Bài tiểu luận đề cập đến các nội dung như: thế nào là khủng hoảng kinh tế, ba trường phái chính về khủng hoảng tài chính; những sự kiện chính dẫn đến khủng hoảng, cuối cùng, tôi xin đề xuất một số bài học về sự cần thiết phải xây dựng thể chế giám sát hiệu quả cho họat động tài chính, và đảm bảo tăng trưởng bền vững. Đó là quá trình xây dựng những chuẩn mức, thể chế luật lệ tốt, thúc đẩy hiệu quả và tinh thần trách nhiệm; chứ không đơn giản chỉ là sự xóa bỏ các thể chế yếu kém, đang cản trở sự sáng tạo và phát triển.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 7825 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Khủng hoảng kinh tế nguyên nhân, giải pháp và thực trạng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới năm 2008-2009 là cuộc khủng khoảng kinh tế đầu tiên của thế kỷ 21 nhưng không giống các cuộc khủng khoảng kinh tế trước nó. Có thể gọi đây là cuộc khủng khoảng của các nhà băng, khủng khoảng tín dụng hay còn gỏi là “khủng hoảng tài chính tiền tệ”. Có những ngày, những tuần, hàng loạt ngân hàng tuyên bố phá sản, bị mua lại hoặc bị kiểm soát đặc biệt. Thế giới đã thực sự chao đảo, nghiêng ngả bởi làn sóng sụp đổ của các nhà băng.
Khủng khoảng kinh tế thế giới: Đã từ lâu, trong quan niệm của một số nhà nghiên cứu cho rằng trong điều kiện hiện nay, khủng khoảng kinh tế toàn cầu khó hoặc không thể xảy ra. Điều này được lý giải như là sự thích ứng với điều kiện mới, với hoàn cảnh mới của nền kinh tế TBCN. Hoặc kinh tế TTBCN có sự thích nghi, có sự “tự điều chỉnh” để phù hợp với sự phát triển không ngừng của kinh tế thế giới. Giai đoạn 1950 - 2010 kinh tế thế giới cũng xảy ra khủng khoảng, xảy ra suy thoái (khủng khoảng dầu mỏ dẫn đến suy thoái tại Mỹ năm 1973, suy thoái tại Nhật Bản đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khủng khoảng kinh tế tại Mêhico năm 1994, khủng khoảng tài chính tại các nước châu Á năm 1997...) nhưng không lan ra toàn cầu. Điều này đã tạo ra sự lầm tưởng là kinh tế TBCN hiện đại có khả năng xử lý được khủng khoảng kinh tế ở cấp độ khu vực, không để xảy ra trong phạm vi toàn cầu.
Tuy nhiên qua khủng khoảng kinh tế vừa qua đã khẳng định: kinh tế TBCN dù phát triển đến đâu cùng không tránh khỏi khủng khoảng kinh tế như đã diễn ra suốt 5 thế kỷ đã qua, khủng khoảng kinh tế vẫn xảy ra kể cả trong phạm vi khu vực cũng như toàn cầu. Vậy đâu là nguyên nhân và hậu quả của nó như thế nào? Chúng ta sẽ cùng đi phân tích trong bài viết này.
I. TỔNG QUAN VỀ CHU KỲ KINH TẾ, KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1. Chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng).
Hình 1: Chu kỳ kinh tế
Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền kinh tế đã sang pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đổi chiều giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:
- Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
- Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
- Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
- Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại.
Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt, v.v… không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ở Việt Nam cho đến đầu thập niên 1990, trong một số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. – Trích Giáo trình Kinh tế vĩ mô.
2. Khủng hoảng và suy thoái kinh tế
* Suy thoái kinh tế: Là sự suy giảm của Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm (nói cách khác, tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý) – Trích Giáo trình Kinh tế vĩ mô.
Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và lợi nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kì đình lạm.
* Khủng hoảng kinh tế: Là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế.
3. Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho nó không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất là: ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản tài chính như một phương tiện giao dịch, cất trữ tài sản, và là trung gian chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Hệ quả là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với giảm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát. - Trích Giáo trình tài chính phát triển
II. TÌNH HÌNH KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI NĂM 2008
1. Khủng hoảng kinh tế ở Mỹ - Phân tích nguyên nhân và hậu quả.
Khủng khoảng kinh tế thế giới có thể xuất phát từ bất kỳ quốc gia nào nếu tham gia vào quan hệ kinh tế quốc tế, không phụ thuộc qui mô của từng quốc gia: Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, hai sự kiện lớn xảy ra tại nước Mỹ, có tác động sâu sắc đến chính trị và an ninh thế giới, đến kinh tế thế thế giới và làm thay đổi nhiều khái niệm, tư duy và hành động của các quốc gia. Đó là sự kiện khủng bố đánh sập tòa tháp đôi tại New York ngày 11/9/2001 làm hàng ngàn người chết, bị thương và mất tích và sự kiện Ngân hàng Lehman Brothers tuyên bố phá sản ngày 17/9/2008 dẫn đến cuộc khủng khoảng kinh tế trên toàn thế giới.
