo cáo thực tập. Khu Di tích lịch sử Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; là nơi thờ các vua Hùng có công dựng nước, Tổ Tiên của dân tộc Việt Nam. Ngày xa xưa vùng đất này là khu vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông giống như hai dãy hào thiên nhiên khổng lồ bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng. Phía đông với các dãy núi non trùng điệp. Vùng đất này có nhiều sông ngòi ao hồ, đồi núi, lại có những cánh đồng màu mỡ phì nhiêu do phù sa của ba con sông bồi đắp, vừa thuận lợi cho cuộc sống định canh định cư, vừa thuận lợi cho việc phòng thủ hay rút lui khi xảy ra các cuộc xung đột bộ lạc. Hiện nay dấu vết cư trú của dân cư thời đại các vua Hùng còn để lại trong hàng chục di chỉ khảo cổ học, được phân bố dày đặc từ huyện Lâm Thao tới ngã ba Bạch Hạc - Việt Trì. Những di chỉ khảo cổ học là minh chứng một thời đại, với nghề luyện kim đồng thau và trồng lúa nước của một nền văn minh nông nghiệp, đã từng tồn tại trước công nguyên hàng nghìn năm. Đền Hùng là trung tâm, là tiêu điểm về thời đại các vua Hùng, các ngôi đền thờ vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh (còn gọi là núi Cả theo địa phương hay các tên khác: núi Hùng, núi Hy Cương), có độ cao 175 mét so với mặt nước biển. Trước kia khu vực này là cánh rừng già nhiệt đới. Ngày nay núi Hùng vẫn giữ dáng vẻ của rừng tự nhiên với nhiều thế hệ cây tầng khác nhau, gồm 150 loài thảo mộc, thuộc 35 họ, trong đó còn lại một số cây đại thụ lớn như: đa, thông, thiên tuế, trò vv... Người xưa nói: Núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình uốn khúc thành dãy núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo ở phía sau.Từ núi Hùng nhìn ra phía trước ngã ba Việt Trì có hàng chục quả đồi thấp là đàn rùa bò từ ao nước lớn lên. Phía sau mảnh đất làng Hy Sơn (Tiên Kiên) là hình một con phượng cắp thư. Phía bên phải - quả đồi Khang Phụ (Chu Hóa) là hình một con hổ phục. Phía bên trái - quả đồi An Thái (Phượng Lâu) hình vị tướng quân bắn nỏ. Làng Cổ Tích bên chân núi nằm trên lưng một con ngựa ghi cương. Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình là 99 con voi chầu về đất Tổ. Đứng trên đỉnh cao Nghĩa Lĩnh ta có thể bao quát toàn bộ một vùng rộng lớn với cảnh đẹp của sơn thuỷ hữu tình.  Khu di tích Đền Hùng có tổng diện tích tự nhiên trên 1.000 ha, được xác định trong tọa độ địa lý: từ 210 24ph08 giây đến 210 28 ph 76 giây vĩ độ bắc, từ 1040 77ph 15 giây đến 104 0 81 ph 68 giây kinh độ đông, thuộc phần đất trong địa giới hành chính của 7 xã: Hy Cương, Chu Hóa, Tiên Kiên, Thanh Đình – huyện Lâm Thao; Phù Ninh , Kim Đức –huyện Phù Ninh và xã Vân Phú – thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Xa xa phía tây dòng sông Thao nước đỏ, phía đông dòng sông Lô nước xanh như hai dải lụa màu viền làm ranh giới của cố đô xưa. Đặc biệt không khí trên núi rất thông thoáng, mát dịu và quanh năm thoang thoảng hương thơm. Tương truyền Vua Hùng đi khắp trong nước, cuối cùng mới chọn được vùng sơn thủy hữu tình này làm đất đóng đô. 1.1. Lịch sử các vua hùng “Các vua hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”. Cũng vì vậy, “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà ngàn năm.” Khi nghiên cứu về Đền Hùng chúng ta không thể bỏ qua lịch sử các đời vua Hùng cũng như phả hệ họ Hùng. TT Hiệu vua Húy Tuổi thọ Số năm làm vua 1 Kinh Dương Vương Lộc Tục 260 215 2 Lạc Long Quân Sùng Lâm 506 400 3 Hùng Quốc Vương Lân Lang 260 221 4 Hùng Diệp Vương Bảo Lang 646 300 5 Hùng Hy Vương Viên Lang 599 200 6 Hùng Huy Vương Pháp Hải Lang 500 87 7 Hùng Chiêu Vương Lang Liêu Lang 692 200 8 Hùng Vi Vương Thừa Vân Lang 642 100 9 Hùng Định Vương Quân Lang 602 80 10 Hùng Uúy Vương Hùng Hải Lang 512 90 11 Hùng Chinh Vương Hưng Đức Lang 514 107 12 Hùng Vũ Vương Đức Hiền Lang 456 96 13 Hùng Việt Vương Tuấn Lang 502 105 14 Hùng Aánh Vương Chân Nhân Lang 386 99 15 Hùng Triều Vương Cảnh Chiêu Lang 286 94 16 Hùng Tạo Vương Đức Quân Lang 273 92 17 Hùng Nghị Vương Bảo Quang Lang 217 160 18 Hùng Duệ Vương Huệ Lang 221 150 (2) Cộng: 2.796 năm Ngọc phả triều Hùng Vương nước Nam Việt lưu truyền mãi mãi cho miếu Duệ Tôn Điệt, thờ cúng dài lâu ghi trong từ điển. Truy cùng ở kỉ họ Hồng Bàng xưa kia Trung Hoa địa quốc, đóng đô Bắc Thành, lăng phần mộ tổ thiên táng tại núi Ngũ Nhạc thuộc Côn Luân, lấy Ngũ Hồ, Đại Hải, Nam Sơn làm nội Minh đường triều phục. Đời vua thứ Hịêu vua Số con trai Số con gái Số chi Số cháu chắt 1 Kinh Dương vương 24 20 36 596 2 Lạc Long Quân 186 29 141 3599 3 Hùng Quốc Vương 33 10 51 900 4 Hùng Diệp Vương 49 20 59 1591 5 Hùng Hy Vương 52 9 61 1600 6 Hùng Huy Vương 33 19 52 599 7 Hùng Chiêu Vương 23 36 59 750 8 Hùng Vi Vương 31 16 47 579 9 Hùng Định Vương 29 30 50 559 10 Hùng Uúy Vương 29 30 50 434 11 Hùng Chinh Vương 46 18 64 409 12 Vùng Vũ Vương 50 6 56 305 13 Hùng Việt Vương 27 30 541 14 Hùng Aánh Vương 18 22 40 309 15 Hùng Triều Vương 40 16 56 399 16 Hùng Tạo Vương 30 7 37 319 17 Hùng Nghị Vương 22 15 37 291 18 Hùng Duệ Vương 20+ 6+ 26 194 Theo truyền thuyết mẹ Âu Cơ đẻ bọc trứng nở trăm con con trai đầu là Lân Lang làm vua 49 người con theo cha Lạc Long Quân là: Xích Lang, Quynh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yên Lang, Tiên Lang, Diên Lang, Tích Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tân Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũng Lang, Aác Lang, Tảo Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Châm Lang, Tường Lang, Chóc Lang, Sáp Lang, Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiêu Lang, Hoạt Lang, Điển Lang, Thành Lang, Thuận Lang, Tâm Lang, Thái Lang, Triệu Lang, Iích Lang. 50 người con trai theo mẹ Âu Cơ là: Hương Lang, Kiểm Lang, Thần Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Hắc Lang, Thịnh Lang, Quân Lang, Kiêm Lang, Tế Lang, Mã Lang, Chiến Lang, Khang Lang, Chinh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Phiên Lang, Xuyến Lang, Yến Lang, Thiếp Lang, Bảo Lang, Chừng Lang, Tài Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lô Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhị Lang, Tào Lang, Ngyuệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Cánh