Trong phạm vi bài viết này, chúng ta cần nghiên cứu tại sao khủng khoảng lại bắt đầu từ nước Mỹ? Một đất nước có nền kinh tế lớn nhất, hùng mạnh thế giới, chiếm khoảng 25% GDP thế giới. Một đất nước có nền kinh tế năng động nhất, có số lượng chuyên gia, số lượng các nhà khoa học đạt giải Nobel kinh tế nhiều nhất thế giới... lại không dự báo được khủng khoảng kinh tế. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng khoảng đã được chỉ ra, đó là: sự sụp đổ của thị trường bất động sản, của hệ thống tài chính - ngân hàng... dẫn đến khủng khoảng trong lĩnh vực sản xuất ôtô.
Nếu xét tổng số nợ của Mỹ so với GDP, thì bức tranh cho thấy sự bấp bênh về tài chính rõ hơn nhiều. Trong thập kỷ 80, dưới thời Regan, tổng số nợ của Mỹ so với tỷ lệ của GDP (US total debt as % of GDP) bị đẩy từ 150% lên đến xấp xỉ 240%. Con số này tăng lên rất ít trong suốt 2 nhiệm kỳ của Clinton, tới gần 250%. Nhưng nó lại bị đẩy lên dưới thời của Bush, đạt tới 350% vào năm 2008, vượt xa đỉnh cao trong lịch sử là 300%, khi xảy ra cuộc đại khủng hoảng 1929-1930.
Như đã nói, khi việc mất cân đối vĩ mô trở nên nghiêm trọng, thì bong bóng đầu cơ dễ dàng làm cho khủng hoảng nổ ra. Chúng ta sẽ cùng nhìn lại những diễn biến chính đưa đến khủng hoảng:
- Năm 2000, sau cuộc vỡ bong bóng chứng khoán, Fed hạ thấp lãi suất cơ bản nhằm được mục tiêu kép:
+, Kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nước
+, Làm giảm giá trị của đồng USD so với các đồng ngoại tệ mạnh khác, nhằm kích thích xuất khẩu, cho phép giảm thâm hụt ngoại thương và kiềm chế nợ nước ngoài.
Về dài hạn, sự kích thích đầu tư, đẩy mạnh tiến bộ công nghệ và tăng năng suất lao động sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và sức mạnh của đồng USD Mỹ. Điều đó dẫn đến kỳ vọng về một sự thịnh vượng dài hạn của đất nước và người dân Mỹ.
- “Hiệu ứng phụ” của việc giảm lãi suất cơ bản của Fed là giảm lãi suất vay, do đó, làm tăng tổng số cho vay đầu tư vào bất động sản. Điều này được thúc đẩy bởi niềm tin của người dân vào sự giàu có ngày càng tăng của Mỹ; vào dân số tiếp tục tăng; và giới hạn của đất đai; nên giá bất động sản sẽ chỉ có tăng. Nói một cách khác, bong bóng bất động sản bắt đầu hình thành.
- Bong bóng nhà đất đã kích thích các ngân hàng thương mại tham gia vào các hoạt động đầu cơ rủi ro cao (chủ yếu trên lĩnh vực bất động sản). Điều này trước đây bị cấm, do rủi ro trong đầu cơ bất động sản được coi là vượt quá khả năng đảm bảo an toàn của các ngân hàng thương mại.
- Tuy nhiên, để đối phó với rủi ro cao, các ngân hàng thương mại, như Freddie Mac và Fannie Mae, đã chứng khoán hóa những khoản cho vay đầu tư bất động sản.
- Điều này trên thực tế có nghĩa là: Những cá nhân hay tổ chức cho vay đầu tư bất động ản (originators) bán các khoản cho vay của họ mortgages) cho các ngân hàng thương mại như Freddie, Fannie). Các ngân hàng này “bó” các khoản vay nợ đó lại, ứng với từng mức rủi ro, rồi phân nhỏ ra để làm tăng tính thanh hoản, sau đó bán ra như chứng khoán cho công chúng, thông qua các ngân hàng đầu tư securitization.
- Khi công chúng hay những nhà đầu tư phổ thông mua các khoản cho vay nợ được chứng khoán hóa này, họ thường mua luôn bảo hiểm để chống lại rủi ro do khoản vay nợ được chứng khoán hóa đó có thể không trả được.
- Vì vậy, quá trình này cho phép những cá nhân, tổ chức cho vay đầu tư vào bất động sản (originators) trút được gánh nặng rủi ro sang cho tổ chức khác gánh chịu, và thu về khoản tiền bán ra những tài sản cho vay được chứng khoán hóa đó. Họ giàu lên nhanh chóng, nên được các công ty xếp hạng (rating companies) đánh giá cao (AAA). Do vậy, các nhà đầu tư phổ thông trên thị trường vốn càng hưng phấn, và giá bất động sản càng bị bốc lên cao.
- Cho tới hết nhiệm kỳ đầu tiên của cựu tổng thống Bush (2004), bong bóng bất động sản không tạo ra lo ngại. Lý do là nền kinh tế về cơ bản vẫn vững vàng: tốc độ tăng năng suất và tiền lương thực tế vẫn tiếp tục được giữ ở mức cao; cân đối vĩ mô vẫn nằm trong tầm kiểm soát.
- Với một số lượng rất lớn các dự án đầu tư vào bất động sản, các tổ chức bảo hiểm, như AIG, có thể xác định được chính xác một tỷ lệ % khá nhỏ, rằng đầu cơ có thể bị thất bại. Tức là, họ xác định được tỷ suất sinh lợi của mỗi đồng vốn cho vay, cũng như phí bảo hiểm cho rủi ro bị nợ xấu. Nhờ đó, họ có thể định giá chính xác các khoản cho vay nợ được chứng khoán hoá theo mức rủi ro của nó. Vì vậy, trong điều kiện cân bằng vĩ mô được duy trì, các tổ chức này hoạt động rất có lãi nhờ bong bóng nhà đất.
- Vào sau quý I/2005, thâm hụt ngân sách, thâm hụt ngoại thương, và nợ nước ngoài của Mỹ thể hiện ra ngày càng trầm trọng. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất - động lực của tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế - vẫn còn đang ở mức khá sung sức. Fed thay đổi chính sách của mình và đẩy lãi suất cơ bản lên 0.25 % trong mỗi lần điều chỉnh. Mục đích là nhằm thu hẹp cầu cơ; hạn chế bong bóng nhà đất; và lái vốn đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, có hiệu quả dài hạn cao hơn.
- Nếu vốn đầu tư được chuyển mạnh vào lĩnh vực công nghệ cao, cho phép tăng năng suất và sức cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ và gánh nặng hai cuộc chiến tranh không tăng vọt, thì cân đối vĩ mô sẽ được cải thiện. Trên thực tế, bong bóng nhà đất không hề giảm và nợ nước ngoài ngày càng tăng. Một trong các lý do là các ngân hàng kiếm lãi nhanh hơn nhờ bong bóng nhà đất; và không quan tâm đáng kể tới đầu tư vào công nghệ cao, đòi hỏi thời gian đầu tư lâu để sinh lãi. Thêm vào đó, chiến tranh ngày càng trở nên tốn kém. Hệ quả là mất cân đối vĩ mô trở nên nghiêm trọng, buộc Fed phải mạnh tay hơn.
- Fed liên tiếp đẩy lãi suất cơ bản lên 0.25% trong mỗi lần điều chỉnh cho tới hết năm 2006, và duy trì nó ở mức cao tới cuối 2008
- Hệ quả là lãi suất cho vay để đầu cơ vào bất động sản tăng lên gấp bội và không ngừng bị đẩy lên. Số đông tầng lớp trung lưu, đang vay nợ để đầu tư vào nhà đất, lúc này không còn chịu đựng nổi gánh nặng lãi suất, dẫn đến bong bóng nhà đất vỡ.
- Vào cuối 2008, hàng loạt người vay nợ buộc phải trả lại nhà cửa, bất động sản mua bằng tiền vay không có thế chấp cho ngân hàng để trừ nợ. Giá bất động sản sụt giảm nhanh chóng. Tài sản cho vay được chứng khoán hoá bị bán ra ào ạt, khiến cho giá của chúng sụt giảm mạnh trên thị trường chứng khoán. Điều mà các ngân hàng, và tổ chức bảo hiểm (như AIG), không kỳ vọng xảy ra, thì nay đã trở thành thực tế. Cùng một lúc, hàng loạt con nợ bị vỡ nợ với quy mô lớn, khiến cho vốn của các ngân hàng bị bốc hơi nhanh chóng
- Sự hoảng loạn từ thị trường nhà đất, lan sang thị trường chứng khoán, rồi lan sang hệ thống ngân hàng. Khủng hoảng tài chính bắt đầu diễn ra, thể hiện như sau:
+ 1/7/2008, Bank of America mua lại Countrywide Financials (một trong những tổ chức bán mortgage backed securities lớn nhất).
+ 8/9/2008, Freddie Mac and Fannie Mae bị quốc hữu hoá (với tổng tài sản hơn 5 ngàn tỷ USD).
+ 15/ 9/2008, Lehman đệ đơn phá sản (tài sản lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ: 600 tỷ USD).
+ 16/9/2008, Fed buộc phải cứu AIG với 85 tỷ USD cứu trợ (Tài sản của nó hơn 1 ngàn tỷ USD).