Lang, Ôốc Lang, Lôi Lang, Châu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tòng Lang, Tuấn Lang, Thanh Lang. Thời đại Hùng Vương tồn tại khoảng 2000 năm trước công nguyên tính tới nay gọi là 4000 năm văn hiến. Chia làm hai thời kỳ: * Thời kỳ bộ lạc khoảng từ thế kỷ 10 trước công nguyên trở về trước, ứng với văn hóa Đồng Đậu - Phùng Nguyên. * Thời kỳ dựng nước Văn Lang khoảng từ thế kỷ 10 trước công nguyên đến giữa thế kỷ 3 trước công nguyên ứng với văn hóa Gò Mun - Đông Sơn. Nước Văn Lang do 15 bộ lạc hợp thành là: Văn Lang, Giao Chỉ, Việt Thường, Vũ Ninh, Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thanh Tuyền, Cửu Đức, Chu Diên, Tân Xương, Bình Văn, Kê Từ, Bắc Đái (theo VSL). Về Mô hình xã hội: - Đứng đầu đất nước là vua Hùng thế lập cha truyền con nối. - Giúp việc bên cạnh vua có các quan Lạc hầu (gọi là Hồn) - Lạc tướng là chức quan cai quản một bộ (tức bộ lạc cũ). - Dưới Lạc tướng là chức Bồ chính đứng đầu các làng, bản. - Dân gọi là Lạc dân - Lạc dân làm kinh tế gia đình nộp tỷ lệ nhỏ sản phẩm cho Nhà nước. Nghề chính là cấy lúa nước kết hợp với chăn nuôi trâu bò, lợn gà, đánh cá, săn bắn. Ngoài ra còn có các nghề thủ công như làm gốm, chế tác đồ đá, đan lát tre nứa, đan lưới, dệt vải, nấu đúc đồng, rèn sắt, đóng thuyền, sản xuất đồ gỗ, đồ mỹ nghệ v.v... Đã xuất hiện một bộ phận làm nghề buôn bán đổi chác. - Có một tỷ lệ nhỏ nô tỳ (gọi là xảo xứng thần bộc nữ lệ) phục vụ gia đình quí tộc. Ở nước ta không thiết lập chế độ chiếm hữu nô lệ, đại đa số dân trong nước là dân tự do tức Lạc dân. Quan hệ giữa Vua Hùng và Lạc dân rất gần gũi "cùng cày ruộng, cùng tắm sông, cùng săn bắn, cùng xem hội" sử cũ gọi là "đời hồn nhiên" (Lĩnh Nam chích quái thế kỷ 15). Như vậy, Đền Hùng nằm ở miền trung tâm dân cư đứng đầu vương quốc Văn Lang vào thời đại Hùng Vương. Và chính những cư dân ở thiên niên kỉ cuối cùng trước công nguyên, đã từng chọn núi Cả cao nhất vùng để tiến hành những nghi lễ cổ xưa của mình: thờ trời, thờ đất, thờ lúa… Những dấu ấn văn hóa ban đầu đó đã tạo nên một Đền Hùng lịch sử nhiều giai đoạn khác nhau. Đó là tín ngưỡng thờ Phật tại ngôi chùa Thiên Quang, thờ thần núi - các vua Hùng là những người có công với nước tại đền Hạ. Đền trung, đền thượng và thờ hai bà chúa Tiên Dung- Ngọc Hoa con vua Hùng thứ 18 tại đền giếng. Vì vậy, không giống với các lễ hội truyền thống của một số quốc gia hay vùng lãnh thổ trên thế giới, và lại càng khác hẳn với những cuộc hành hương của người Hồi giáo, người Thiên Chúa Giáo về miền đất Thánh, người Việt Nam cũng có cuộc hành hương nhưng là hành hương về nơi cội nguồn dân tộc để dâng hương giỗ Tổ Hùng. Kiến trúc Đền Hùng Nhìn một cách tổng quát khu di tích lịch sử Đền Hùng có 4 đền, 1 chùa và lăng vua Hùng: Cổng đền Được xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 (1917). Cổng xây kiểu vòm cuốn cao 8,50 m, hai tầng, 8 mái, lợp giả ngói ống. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn, lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm cuốn nhỏ hơn, bốn góc tầng mái trang trí rồng, đắp nổi hai con nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hỗ phù. Giữa tầng một của cổng có đề bức đại tự: “cao sơn cảnh hành”. (lên núi cao nhìn xa rộng- còn có người dịch khác là: “cao sơn cảnh hạnh” đức lớn như núi cao). Mặt sau cổng đắp hai con hổ là biểu hiện sức mạnh tầng dưới, là hiện thân vật canh giữ bảo vệ thần. Đền hạ Tương truyền nơi đây, mẹ Âu Cơ đã sinh ra trăm trứng sau nở thành trăm người con trai, nguồn gốc cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây. Dấu tích giếng “mắt rồng” là nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng nay vẫn còn ở phía sau đền. Đền hạ được xây dựng lại trên nền đất cũ vào thế kỉ XVII-XVIII. Kiến trúc kiểu chữ nhị (=) gồm 2 tòa (tiền bái và hậu cung), mỗi tòa 3 gian, cách một khoảng lộ thiên 1,5 m. Kiến trúc đơn sơ kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước. Đốc xây liền tường với đốc hậu cung, hai bên đắp phù điêu 1 bên voi, 1 bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không trang trí mĩ thuật, mái lợp ngói mũi (địa phương gọi là ngói mũi lợn. Tiền bái: gồm 3 gian, nhỏ thấp, lòng nhà rộng 4,70m dài 8,20m ; mái trước cao 1,70m, mái sau cao 2,40 m. Trên mái kiểu quá giang đóng trụ, đầu gối vào cột xây, kèo cầu suốt. Hậu cung: gồm 3 gian, được xây bít đốc, tường hậu, quá giang gối tường, trên là kèo cầu, cài nóc. Hai bên đầu đốc có đắp hổ phù gắn chữ thọ. Trong đền đặt 4 cỗ long ngai, 3 cỗ long ngai chính diện có bài vị thờ: ất Sơn Thánh Vương Vị; Đột Ngột Cao sơn Cổ Việt Hùng Thị Thập Bát Thế Thánh Vương Vị; Viễn Sơn Thánh Vương Vị.Cỗ long ngài thứ 4 không có bài vị, trong văn tế thời phong kiến ghi thờ hai bà chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa là con gái vua hùng thứ 18. Nhà bia Được xây dựng năm 1917, kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia trước đây đặt tâm bia đá, nội dung chi lời căn dặn của chủ tịch Hồ Chí Minh khi người về thăm Đền Hùng ngày 19 tháng 9 năm 1954: “Các vua hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” Chùa Thiên Quang Chùa: được xây dựng vào thời Trần (thế kỉ XVII – XIV) có tên là “viễn sơn cổ tự”. Đến thế kỉ XV, chùa được xây dựng lại đổi tên là Thiên Quang Thiền Tự”. Đến thời Tự Đức thứ 3 (1850) chùa được xây dựng lại, kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”, gồm các nhà : tiền đường, thiêu hương, tam bảo ở phía trước; dãy hàng lang, nhà tổ ở phía sau. Năm 1917, một nhà phương đình (có 2 tầng mái) được xây dựng phía sau tam bảo, làm nơi hội họp của các nhà chức trách hàng năm bàn về việc tổ chức giỗ tổ. Năm Khải Định thứ 9 (1924) chùa được trùng tu lại. Năm 1999 -2000 chùa được đại trùng tu lớn như ngày nay. Kiến trúc chùa kiểu chữ công (I) gồm 3 tòa là: tiền đường (5 gian) thiêu hương (2 gian), tam bảo (3 gian). Tiền đường: gồm năm gian, tường mặt phía đông và tây xây kín, giữa trổ cửa sổ bằng gạch hình chữ thọ. Tam bảo: ba gian xây kín không có cửa sau. Tháp Sư: trước sân chùa có hai tháp sư hình trụ 4 tầng, trên nóc đắp hình hoa sen, lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ, trong