Lý do là các tổ chức này mất khả năng thanh toán. Sự vỡ nợ của một loạt tổ chức trong lĩnh vực tài chính, địa ốc làm một số lượng lớn nhân viên làm việc thuộc lĩnh vực này bị sa thải. Sự sụt giảm mạnh giá địa ốc, chứng khoán, làm tài sản của giới trung lưu - trụ cột của sức tiêu thụ của nền kinh tế Mỹ bị giảm mạnh, dẫn đến sự co thắt về tổng cầu tiêu dùng hàng hóa cao cấp và lâu bền như xe hơi, cũng như các dịch vụ giải trí. Điều này cũng làm các công ty xe hơi lớn như GM và một số lớn các nhà thầu phụ của chúng bị phá sản. Nhiều trung tâm giải trí lớn như Las vegas cũng vắng khách. Việc rất nhiều các công ty tài chính và phi tài chính bị phá sản làm tăng số người thất nghiệp, kéo theo sự co hẹp tổng cầu về tiêu dùng và đầu tư, diễn ra theo đường xoáy ốc đi xuống. Do Mỹ là trung tâm tài chính, thị trường tiêu thụ, và là con nợ lớn nhất thế giới; khủng hoảng tài chính và kinh tế của Mỹ đã lan nhanh ra các nền kinh tế khác, dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Như chúng ta đã thấy, một trong các hệ quả của đạo luật cho phép sự tự do hóa của hoạt động ngân hàng (Gramm-leach-Bliey) là sự xuất hiện các hình thức giao dịch phái sinh trên thị trường cho vay đầu tư bất động sản (subprime mortgage market). Cụ thể là quá trình chứng khoán hóa các khoản cho vay nợ trên thị trường (securitization), đi kèm với các hình thức mua bảo hiểm rủi ro (mortgage backed securities).
Trong điều kiện cân bằng vĩ mô được duy trì, các dự án vay đầu tư vào bất động sản là khá an toàn, theo nghĩa: rủi ro bị vỡ nợ là nhỏ; khả năng vỡ nợ là biệt lập nhau (dự án này bị phá sản (default) không kéo theo dự án khác bị phá sản theo); có một số các dự án đang sinh lãi cao. Khi đó, ngân hàng và các công ty bảo hiểm không kỳ vọng có một số lượng rất đông những người vay nợ sẽ bị vỡ nợ hàng loạt, trên quy mô lớn, và vào cùng một thời điểm. Trong điều kiện đó, hoạt động bảo hiểm là rất có lãi. Như đã nói, các công ty bảo hiểm (như AIG), có thể xác định được hầu như chính xác tỷ lệ trung bình số dự án bị vỡ nợ (và con số % bị“tai nạn” đó là nhỏ). Vì vậy, bảo hiểm cho việc mua các khoản vay nợ được chứng khoán hóa là một hình thức phái sinh rất có lãi, khi giá nhà đất đang có chiều hướng tăng ổn định. Mặt khác, về phía ngân hàng, việc bán ra các khoản cho vay được chứng khoán hóa (securitization)là một hình thức phái sinh khá “thông minh” để các tổ chức này đa dạng hóa gánh nặng rủi ro, tránh bị mất quá nhiều vốn do rủi ro không đòi được nợ (adverse selecion and moral hazard).
Khoản tiền thu về do bán ra các khoản cho vay được chứng khoán hóa đó, lại tiếp tục được sử dụng để cho vay mới khiến các ngân hàng giàu lên rất nhanh. Như đã nêu, vào sau quý I/2005, tình hình đã thay đổi. Cân đối vĩ mô bị xấu đi nghiêm trọng, thể hiện bởi con số vay nợ của Chính phủ Mỹ, thâm hụt ngoại thương, và nợ nước ngoài của Mỹ so với tỷ lệ GDP tăng lên.
Đến lượt nó, sự mất cân đối kinh tế vĩ mô lại ép Fed tăng lãi suất cơ bản lên liên tiếp 0.25% sau mỗi lần điều chỉnh. Tuy vậy, đồng USD vẫn tiếp tục bị sụt giá so với các ngoại tệ mạnh khác trong suốt các năm 2005 -2008, kéo theo sự giao động mạnh của giá cả trên thị trường vốn, ngoại hối, năng lượng, và nhất là thị trường cho các giao dịch tương lai (future market).
Trong khuôn khổ hẹp hơn mà chúng ta đang quan tâm, điều đó khiến cho: mức độ rủi ro của hoạt động đầu cơ trên lĩnh vực bất động sản tại Mỹ bị tăng vọt, do giá cả các tài sản tài chính giao động mạnh và khó lường; toàn bộ môi trường vĩ mô bị bất ổn, các tổ chức tài chính và bảo hiểm không còn khả năng phân loại các khoản nợ theo từng lớp rủi ro. Thay vào đó, có sự “cộng hưởng” của hầu hết các dự án của những người đi vay: hoặc bong bóng bất động sản sẽ tiếp tục, và tất cả các nhà đầu cơ sẽ tiếp tục được lợi lớn; hoặc bong bóng sẽ bất ngờ bị vỡ, và tất cả bị vỡ nợ.
Cũng hệt như ở khu vực có khả năng xảy ra hỏa hoạn hay động đất lớn, bảo hiểm tài sản nhà cửa ở khu vực đó sẽ thu lời cao, nếu nạn hỏa hoạn hay động đất vẫn chưa xảy ra. Và hãng bảo hiểm hay ngân hàng cho vay đầu tư vào nhà đất sẽ bị “sập tiệm”, nếu cùng một lúc, hàng loạt ngôi nhà bị cháy rụi hay bị phá hủy bởi động đất. Tình hình các tổ chức tài chính và bảo hiểm cho các khoản cho vay được chứng khoán hóa tại Mỹ, vào các năm 2006 - 2008, thực sự ở trong tình cảnh tương tự.
Điều mà các nhà kinh tế học thể chế như Stiglitz (2008), và cả những người theo chủ thuyết tự do, như Mc Kinnon (1991), muốn nhấn mạnh ở đây là: khi rủi ro mang tính hệ thống như vậy, với sự giám sát tài chính lỏng lẻo; các tổ chức tài chính ngầm cho rằng nhà nước đứng sau bảo hiểm cho mọi rủi ro, vì không thể để hàng loạt các tổ chức tài chính, công nghiệp cùng một lúc bị đổ vỡ.
Khi đó, các tổ chức tài chính có thể thực hiện những hành vi trục lợi rất vô trách nhiệm (moral hazard in bank, theo cách nói của Kane, 1985). Ví dụ, ngân hàng có thể thực hiện hàng loạt các giao dịch cho vay rất mạo hiểm, có lúc lên tới 110% giá trị thị trường của tài sản nhà cửa, mà không cần thế chấp (Selten, 2008). Với sự bất ổn vĩ mô tạo nên rủi ro hệ thống (giống như rủi ro sắp xảy ra động đất lớn), việc cho vay ào ạt và đầy mạo hiểm sẽ đem lại lợi nhuận kếch xu cho các ngân hàng, nếu bong bóng bất động sản tiếp tục tăng; và các nhà tài phiệt bỏ lại đằng sau cho Chính phủ và xã hội gánh chịu tổn thất khổng lồ (nếu bong bóng vỡ), với hàng loạt dự án bị vỡ nợ, giá trị tài sản bị suy sụp trên quy mô lớn và xảy ra cùng một lúc, như sau một cơn hỏa hoạn hay động đất lớn.
2. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn thế giới
Dưới tác động của khủng khoảng tại Mỹ, các ngân hàng ở nước ngoài tham gia vào thị trường bất động sản tại Mỹ cũng gánh chịu hậu quả và tạo phản ứng dây chuyền ra ngoài biên giới nước Mỹ, như quân cờ Đôminô các nước ở Châu Âu, Châu Úc...đều bị cuốn vào vòng xoáy, thế là điều không mong đợi đã đến: khủng khoảng kinh tế thế giới với qui mô rộng lớn không kém cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới năm 1929 - 1933 đã xảy ra.
Khi câu chuyện khủng khoảng kinh tế ở nước Mỹ và trên thế giới dần được khắc phục, thế giới đang hy vọng năm 2010 sẽ là năm tăng trưởng kinh tế trên toàn cầu, thì ngay tại Châu Âu, một đất nước không rộng, người không đông như Hy Lạp lại đứng trên bờ vực của sự sụp đổ vì nợ công. Châu Âu lại "hốt hoảng" và lo sợ những điều tồi tệ lại có thể xảy ra. Sau nhiều tranh cãi quyết liệt, ngân hàng Châu Âu (EB) và quĩ tiền tệ thế giới (IMF) đã thống nhất chi khoảng 600 tỷ Euro để "giải cứu" Hy Lạp và mộ số quốc gia khác có dấu hiệu “cảm cúm” như Bồ Đào Nha, Tây ban Nha..., trong đó Hy Lạp nhận đuợc khoảng 110 tỷ Euro. Với kế hoạch “giải cứu” đồ sộ như vậy nhưng không ai dám chắc chắn khẳng định, khủng khoảng kinh tế tại Hy Lạp là trường hợp cuối cùng.
Với các dẫn chứng nêu trên, có thể khẳng định: trong quan hệ kinh tế quốc hiện nay, các quốc gia đều có mối quan hệ mật thiết, có sự phụ thuộc và ràng buộc nhau rất lớn. Chúng ta thường hay nói, đó là thế giới phẳng. Mọi biến động về kinh tế ở nước này đều có tác động, có ảnh hưởng đến kinh tế nước khác hoặc nhiều nước khác. Khủng khoảng kinh tế có thể xảy ra tại bất cứ quốc gia nào nếu không phát hiện và điểu chỉnh kịp thời các yếu tố làm mất cân đối vĩ mô, cho dù có thể là quốc gia lớn nhất như Mỹ năm 2008; nước xa xôi như Mêhicô năm 1994; nước có kinh tế tăng trưởng cao như Thái Lan và Hàn Quốc năm 1997-1998...