tháp có bát nhang và tấm bia đá (0,30m X 0,50m) kể về các vị hòa thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa. Tam Quan: được xây dựng vào thế kỉ thứ XVIII, gồm ba gian hai tầng mái, 4 vì kèo cột kiểu chồng gường kết hợp với bẩy kẻ, các bẩy kẻ hầu như để trơn không chạm trổ gì. Chỉ riêng chiếc bẩy số 1 ở hiên trước và sau là trạm nổi hình mây lửa, đao mác và các chùm văn xoắn có dáng dấp mĩ thuật đời Lê. Các đầu dui dưới mái tàu được đóng đinh đồng hoa. Cách vì kèo hai đốc khoảng 0,50m, có xây tường gạch kiểu cách phong đồng trụ vươn ra trước 4 cột trụ hình vuông, trên trang trí quả găng lồng đèn. Gian giữa tam quan có 4 cột cao vút lên tạo thành gác chuông, 4 mái cong. Chiều cao từ sàn lên nóc gác chuông là 2,90m, hai đốc lịa gỗ trước và sau để trống, có song tròn cao 0,20m, ở góc ngoài gác chuông có hình mặt nạ gỗ “ba tay vượn”. Mái lợp ngói mũi lợn, giống đền Hạ và Chùa. Hai đầu đốc đắp nổi hổ phù cắn chữ thọ. Đền Trung ( Hùng Vương Tổ Miếu) Tương truyền là nơi vua Hùng cùng các Lạc Hầu, Lạc Tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây Vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu, người con hiếu thảo sáng tạo ra bánh chưng, bánh dày tượng trưng cho trời đất. Căn cứ vào các phế tích các tài liệu kiến trúc xây dựng đã tìm được qua các cuộc khai quật khảo cổ học, cho thấy: vào thời Trần và có thể trước đó, tại Đền Trung cũng như các khu đền Hạ và đền Thượng, đã xuất hiện các kiến trúc tín ngưỡng và tôn giáo. Đến thế kỉ XV, Nho giáo phát triển, các công trình kiến trúc tôn giáo của cư dân địa phương thờ Phật trên núi Cả (Núi Hùng), được quy tụ xây dựng tại khu vực tương đương với khu đền Hạ, chính là ngôi chùa Thiên Quang hiện nay. Đền Trung là công kiến trình còn tồn tại đến ngày nay. Năm 1998 được trùng tu lại. Đền Trung được xây dựng kiêu chữ nhất. Đền có 3 gian quay về hướng Nam. Dài 7,20m, rộng 3,70m. Mái hiên cao 1,80m, không có cột, kèo cầu quá giâng gối vào tường, bít đốc tường hậu, phía trước mở ba cửa. Hai bên hẹp, cửa rộng có chắn song (13 chiếc) và 4 cánh Ngói lợp giống như ngói ở Đền Hạ và Chùa trong đợt trùng tu năm 1999. Hai đầu đốc trang trí hai vỉ ruồi. Đền Trung thờ tự giống như đền Hạ. Ba Gian và đầu đốc, đặt 4 bệ thờ, trên đặt 4 long ngai, 3 bài vị. Ban chính giữa đồ thờ để thất sự, hai gian hia bên để ngũ sự, gian đầu đốc để tam sự. Các đồ thờ tự đều được sơn son thiếp bạc phủ hoàng kim, có niên đại hầu hết vào thời Nguyễn. Trong đền có 4 bức hoành phi có nội dung: Hùng Vương Tổ Miếu : miếu thờ tổ Hùng Vương, (Gian giữa) Hùng Vương linh tích: 9 vết tích linh thiêng của Vua Hùng (bên phải) Triệu Tổ Nam Bang: Tổ muôn đời của nước nam, (bên trái) Trong đền có 4 cỗ long ngai, 3 Cỗ Long Ngai chính diện có bài vị thờ ghi: Ất sơn thánh vương vị Đột ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng thị thập bát thế Thánh Vương vị. Viễn sơn Thánh Vương vị. Cỗ Long Ngai thứ 4 không có bài vị, trong văn tế ghi thờ hai bà chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa là con gái Vua Hùng thứ 18. Đền Thượng và Lăng Hùng Vương Nơi đây các vua Hùng lập miếu thờ Trời "Kính thiên lĩnh điện", thờ 3 ngọn núi thiêng là Đột Ngột Cao Sơn (núi Hùng), tháp Sơn (núi Trọc), Viễn Sơn (núi Vặn), thờ Thần lúa (có mảnh vỏ trấu bằng chiếc thuyền thúng mới mất trong kháng chiến chống Pháp), thờ Thánh Gióng là tướng Nhà Trời giúp đuổi giặc Ân. Giữa thế kỷ 3 trước công nguyên, Thục Phán được Vua Hùng 18 nhường ngôi, mới lập hai cột đá thề trên đỉnh núi và làm đền thờ 18 vua Hùng. Lại mời dòng tộc nhà vua đến ở chân núi giao cho việc thờ cúng. Lăng chính là mộ vua Hùng thứ 6. Tương truyền sau khi đuổi giặc Ân, ngài cởi áo vắt trên cành kim giao rồi hỏa táng tại đó. Đền thượng: “kính thiên Lĩnh Điện” tương truyền rằng thời Hùng Vương vua hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa LĨnh để tiến hành nghi lễ tín ngưỡng của cư dân Nông Nghiệp thờ trời đất thờ thần lúa cầu mong mưa thuận gió hòa mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Truyền thuyết kể rằng Vua Hùng thứ 6 sau cuộc kháng chiến chống giặc Ân thắng lợi, cảm kích vị anh hùng đã có công đánh giặc cứu nước, nên lập miếu thờ Thánh Gióng trên đỉnh núi. Đền làm kiểu chữ vương, kiến trúc đơn giản,gồm nhà chuông trống, đại bái, tiền tế và hậu cung. Nhà chuông trống: chiều dài bằng đại bái: dài 7,20m rộng 3,80m. Nền lát gạch Bát Tràng, là nơi treo chuông, trống đánh khi lễ tế. Trước nhà chuông trống có một bức chấn phong là bức tường xây kiên cố: ở giữa giáp mái lầu chuông trống, hai cửa phụ hai bên có 4 cột trụ lớn, ở trên đắp theo kiểu lồng đèn, 4 mặt đều đắp tứ linh. Đỉnh cột có đắp 4 con nghê chầu. giữa đắp trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Phía trước ở chính giữa cửa Đền Thượng có bức đại tự chữ Hán đề: “Nam Việt Triệu Tổ”, hai bên cửa phụ có hai cuốn thư, cửa bên trái đề “Nguyệt Minh”, cửa bên phải đề “Nhật Ánh”. Nhà đại bái: nền cao hơn nhà chuông trống 0,40m và thấp nền hậu cung 0,30m. rộng 5m dài 7,20m. vì kèo đơn giản, kiểu kèo cầu, đốc xây liền đốc nhà chuông. Dầm trơn, thẳng trên câu đầu ghi: “1914 tháng 5 sửa lại”. Nhà tiền tế: cách một luồng lộ thiên 0,50m là nhà tiền tế làm kiểu quá giang kèo cầu, nền lát gạch bát tràng. H Hậu cung được xây dựng với nhà tiền tế. cũng làm kiểu quá giang kèo cầu ở mái trước có hai phần song son, tầng kèo trên gối lên hàng cột cửa nhà tiền tế. Trong hậu cung có 4 bệ thờ, trên đặt 4 cổ long ngai có 3 bài vị. ban giữa đồ thờ để kiểu thất sự, hai gian để ngũ sự, ban đầu đốc để tam sự. Nhà quan cư: Ở bên phải đền Thượng là nơi sắp lễ là chỉnh đốn trang phục, trước khi làm lễ dâng hương. Nhà quan Cư có 3 gian, một trái, kiến trúc đơn giản. Trong nhà quan cư có bốn bia ghi nội dung về việc tu sửa đền thượng,được gắn vào tường. Những bia này được viết bằng chữ Hán có niên đại vào thời Nguyễn. a/ Bia số 1: khảo về Đền Hùng vương” Bia có niên đại ngày mồng 10/3/ năm Canh thìn, niên hiệu Bảo Đại thứ 15 triều Nguyễn (1940) do bùi ngọc hoàn giữ chức vụ tham tri lĩnh tuần phủ phú thọ soạn. Nội dung bia ghi việc tôn tạo các ngôi đền thờ trong khu di tích. b/ Bia số 2: “ bia ghi