Lĩnh vực tài chính - ngân hàng vẫn là khâu dễ bị tổn thương nhất trong khủng khoảng kinh tế: Thế giới chúng ta đang sống đã thay đổi rất nhanh trong hơn 100 năm trở lại đây. Nếu quay lại cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, sản xuất của cải vật chất (sản xuất công nghiệp và nông nghiệp) vẫn đóng vai trò chủ yếu. Sản xuất công nghiệp được tính theo đơn vị tấn, sản xuất nông nghiệp được tính trên ha. Tuy nhiên cuộc cách mạng KHKT trên thế giới từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước đã làm thay đối tất cả. Chính cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ đã tạo ra lĩnh vực kinh tế mới, hoàn toàn khác trước: kinh tế dịch vụ. Nước đi đầu trong chuyển dịch và hình thành lĩnh vực kinh tế dịch vụ đó là Mỹ. Hiện nay trong khoảng 15.000 tỷ USD sản phẩm quốc nội của Mỹ thì gần 80% do lĩnh vực kinh tế dịch vụ mang lại, công nghiệp ước còn 15% và thấp nhất đó là nông nghiệp chiếm chưa đến 5% GDP...Có thể nói lĩnh vực kinh tế dịch vụ đã tạo ra nước Mỹ mới ngày nay. Trong kinh tế dịch vụ, tài chính - ngân hàng có vị trí quan trọng nhất. Nhiều ngân hàng, nhiều tổ chức tài chính của Mỹ đã hoạt động và phát triển không chỉ trong phạm vi nước Mỹ, mà còn trong phạm vi toàn cầu như Bear Steams; JP Morgan Chase; Bank of America; American international Group...với số vốn từ hàng tỷ đến hàng trăm tỷ USD.
Với qui mô, phạm vi hoạt động và tổ chức lớn như vậy, khi khủng khoảng xảy ra, nhiều ngân hàng và tổ chức tài chính gánh chịu hậu quả đầu tiên. Vì lẽ đó, khi ngân hàng Lehman Brothers tuyên bố phá sản ngày 15/9/2008 đã làm rung chuyển không chỉ trong nước Mỹ, mà còn rung chuyển toàn thế giới và bắt đầu "một năm tồi tệ" đối với kinh tế thế giới.
Vai trò của các tổ chức tài chính lớn đã thay đổi: Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, trên thế giới có hai tổ chức tài chính lớn nhất được thành lập, đó là Quĩ Tiền Tệ thế giới (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Có thể nói giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, dưới ảnh hưởng của Mỹ, cả hai tổ chức tài chính này đã có vai trò to lớn trong việc tham gia tái thiết Châu Âu, Nhật Bản cũng như một số quốc gia và vùng lãnh thổ mà nước Mỹ có can dự. Với tư cách là cổ đông lớn nhất, nước Mỹ quyết định đồng tiền của IMF và WB đi về đâu và sinh lời như thế nào. Chính vì vị trí đặc biệt đó, từ kinh tế, sức ép của Mỹ đã lan sang chính trị. Bài học này đặc biệt thấy rõ giai đoạn Liên Xô cuối thời kỳ Cải tổ hay nước Nga thời B.En-xin. Gai đoạn này nếu Liên Xô hay nước Nga đồng thuận với chính sách của Mỹ thì được vay tiền để giải quyết khó khăn trong nước, nếu trái chiều kết quả sẽ ngược lại.
Tuy nhiên từ cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước, thế giới thay đổi rất nhanh, nước Mỹ đã trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới và có tiếng nói gần như quyết định với các vấn đề toàn cầu (chính trị, kinh tế, quân sự, an ninh...). Nước Mỹ đã trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua các tổ chức tài chính quốc tế) giúp đỡ một số nước gặp khủng khoảng kinh tế trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Chính sự thành công đó đã "vô tình" ngăn IMF và WB tự đổi mới để thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế trong giai đoạn toàn cầu hoá. Điều này đã được thể hiện qua hội nghị kinh tế tại Đa-vớt Thuỵ Sĩ vào đầu năm 2009, trong đó đã thể hiện hệ thống ngân hàng là khâu yếu và cần phải thay đổi để có thể ngăn ngừa khủng khoảng trong tương lai.
III. NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
1. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu
Thứ nhất, vấn đề liên quan chức năng giám sát của chính phủ, tự do hóa hệ thống ngân hàng và tài chính.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng tài chính từ Mỹ là sự đổ vỡ của thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp, dẫn đến sự đổ vỡ tín dụng của nhiều ngân hàng lớn không chỉ ở Mỹ, như Lehman Brothers, Morgan Stanley, AIG, Citigroup..., mà còn ở nhiều nước châu Âu, châu Á. Với tư cách là một nước đầu tàu trong trường phái tự do hóa kinh tế và rất nhiều kinh nghiệm quản lý thị trường tự do trong nhiều thập kỷ qua, các nhà quản lý của Mỹ đã không thể cứu vãn nổi hệ thống ngân hàng và tài chính của mình. Các nhà phân tích cho rằng, vấn đề nằm ở chỗ cơ chế giám sát của Mỹ cũng như các nước phát triển khác đã chưa được phát triển tới mức cần thiết, chưa tương xứng với mức độ tự do hóa tài chính. Vấn đề đặt ra là làm thế nào có thể xây dựng được cơ chế giám sát phù hợp, hiệu quả, khi mà sự lưu chuyển các dòng vốn quốc tế khá đa dạng, được diễn ra trên diện rộng và với tốc độ cao như hiện nay?
Thứ hai, nguy cơ gia tăng thâm hụt ngân sách.
Cho đến nay, các chính phủ và các tổ chức tài chính trên thế giới đã và đang thực hiện nhiều gói giải cứu và kích thích kinh tế khác nhau, trị giá lên đến hàng nghìn tỷ USD. Ðánh giá sơ bộ cho thấy các biện pháp giải cứu này là khá kịp thời và có hiệu quả. Tuy nhiên, do nền kinh tế bị tổn thất khá nặng nề, các gói kích thích kinh tế vẫn cần phải được tiếp tục trong tương lai, nhằm bảo đảm tăng trưởng ổn định. Do các gói kích thích được dùng chủ yếu vào việc gia tăng đầu tư công, nên khó tránh khỏi nguy cơ gia tăng thâm hụt ngân sách. Trong bối cảnh đó, chính sách thắt chặt tiền tệ nhiều khả năng sẽ được áp dụng trong tương lai gần.
Thứ ba, giải quyết vấn đề thất nghiệp còn nhiều nan giải.
Cho đến thời điểm hiện tại, ở một số nước, tỷ lệ thất nghiệp vẫn gia tăng. Theo thống kê của OECD, tỷ lệ thất nghiệp hiện nay của nhóm nước này là khoảng 8,5%. Ðây là một tỷ lệ khá cao. Song vấn đề không phải chỉ dừng ở đó! Với một mức thiệt hại lớn về tài chính diễn ra trong suốt thời kỳ khủng hoảng vừa qua, đồng thời nhu cầu vốn lớn trong tương lai, khi nhiều công ty đang có ý định chuyển đổi cơ cấu sản xuất, chiến lược được lựa chọn nhiều hơn cả của các công ty là tiết kiệm nguồn nhân lực. Ðiều đó có nghĩa là mặc dù nền kinh tế thế giới có nhiều dấu hiệu phục hồi, song cơ hội việc làm sẽ có nhiều khả năng không gia tăng theo cùng nhịp độ đó. Thách thức đối với thị trường lao động thế giới là chuẩn bị nguồn nhân lực để có thể đón nhận được làn sóng chuyển dịch cơ cấu mới - sang nền kinh tế xanh chẳng hạn.
Thứ tư, nguy cơ gia tăng các biện pháp bảo hộ thị trường trong nước và sự can thiệp của chính phủ.
Một nhân tố cơ bản thúc đẩy các nước, nhất là các nước đang phát triển, tham gia làn sóng tự do hóa và toàn cầu hóa kinh tế hiện nay là nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong nước. Mặt khác, khi nền kinh tế trong nước bị tổn thương, phản ứng tự nhiên là các chính phủ, bất kể là phát triển hay đang phát triển, sẽ phải áp dụng các biện pháp bảo vệ. Lời kêu gọi của Tổng thống Mỹ B.Obama "Buy American" (Người Mỹ mua hàng Mỹ), hoặc các biện pháp hỗ trợ tín dụng được đưa ra trong các gói kích thích kinh tế, là biểu hiện của phản ứng này. Theo đánh giá của các chuyên gia thương mại quốc tế, đối với nhiều nước trên thế giới, cuộc khủng hoảng toàn cầu lần này giống như cuộc khủng hoảng thương mại nhiều hơn. Do phụ thuộc quá lớn vào trao đổi thương mại và đầu tư với bên ngoài, nền kinh tế của họ đã bị thiệt hại chủ yếu từ hai lĩnh vực này. Tuy nhiên, các chuyên gia WTO cho rằng, các biện pháp mà các nước đang áp dụng hiện nay để hạn chế tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng mang tính chất bảo vệ nhiều hơn và là tạm thời. Mặc dù vậy, họ vẫn kêu gọi các nước phải quan tâm hơn đến việc thực hiện các cam kết về tự do hóa thương mại toàn cầu và khu vực của mình, trong đó hoàn tất Vòng đàm phán Doha cần phải được xếp là một mục tiêu ưu tiên.
Thứ năm, những thách thức từ việc lựa chọn chính sách.
Thách thức lớn nhất đối với các chính phủ trong quá trình hoạch định chính sách là sự hài hòa giữa mục đích ngắn hạn và trung hạn. Việc các nước áp dụng các gói kích thích kinh tế trước mắt giúp cho nền kinh tế nhanh chóng đạt được sự phục hồi, song về trung hạn, sẽ tạo sức ép về thâm hụt ngân sách và gia tăng nợ nần. Hơn nữa, các gói kích thích kinh tế chủ yếu khuyến khích cầu đầu tư, đặc biệt là đầu tư cơ sở hạ tầng và đầu tư công khác, mà ít chú ý đến đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Chính vì thế, để hướng tới một sự phục hồi ổn định hơn, nhiều ý kiến cho rằng các gói kích thích cần được duy trì thêm một thời gian nữa. Như vậy, sự lựa chọn này làm gia tăng sức ép cho chính phủ, trước hết là về mặt ngân sách, đồng thời có nguy cơ làm chậm lại quá trình cải tổ cơ cấu nhằm hướng tới một sự phát triển bền vững lâu dài hơn.
2. Giải pháp.
Thứ nhất: Duy trì niềm tin cho các nhà đầu tư, người dân về chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối phó với khủng hoảng.