kỉ niệm ở miếu thờ hùng Vương” được khắc vào mùa xuân năm quý hợi, niên hiệu Khải Định tháng 8/1923 do Nguyễn Huy Vĩ hiệu Tây Đình cư sĩ người tỉnh Hà Đông viết chữ, nội dung bia ghi việc tu sửa trên núi Hùng. c/ Bia số 3: “ bài kí trên bia ghi cổ tích của tổ quốc”. Trên bia không ghi niên đại; chỉ ghi: Lê Đình Sáng phó bảng khoa Tân Sửu (!901) người xã Nhân Mục huyện thanh trì tỉnh Hà Đông. Giữ chức Điển học tỉnh Phú Thọ soạn. d/ Bia số 4: “bia ghi tên hội đồng trùng tu” có niên đại: tháng 7 niên hiệu Duy Tân thứ 8 (1914) do Nguyễn Đình Tiên người xã Quan Nhân, tỉnh Hà Đông, giữ chức Thư lại tỉnh Phú thọ soạn; ông Vũ Dữu ở cửa hàng Thiên Tân hà nội khắc bia. Nội dung bia ghi tên các quan viên trong hội đồng trùng tu. e/ Bia số 5: “bia ghi về điển lệ miếu thờ Hùng Vương” Niên đại bia mùa xuân năm quý Hợi, niên hiệu Khải Định thứ 8 (1923) do hội đồng kỉ niện tỉnh Phú Thọ cùng nhau lập bia. Nội dung bia ghi: “ phụng sao văn bản của Bộ lễ định ngày Quốc tế”. Lễ nghi vào ngày kỉ niệm hàng năm: Chiều ngày 9/3 các quan liệt hiến trong tỉnh cùng các quan viên trong các phủ, huyện của tỉnh đều phải mặc phẩm phục tề tựu, túc trực tại nhà công quán. Sáng sớm hôm sau (mùng 10/3) đến miếu kính tế. Lễ phẩm dụng cho ngày này gồm: bò, dê, lợn, xôi… Lăng hùng vương Tương truyền là mộ của vua Hùng thứ 6. Lăng nằm ở phía đông đền Thượng có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay về hướng Đông Nam. Phía trong lăng có bia đá ghi biểu chính (Lăng chính). Phía trên ba mặt lăng đều có đề: Hùng Vương lăng (lăng vua Hùng) Cột đá thề Tương truyền do Thục Phán dựng lên, khi được vua Hùng thứ 18 nhường ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại và đòi đời trông nom miếu Vũ họ Hùng. Đền giếng (tên là Ngọc Tỉnh) Tương truyền là nơi hai bà công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (Con gái vua Hùng thứ 18) thường soi gương vấn tóc theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa và trị thủy nên được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời. Đền được xây dựng vào thế kỉ thứ XVIII. Năm Khải Định thứ 7 (1922) trùng tu lại. Năm 1998 được đại trùng tu. Đền làm theo hướng Đông Nam theo kiến trúc chữ công (I). Từ sân lên tiền bái có 6 bậc thềm chạy dài suốt. Hai bên có cánh phong đồng trụ, trên có 4 ô đắp tứ linh. Đỉnh có nghê chầu. Đền giếng có nhà tiền bái (ba gian). Hậu cung (ba gian), một chuôi vồ và hai nhà oản (bốn gian); có phương đình nối tiền bái với hậu cung. Bảo tàng Hùng Vương Khu di tích lịch sử Đền Hùng được xây dựng vào năm 1986 và mở cửa đón khách tham quan vào đúng ngày khai hội năm Quý Dậu 1993. Đây là một thiết chế văn hóa được xây dựng theo quy hoạch phát triển của Khu di tích. Với 700 hiện vật trên tổng số 4.000 hiện vật có tại Bảo tàng Hùng Vương được trưng bày là những minh chứng khoa học để chứng minh về cuộc sống đương thời của một thời đại có thật trong lịch sử dân tộc Việt Nam - thời đại Hùng Vương. Nhà bảo tàng tuy trưng bày làm nhiều phòng, nhưng chung quy có thể hiểu tổng quát là, tại đây trưng bày 5 loại hiện vật. 1. Hiện vật tìm thấy tại Đền Hùng, gồm 13 hiện vật có từ thời Hùng Vương và nhiều hiện vật có sau thời Hùng Vương. Những hiện vật đó cho biết từ thời Vua Hùng con người đã lên núi này khá đông đúc và bỏ sót lại đồ dùng. Những mẫu đá, gốm xây dựng và đồ thờ có niên đại từ sau công nguyên đến các thời Lý, Trần, Hậu Lê cho thấy khu vực này được thờ tự liên tục ngày từ khi triều đại Hùng Vương kết thúc đến bây giờ. 2. Hiện vật lấy ở các di chỉ khảo cổ thuộc thời Vua Hùng hoặc có liên quan tới thời Vua Hùng, ở nhiều nơi tập hợp về. Những hiện vật này giống như hiện vật ở mọi bảo tàng. 3. Những cuối sách sử, những mẫu trích từ các sách cổ của người Trung Quốc và nước ta nói về thời Hùng Vương. Những hiện vật này cũng giống như ở mọi bảo tàng, nghĩa là muốn nói rằng thời Hùng Vương là có thật. 4. Hiện vật phản ánh các hình thức tín ngưỡng Vua Hùng của nhân dân, ở trong cũng như ở ngoài khu vực Đền Hùng. Đó là các bản ngọc phả, đồ thờ tự, tranh vẽ và ảnh chụp các đình đền , các lễ hội. 5. Hiện vật lưu niệm đồng bào về thăm mộ Tổ. Đó là những quà tặng, những ảnh chụp các nhà lãnh đạo, các đoàn đại biểu và nhân dân tới thăm Đền Hùng. Bảo tàng Hùng Vương đã giới thiệu được với đồng bào và bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về thời đại Hùng Vương - nền văn minh sông Hồng - thời kỳ mở đầu của lịch sử dân tộc Việt Nam. Đền thờ cha Lạc Long Quân và đền Tổ Mẫu Âu Cơ. Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con Câu ca xưa đã đi vào lòng mỗi con dân đất Việt từ thuở ấu thơ qua câu chuyện kể của bà, lời ru của mẹ như một lời nhắc nhở đạo hiếu, tri ân không bao giờ phai nhạt. Tưởng nhớ công ơn của các bậc thủy tổ đã có công khai thiên lập quốc và nhằm quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh thời đại các vua Hùng và tưởng nhớ công ơn tổ tiên và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước đảng và nhà nước ta đã cho xây dựng đền thờ cha Lạc Long Quân và đền Tổ Mẫu Âu Cơ. Đền tổ mẫu Âu Cơ được bắt đầu xây dựng năm 2001 và khánh thành tháng 12/2004. Đền được xây dựng trên núi Ốc Sơn (Núi Vặn) theo kiến trúc truyền thống với: cột, xà, hoành, dui bằng gỗ lim, mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch bát. Đền chính có diện tích 137m2 làm theo kiểu chữ Đinh, tiền đường năm gian, hậu cung chuôi vồ ba gian. Bên cạnh đền chính còn có nhà Tả vu, nhà Hữu vu, nhà Bia, Trụ biểu Tứ trụ. Cổng tam quan nhà đón tiếp khách và các hạng mục: sân vườn, điện, nước, hệ thống chống sét, bãi đổ xe. Đường từ bãi đỗ xe lên đến cửa Đền có 553 bậc bằng đá Hải Lựu, trong Đền có tượng thờ thần Mẹ Âu Cơ và 2 tượng Lạc hầu, Lạc tướng. Đền thờ Lạc Long Quân là một thiết chế văn hóa mới  nằm trong quần thể di tích lịch sử Đền Hùng được khởi công xây dựng ngày 26-3-2007 tại đồi Sim, xã Chu Hóa (Việt Trì) và khánh thành vào ngày 29 tháng 3 năm 2009 đúng vào dịp lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm Kỷ Sửu. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên viết vào thế kỷ XV có đoạn: “Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, là tổ tiên của Bách Việt. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau chung hợp thật khó bèn từ biệt nhau chia 50 người con theo cha xuống biển, 49 người theo mẹ lên núi, suy tôn người con cả làm vua nối nghiệp là Hùng Vương. Hùng Vương lên ngôi đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, chia nước làm 15 bộ. Nơi vua ở là bộ Văn Lang, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, các quan gọi là Bồ chính, đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo. Tương truyền đã truyền cho nhau 18 đời đều gọi là Hùng Vương”. (Đại Việt sử ký toàn thư - tập 1, NXBKHXH - HN 1993). Đền thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được đầu tư xây dựng mới đồng bộ các hạng mục công trình kiến trúc, các họa tiết trang trí được mô phỏng theo các văn hoa trên trống đồng Đông Sơn được cách điệu như: Hình ảnh người giã gạo, hình ảnh chim lạc... được thể hiện sinh động độc đáo đã mang lại nét kiến trúc đặc trưng riêng của ngôi đền mà vẫn không mất đi sự cổ kính uy linh. Đến Đền Hùng hôm nay, du khách không chỉ thắp hương tri ân công đức các Vua Hùng mà còn được thăm viếng đền Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và đền thờ Tổ mẫu Âu Cơ - một sự quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh đầy ý nghĩa thể hiện tâm thức và đạo hiếu của con dân đất Việt. Khu di tích lịch sử Đền Hùng - cội nguồn linh thiêng của dân tộc. Vì vậy, mọi người dân Việt Nam dù ở đâu đều hướng về Đất Tổ và muốn được một lần về với Đền Hùng vào dịp Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3 âm lịch. Người hành hương tới Đền Hùng không chỉ để vãn cảnh hay hoà nhập vào không khí tưng bừng của lễ hội mà còn vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Một chút công đức xây dựng khu di tích chung của dân tộc khi thăm nơi này và không ai không thắp những nén hương và khấn nguyện trước vong linh tiên tổ với tất cả lòng thành kính nhất. Mãi mãi, trong tâm hồn mỗi người dân đất Việt. Đền Hùng - khu di tích có giá trị đặc biệt vào bậc nhất của quốc gia đã và đang là điểm đến của cả nước. Với ý nghĩa về với cội nguồn, mỗi lần đặt chân tới Đền Hùng lòng tôi vẫn thầm tự hỏi: Có nơi đâu như đất nước mình khi hai tiếng cội nguồn đã biến thành sức sống phi thường bất tử, trải ngàn đời qua phong ba bão táp vẫn trường tồn một khát vọng tâm linh để muôn đời cháu con ngưỡng vọng? Là nơi thờ tổ tiên của dân tộc Việt Nam, nơi hội tụ những giá trị văn hóa của người Việt cổ biểu trưng cho sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Cách đây 50 năm, ngày 19 tháng 9 năm 1954, Bác Hồ về thăm Đền Hùng. Tại đây, trong cuộc gặp gỡ với cán bộ Đại đoàn quân 308 quân Tiên Phong, Người đã có câu nói  nổi tiếng: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước" Lời nói ấy cất lên từ Đền Hùng âm vang trong trái tim mỗi người con đất Việt ở khắp mọi miền, khắp mọi thế hệ. Một lời nói vang vọng thiên thu, trường tồn với đời đời con cháu. 2.1. Ý nghĩa lịch sử khu di tích Đền Hùng Như một tập quán không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Hàng năm cứ đến ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch đồng bào trong nước, kiều bào sống xa quê hương lại nhớ về cội nguồn, náo nức trẩy hội đến Đền Hùng. Giỗ Tổ Hùng Vương - lễ hội Đền Hùng đã trở thành tình cảm sâu đậm và trở thành truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt. Trong mỗi thôn xóm, mỗi làng quê người Việt Nam có đình Chùa, Lăng, Miếu để con cháu thờ tổ tiên, thờ những anh hùng có công với làng xã, đất nước. Cả dân tộc có chung một ngày giỗ Tổ, mỗi người Việt luôn tự hào có chung Tổ Hùng Vương với 18 đời Vua dựng xây nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên của Việt Nam với hàng nghìn năm trị vì mà không phải bất cứ một dân tộc nào trên thế giới kể cả những nước có nền văn minh rất sớm. Tổ chức lễ hội Giỗ tổ Hùng Vương-Lễ hội Đền Hùng nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống nước nhớ nguồn”, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước. Ngày này cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đền Hùng. Tổ tiên người Việt luôn muốn nhắc nhở con cháu: ai ai cũng nên làm tròn bổn phận, nhiệm vụ và chức năng của mình, giữ đúng kỷ cương vua ra vua, cha ra cha, con ra con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển. Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, trống thiêng của dân tộc, gởi gắm trong biểu tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng.  Thông qua ngày giỗ Tổ, Tổ tiên ta còn có hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Đó là nỗi lo muôn thuở, là tấm lòng bao dung, tha thiết, rộng mở của Chư Tổ còn vang vọng mãi khắp núi sông: "Hãy chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu". Chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu". Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa. Từ trong ý thức tâm linh cả dân tộc luôn hướng về: "Nước mở Văn Lang xưa Dòng vua đầu viết sử Mười tám đời nối nhau Ba sông đẹp như vẽ Mộ cũ ở lưng đồi Đền thờ trên sườn núi Muôn dân đến phụng thờ Khói hương còn mãi mãi". Chính vì vậy, Đền Hùng mang ý nghĩa giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, hướng về nguồn cội, biết ơn cha ông ta đã đổ máu xương để xây dựng và bảo vệ non song gấm vóc dân tộc Việt Nam. Các vua Hùng là những vị đặt nền móng đầu tiên khá vững chắc cho dân tộc ta ngày nay. Về với Đền Hùng chúng ta như về với ngôi nhà của mình, thắp nén hương thành kính tưởng nhớ công ơn của các vua Hùng. Tinh thần uống nước nhớ nguồn là tinh thần tốt đẹp đã thấm vào dòng máu của dân tộc ta và được gìn giữ qua bao thế hệ. Nhưng với cuộc sống hiện đại ngày nay, một bộ phận không nhỏ giới trẻ bị cuốn vào lối sống thực dụng, sính ngoại, buông thả mà quên đi những giá trị truyền thống của dân tộc. Vì vậy,về thăm Đền Hùng cũng là một cách giáo dục thiết thực cho giới trẻ hiểu biết về nguồn cội của mình. Dân tộc Việt Nam có chung một cội nguồn để người Việt từ ngàn đời và cả hôm nay cũng như mãi mãi sau này có tình cảm, đạo lý để mà yêu thương nhau và cùng nhau xây dựng non sông đất nước. Hai chữ đồng bào (cùng chung một bọc trứng) và câu ca