Dù rằng cho đến thời điểm hiện nay, Chính phủ các nước đã đổ rất nhiều tiền vào các gói giải pháp ứng phó khủng hoảng. Tuy nhiên, niềm tin vào hiệu quả do các chính sách đó mang lại đối với đầu tư và người dân chưa thật sự cao. Thị trường tài chính thế giới vẫn ảm đạm: thị trường chứng khoán sụt giảm, thị trường bất động sản không khởi sắc và thiếu tính thanh khoản, thị trường tiền tệ ngân hàng vẫn còn trong giai đoạn chờ đợi phục hồi.
Thứ hai: Phòng chống rủi ro đỗ vỡ thanh khoản toàn hệ thống tài chính, đặc biệt là đổ vỡ khủng hoảng cho vay cầm đố dưới tiêu chuẩn.
Việc hỗ trợ của Chính phủ đối phó với khủng hoảng nợ cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn đã được thực thi thông qua nhiều biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức tài chính và ngân hàng như quốc hữu hóa ngân hàng, khuyến khích sáp nhập ngân hàng, mua lại các khoản nợ của các ngân hàng có vấn đề hoặc bị phá sản,…
Biện pháp này đã và đang phát huy tác dụng về mặt ngăn ngừa tác động ảnh hưởng đỗ vỡ hệ thống tài chính. Thế nhưng chi phí cho gói giải pháp này vẫn đang tiếp tục tăng lên và chưa có dấu hiệu kết thúc, điển hình là danh sách ngân hàng và các tổ chức tài chính cần được hỗ trợ không ngừng tăng lên và mức độ bơm tiền của Chính phủ vào hệ thống tài chính lại tùy thuộc vào khả năng của từng Chính phủ khi thi hành biện pháp này.
Thứ ba: Khủng hoảng tín dụng lan sang khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế.
Một thực tế cho thấy việc ứng phó khủng hoảng trong thời gian qua của Chính phủ đã không lường hết tính liên thông thị trường của hệ thống tài chính. Khủng hoảng cho vay cầm cố dưới chuẩn làm năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng và các quỹ đầu tư bất động sản trở nên yếu kém. Các tổ chức tài chính và ngân hàng liên tiếp tuyên bố lỗ và trông chờ ứng cứu của Chính phủ hoặc phải sáp nhập trong tình trạng giá trị thị trường của các đơn vị này bị sụt giảm nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan nhanh sang các nước khác và ảnh hưởng của nó không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trên cả thế giới với nhiều mức tác động khác nhau tùy theo tình hình cụ thể của từng quốc gia.
Thứ tư: Hiệu ứng của khủng hoảng kinh tế tài chính và vấn đề an sinh xã hội.
Không thể phủ nhận việc ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính đã tác động không nhỏ đến vấn đề an sinh xã hội như làm cho thất nghiệp gia tăng, thu nhập của dân cư giảm và đầu tư hạn chế. Vấn đề này đã khiến cho Chính phủ các nước ngoài việc thực thi các biện pháp ứng phó khủng hoảng còn phải chi thêm tiền cho các tác động ảnh hưởng của khủng hoảng, cụ thể:
- Ứng cứu ngân hàng và các tổ chức tài chính còn phải tăng thêm chi phí cho bảo hiểm xã hội, hỗ trợ những người bị thất nghiệp.
- Hỗ trợ thanh khoản cho các khoản nợ dưới tiêu chuẩn ngoài việc tăng tính thanh khoản và tăng năng lực tài chính cho ngân hàng, còn là việc giãn nợ cho người dân đang nợ tiền ngân hàng để mua nhà nhưng không trả được nợ, góp phần hạn chế sự tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính lên nhóm đối tượng đang gặp khó khăn này.
- Tăng cường chi tiêu cho hoạt động tái dạy nghề cho những người bị thất nghiệp nhằm giúp họ chuyển hướng nghề nghiệp mới trong giai đoạn kinh tế khó khăn, thất nghiệp gia tăng.
KẾT LUẬN
Khủng hoảng tài chính 2008 trên thế giới là một điều ít ai ngờ, cả về mức độ nghiêm trọng lẫn quy mô ảnh hưởng của nó lên hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu. Bài viết nhằm vào việc tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng. Đồng thời, đưa ra những giải pháp về chính sách tài chính lành mạnh, nhằm tận dụng được các cơ hội phát triển, hội nhập kinh tế trong tương lai.
Bài tiểu luận đề cập đến các nội dung như: thế nào là khủng hoảng kinh tế, ba trường phái chính về khủng hoảng tài chính; những sự kiện chính dẫn đến khủng hoảng, cuối cùng, tôi xin đề xuất một số bài học về sự cần thiết phải xây dựng thể chế giám sát hiệu quả cho họat động tài chính, và đảm bảo tăng trưởng bền vững. Đó là quá trình xây dựng những chuẩn mức, thể chế luật lệ tốt, thúc đẩy hiệu quả và tinh thần trách nhiệm; chứ không đơn giản chỉ là sự xóa bỏ các thể chế yếu kém, đang cản trở sự sáng tạo và phát triển.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khung hoang kinh te.doc