dao quen thuộc với từng người: “Nhiều điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng” Đã trở thành lẽ sống của người Việt. Chính vì vậy, Đền Hùng là biểu tượng cho ý chí và tinh thần của dân tộc với tinh thần lao động sáng tạo, cần cù, tài trí thông minh trong xây dựng đất nước cũng như tính ngoan cường và dũng cảm trong việc chống giặc ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Do vậy, Đền Hùng là nơi nhân dân tôn kính và phụng thờ tổ tiên dân tộc đã trở thành trái tim của cộng đồng người Việt. Mỗi lần về viếng mộ Tổ chúng ta như thấy tự hào hơn về đất nước Việt Nam và càng tự hào hơn với dòng giống “con lạc cháu hồng” nguyện làm việc nhiều hơn, sống đẹp hơn và yêu thương đồng bào hơn. Đền Hùng còn mang ý nghĩa giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc. Dù người nam hay bắc, người kinh hay dân tộc thiểu số, sinh sống bất cứ nơi đâu thì mọi người đều mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, đều là anh em một nhà. Mỗi con người Việt Nam đều nhớ câu: “dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”. Thấm đượm tinh thần đó. Bác Hồ đã từng nói: “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Dân tộc Việt là một khối đại đồng, chính tinh thần đoàn kết đã tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn để ta chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ bờ cõi, điều này đã được lịch sử của dân tộc ta chúng minh. Đền Hùng có giá trị giáo dục tinh thần yêu nước. Tinh thần yêu nước, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm là tinh thần nuôi sống dân tộc ta, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam ta. Khi biết về lịch sử các vua Hùng dựng nước, chúng ta tràn dâng niềm tự hào dân tộc, càng thấy phải quý trọng hơn đất nước mình. Từ ngày vua Hùng dựng nước cho đến nay dân tộc ta đều phải đối phó với giặc ngoại bang triền miên. Dân tộc Việt là một dân tộc nhỏ mà phải đối chọi với các cường quốc lớn, điều dẫn đến sự chiễn thắng của dân tộc ta chính là tinh thần dân tộc Việt tự bao đời - tinh thần yêu nước. Và tinh thần này sẽ luôn phát huy và trường tồn cùng sự thịnh vượng và phát triển của dân tộc ta vượt qua mọi thách thức của thời đại và mọi thế lực thù địch. Cho dù hiện nay đất nước đã bước qua một giai đoạn mới, hòa bình, phát triển kinh tế, chính trị, xã hội… với nhiều thời cơ nhưng vẫn còn đó những khó khăn đang chờ đón thì tinh thần yêu nước lúc này càng phải được khơi dậy phát huy một cách tối đa để góp phần đưa nước ta vượt qua thử thách. Đây là trách nhiệm của tất cả mọi người chứ không phải riêng ai. Nên giáo dục về Đền Hùng cũng là một cách thiết thực để đánh thức tinh thần dân tộc trong tất cả mọi người dân Việt Nam cùng tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước. Về đến Đền Hùng mỗi người tự rèn luyện ý chí và sức khỏe qua từng bậc thang. Vì muốn đến Đền Hùng là cả một quảng đường leo núi khá cao, người đi có cảm giác càng đi càng xa. Nếu người không có ý chí thì sẽ bỏ cuộc, đồng thời việc leo núi cũng rèn luyện sức chịu đựng của cơ thể. Một ý chí kiên định cùng với một sức khỏe dẻo dai sẽ giúp ta vượt qua mọi khó khăn. Việc leo núi lên đỉnh Đền Hùng cũng như ta vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Ý chí sẽ giúp chúng ta kiên trì, quyết tâm theo đuổi mục tiêu để đạt đến thành công. Như Bác Hồ đã từng nói: “Leo núi phải leo đến đỉnh, làm cách mạng phải triệt để”. Qua đó, còn cho chúng ta thấy được tinh thần lao động và sáng tạo trong lao động của cha ông ta. Cho đến ngày nay nó vẫn còn có giá trị to lớn để thế hệ mai sau noi gương. Đền Hùng và thời kỳ Hùng Vương dựng nước đã đi sâu vào tâm linh mỗi người dân gốc Việt. Được đến bên mộ Tổ dâng nén hương để khấn vọng lên tổ tiên những ước mơ của mình là mong ước của mỗi người. Đi trên đất Văn Lang xa xưa qua 525 bậc đá lên mộ Tổ ta như thấy cả xã hội Văn Lang, một xã hội đang trong thời kì thịnh vượng. Từng mảnh đất của cố đô này gợi cho ta những liên tưởng gần gũi về cuộc sống của tổ tiên từng ghi đậm trong truyền thuyết và dân gian. Nơi đây đất Minh Nông Vua Hùng dạy dân cấy lúa, làng Thậm Thình nơi nghe nhịp chày giã gạo đêm khuya. “Nửa đêm đi qua Thậm Thình Bâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm” Quất thượng nơi Vua Hùng nhân lên những quả quít ngon và lạ. Lâu thượng là mảnh đất trồng dâu, dệt vải. Xã hội Hùng Vương còn tiến bước xa hơn từ tục săn bắn muông thú trở về sống định canh lấy cây lúa làm cơ bản, biết chế biến hạt lúa củ khoai thành Bánh Chưng Bánh Dày, Bánh Ót. Cuộc sống có cả những nề nếp, phong tục văn minh mới. Qua đó chúng ta chợt hiểu rằng tình yêu lao động, nề nếp văn hóa và ý chí quật cường từ những cốt lõi tinh thần được hun đúc từ đất này. Thuở tổ tiên ta dựng nước làm nên sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của dân tộc. Ngay buổi bình minh của lịch sử, tổ tiên ta đã phải chống chọi với hai thế lực mạnh mẽ đó là thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Thế nhưng trên mảnh đất này ông cha ta đã trụ lại được và gây dựng nên được cơ ngơi riêng của mình bằng một tinh thần lao động cần cù và giàu chất sáng tạo, bằng ý chí độc lập tự cường. Có thể nói đất Văn Lang thuở ấy từ Vua đến dân đều là những con người lao động. Chúng ta có thể thấy ngay tập thể người lao động đó là đội ngũ 100 người con từ bọc trứng mà ra, một nửa theo mẹ lên rừng, một nửa theo cha xuống biển. Thực chất đó là những đội quân đi mở mang, khai phá, định canh định cư trên các vùng đất nước ở miền xuôi cũng như miền ngược. Việc chọn đất đóng đô xét về phương diện kinh tế ta cũng cảm phục tầm nhìn tổ chức của ông Vua mở nước. Với thành Phong Châu thời đó, bên cạnh là các khu vực hành chính quân sự: Lầu Thượng –nơi Vua làm việc; Kim Đái- nơi các Lạc Hầu đóng; Cẩm Đội- nơi các Lạc Tướng đóng…nổi lên hai khu kinh tế đó là Minh Nông- nơi Vua đích thân dạy dân trồng lúa và Thậm Thình-nơi dân giã gạo nuôi quân. Ngoài dạy dân trồng lúa, dạy dân trồng kê trên bãi phù sa Vua còn dạy dân chọc lỗ tra lúa trên nương rẫy. Trong con mắt của nhà vua mọi thứ cỏ cây của đất nước này đều có thể đem lại lợi ích cho dân, chỉ cần biết tìm tòi và khai thác nó. Vì thế vua Hùng mới đem giống khoai lang, giống kiệu mọc hoang về ươm trồng. Những việc làm đó thực chất là là một sự lao động sáng tạo, một sự tìm tòi phát hiện các sản vật cũng như quy luật tự nhiên buổi sơ khai nhằm phục vụ đời sống con người. Đối chiếu các chi tiết trong truyền thuyết với các di vật khảo cổ tìm được: Vỏ chấu, hạt gạo, hoa văn trống đồng…ta cũng hiểu phần nào nền văn minh nông nghiệp của cha ông ta thuở ấy. Đó là thời kỳ tổ tiên ta đã bắt đầu biết thuần hóa các giống lúa, giống cây hoang dại để gieo trồng trên đất phù sa màu mỡ thuộc châu thổ Sông Hồng kết hợp với việc trồng tỉa trên nương rẫy, săn bắn, chăn nuôi. Cho nên có hai câu chuyện Bánh Chưng Bánh Dày và Bánh Ót đều làm từ sản phẩm gặt hái trên đồng ruộng của mình và người anh hùng Thánh Gióng (đời Hùng Vương thứ sáu) được cưu mang trong lòng người mẹ lao động nghèo và được nuôi dưỡng bằng những nong gạo, nong cà của đồng quê để lớn lên thành tráng sĩ trừ diệt ngoại xâm và không thể quên những bàn tay khéo léo và sáng tạo của những người thợ rèn kinh thành Phong Châu làm việc ngày đêm chế tạo ra Ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt kịp cho người anh hùng lên đường diệt giặc, rồiTản Viên trị lụt, Cốt Tung- chàng trai tham gia đánh giặc Ân. Họ đều là những người lao động cần cù thông minh và sáng tạo. Họ đã đi vào lịch sử sống trong lòng dân suốt từ thế hệ này qua thế hệ khác đẹp như những thần tượng nhưng cũng gần gũi yêu thương lạ lùng. Không những sáng tạo trong lao động sản xuất nông nghiệp, trong đấu tranh chống các thế lực ngoại xâm. Ông cha ta cũng rất sáng tạo trong nghệ thuật. Ngày nay khi được chiêm ngưỡng những nét hoa văn chạm khắc tuyệt vời trên trống đồng chúng ta khâm phục những nghệ nhân tài hoa thuở ấy. Bằng lao động sáng tạo nghệ thuât-một thứ lao động kết hợp nhuần nhuyễn bộ óc bác học với bàn tay nghệ sĩ. Và bao nhiêu điệu hát, câu hò, lễ hội mà ngày nay chúng ta còn được thừa hưởng. Tất cả đều thể hiện những đạo đức cao đẹp trong truyền thống lao động sáng tạo của tổ tiên. Tinh hoa chắt lọc được qua các trang tiểu thuyết cùng với sự tìm hiểu, nghiên cứu các di chỉ mà lòng đất giữ lại đã cho chúng ta một ý niệm sâu sa về tổ tiên: Rằng từ thuở lập nước vấn đề lao động, lao động sáng tạo đã được đặt lên hàng đầu cùng với công cuộc giữ nước đó chính là truyền thống quý báu mà ngày nay chúng ta đang kế thừa và phát huy trong công cuộc xây dựng đổi mới đất nước. Về mặt du lịch, Đền Hùng có giá trị du lịch rất lớn, quanh năm có rất nhiều đoàn du khách đến đây để tham quan, tìm hiểu lịch sử khu di tích Đền Hùng, trong đó có cả các đoàn khách nước ngoài. Vì thế trong những năm qua Đảng và Nhà Nước ta cũng có những chính sách tu bổ, mở rộng, nhằm xây dựng Đền Hùng đúng với tầm vóc và giá trị lịch sử của Đền Hùng, đồng thời cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch Đền Hùng, quảng bá rộng rãi với bạn bề thế giới về bề dày lịch sử dân tộc Việt ta. Thời đại của chúng ta - con cháu các Vua Hùng - đang gắng sức tô điểm và phát huy sức sống trường tồn của truyền thống Giỗ Tổ Hùng Vương, góp phần xây dựng thành phố Việt Trì thành Thành phố lễ hội. Ý nghĩa tâm linh của cuộc hành hương về với cội nguồn đã trở thành nếp sống, nét văn hóa truyền thống không thể thiếu trong đời sống tinh thần của mỗi con người Việt Nam. Đó là truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Tất cả mọi người dân đất Việt đều có quyền tự hào mỗi khi về dự Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng. 2.1. Định hướng phát triển Đền Hùng trong tương lai Lịch sử như một dòng chảy liên tục, trước bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức Tổ tiên. Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng, mà tìm vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển từng đến thăm viếng Đền Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di tích trên Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam... Đền Hùng là một di tích vô giá của nhân dân Việt Nam. Đây là biểu tượng của tổ tiên dân tộc Việt Nam - một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm". Đất văn vật hàng nghìn năm tồn tại và phát triển cho đến ngày hôm nay đã và đang ngày càng thay da đổi thịt. Diện mạo của Khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày càng khang trang, to đẹp hơn nhiều so với thời chúng ta còn chịu dưới sự thống trị của ngoại bang và kể cả trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lược Pháp và Mỹ. Có được điều đó, chính vì Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm xây dựng Đền Hùng để xứng tầm với một khu di tích đặc biệt của quốc gia và rồi đây sẽ trở thành trọng điểm du lịch của cả nước. Ai đã từng đến thăm Đền Hùng của những năm tháng xa xưa nhớ lại, đều thấy một bước tiến đáng kể trong quá trình đầu tư xây dựng Đền Hùng. Nếu như trước đây khi đến Đền Hùng còn âm u, huyền bí; lối đi ra vào Đền Hùng chỉ là những con đường nhỏ gập ghềnh, cây cỏ mọc um tùm ven đường, người đi lại thăm viếng Đền Hùng thưa thớt, chỉ có những người thành tâm, hàng năm mới về thăm viếng một Tổ thì ngày nay, mặc dù Đền Hùng không còn vẻ u tịch như xưa, nhưng vẻ trang nghiêm, tôn kính của các đền chùa trên núi Hùng, cũng có nghĩa là sự trân trọng các giá trị văn hóa mà ông cha ta để lại vẫn còn nguyên giá trị. Trong xu thế phát triển và đổi mới, chúng ta đã cho mở rộng xây dựng và tu bổ các công trình từ kết cấu hạ tầng đến các đền đài, lăng tẩm, làm cho bộ mặt Đền Hùng ngày càng khang trang, to đẹp và văn minh hơn. Những việc làm này chính là chúng ta đã từng bước kết hợp hài hòa giữa tôn trọng tín ngưỡng tâm linh của dân tộc với sự phát triển kinh tế – văn hóa của đất nước. Thời gian gần đây Khu di tích lịch sử Đền Hùng đã được Nhà nước công nhận là khu di tích đặc biệt của quốc gia – một khu di tích lịch sử “độc nhất vô nhị” của dân tộc. Chính vì thế tại Đại hội XVI của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã xác định cần xây dựng Khu di tích lịch sử Đền Hùng nối liền với Việt Trì là tâm điểm du lịch của Phú Thọ và trở thành thành phố lễ hội thu hút đồng bào cả nước về với đất Tổ. Quan điểm chỉ đạo của tỉnh và Trung ương, đã hoàn toàn thấy rõ sự quan tâm đầu tư, chỉ đạo của các cấp, các ngành đối với sự phát triển của Khu di tích lịch sử Đền Hùng. Chính vì thế mà những năm qua từ Trung ương đến địa phương đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để mở rộng đường xá, xây dựng những công trình mới ngày càng khang trang to đẹp, thu hút đồng bào cả nước về với Đền Hùng. Giỗ Tổ Hùng Vương – lễ hội Đền Hùng năm 2009 vừa qua được tổ chức hoành tráng đã gây được ấn tượng tốt đẹp đối với đồng bào cả nước và khách nước ngoài. Theo quy hoạch được Chính phủ phê duyệt đến năm 2015, Khu di tích lịch sử Đền Hùng được mở rộng tới gần 1.000 ha. Trong đó sẽ được phân chia ra các phân khu chức năng: Khu vực trung tâm lễ hội sẽ tiếp tục được tu bổ, tôn tạo các đền chùa trên núi Nghĩa Lĩnh và xây dựng trục đường hành lễ hướng về phía Tây Nam của Tổ quốc. Gần với trục đường hành lễ là nhà điều hành của khu và nhà tiếp đón khách quốc tế và trong nước. Nơi đây sẽ phải đảm bảo cảnh quan môi trường sạch đẹp, để hàng năm thu hút vài triệu lượt người đến thăm viếng Đền Hùng. Bên cạnh quần thể kiến trúc đền chùa trên núi Nghĩa Lĩnh thờ tự các vua Hùng, trong những năm vừa qua nước ta đã xây dựng đền thờ mẫu Âu Cơ trên đỉnh núi Vặn. Đây là việc làm rất có ý nghĩa, vì tại nơi theo truyền thuyết mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở thành trăm người con, chúng ta đã thành tâm xây dựng đền thờ “mẫu” để tri ân công đức người đã sinh thành ra những người con đất Việt. Có thêm đền thờ mẫu Âu Cơ, chúng ta đã mở rộng thêm phạm vi của khu trung tâm lễ hội. Một mặt để đồng bào cả nước hiểu thêm về cội nguồn dân tộc; mặt khác làm cho diễn trường lễ hội trong những ngày giỗ Tổ không còn quá tải như trước. Trong thời gian sắp tới, theo quy hoạch Khu di tích lịch sử Đền Hùng sẽ tiếp tục được mở rộng về phía Nam. Đầu năm 2006, Bộ Văn hóa – thông tin đã cho phép tỉnh ta tiếp tục được đầu tư xây dựng thêm đền thờ Lạc Long Quân bên đồi sim. Đây sẽ là công trình bổ trợ cho các đền đài thờ tự đối với thời đại Hùng Vương. Khi xây dựng xong đền thờ Lạc Long Quân, cùng với đền thờ Mẫu Âu Cơ và đền thờ các vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh sẽ là một quần thể đền đài thờ tự từ bố mẹ đến 18 đời vua Hùng đã có công dựng nước. Để tạo được sự hấp dẫn của du khách về thăm viếng Đền Hùng, ở phía Nam đường 32C, chúng ta sẽ xây dựng thêm một loạt công trình mới, đó là làng văn hóa – du lịch thời đại Hùng Vương, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ và Tháp tưởng niệm các vua Hùng. Bên cạnh đó là hàng loạt các công trình phụ trợ về dịch vụ để đảm bảo phục vụ du khách bốn phương. Tại khu vực xây dựng Làng Văn hóa - Du lịch thời đại Hùng Vương, chúng ta đang tập trung quy hoạch để hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ, có môi trường sinh thái (hồ nước, vườn cây sinh cảnh…) mời gọi các nhà đầu tư vào đây xây dựng những công trình mới phục vụ vui chơi, giải trí và ăn nghỉ để phục vụ du khách tới nghỉ ngơi thư giãn qua những ngày lao động mệt nhọc. Gắn liền với nơi thờ tự các vua Hùng, chúng ta sẽ cho xây dựng thêm Đài Tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ tại đồi Cá Chuối - gắn với Làng văn hóa - Du lịch thời đại Hùng Vương. Đây là một công trình kiến trúc do Bộ Lao động - TBXH đầu tư xây dựng. Ở đó có đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ, vườn hoa cây cảnh, nhà tiếp đón khách, tạo cảnh quan môi trường  cho Khu di tích lịch sử Đền Hùng. Đến đây du khách có thể đặt hoa để tưởng nhớ những người con của Tổ quốc đã anh dũng hy sinh bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Tiếp nối với Làng Văn hóa - Du lịch thời đại Hùng Vương, chúng ta sẽ xây dựng Tháp tưởng niệm các vua Hùng trên đỉnh đồi Mom Gà. Đây sẽ là một công trình kiến trúc có quy mô đồ sộ, hoành tráng - thể hiện tâm đức, trí tuệ của con cháu vua Hùng trong thế kỷ XXI. Công trình này sẽ có nhiều công năng sử dụng, là nơi trưng bày những hiện vật bảo tàng thời đại các vua Hùng dựng nước và sự phát triển của dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Trên tháp là những tầng thờ tự các đời vua Hùng. Để tạo thêm cảnh quan cho khu vực Tháp, chúng ta sẽ xây thêm những quần thể kiến trúc thể hiện đặc điểm từng vùng miền của đất nước, những quầy hàng dịch vụ, nhà tiếp đón khách tới thăm quan chiêm ngưỡng. Khi xây dựng xong Tháp tưởng niệm các vua Hùng, nối liền với Làng Văn hóa - Du lịch thời đại Hùng Vương, đến trung tâm lễ hội và rừng cây bản địa ở khu vực phía Bắc (trong rừng quốc gia Đền Hùng), chúng ta sẽ có một nơi tham quan du lịch văn hóa tâm linh, sinh thái, lành mạnh. Từ đó, hàng năm chúng ta có thể thu hút được lượng du khách về thăm tỉnh ta không nhỏ. Chúng ta sẽ phát triển được lợi thế của một khu di tích lịch sử đặc biệt của quốc gia phục vụ cho phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh nhà. Nhìn về tương lai, Khu di tích lịch sử Đền Hùng thật là xán lạn, nhưng trước mắt chúng ta còn nhiều việc phải làm. Để Khu di tích lịch sử Đền Hùng với những ý tưởng sớm trở thành hiện thực, đòi hỏi phải có sự quan tâm chỉ đạo, đầu tư nhiều hơn nữa của các cấp, các ngành,  sự nỗ lực phấn đấu cao hơn của đội ngũ cán bộ công nhân viên của Khu di tích lịch sử Đền Hùng, sự đồng tâm nhất trí của nhân dân địa phương thực hiện các dự án xây dựng mở rộng Đền Hùng theo quy hoạch đã được Chính phủ phê duyệt. Từ đó mới có thể xây dựng được Khu di tích lịch sử Đền Hùng trở thành trọng điểm du lịch của cả nước và tạo cho Phú Thọ có điều kiện để phát triển ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1972, T.1. Phạm Bá Khiêm, Khu Di Tích Lịch Sử Và Rừng Quốc Gia Đền Hùng, 2008,Nxb sở văn hóa thông tin Phú Thọ, 2008. Ngô Văn Phú, Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng, Nxb Hội nhà văn, 1996. Trần Quốc Vượng, Văn Hóa Việt Nam Tìm Tòi Và Suy Ngẫm, Nxb Văn học hà nội. Trần Văn Giàu, Giá Trị Tinh Thần Truyền Thống Của Dân Tộc Việt Nam, Nxb tp HCM, 1993. Vũ Kiêm Liên, Giới Thiệu Khu Di Tích Lịch Sử Đền Hùng, sở văn hóa thông tin Vĩnh Phú, 1990.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docden_hung_9163.doc