A- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
B- NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Cấu trúc đề tài:
I. Lý thuyết chung về thu-chi ngan sách nà nước
1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
1.2. Vai trò của ngân sách nhà nước
1.3. Thu và chi của ngân sách nhà nước
II. Khủng hoảng nợ công Châu Âu
2.1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng
2.2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng.
2.3. Hậu quả của cuộc khủng hoảng.
III. Bài học kinh nghiệm và một số giải pháp đối với Việt Nam.
3.1. Tình trạng thu-chi NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010.
3.2. Những bài học kinh nghiệm.
3.3. Một số gải pháp, kiến ngị.
C- KẾT LUẬN
Lý do chọn đề tài
Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và chi của nhà nước, khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả của ngân sách nhà nước thì nước đó rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách.
Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong các nước phát triển và các nước kinh tế chậm phát triển. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nề kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể. Nổi bật nhất trong khoảng thời gian vừa qqua là cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực Châu Âu. Nguy cơ Hy Lạp vỡ nợ là rất cao. Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp có thể lây lan đến một loạt các nước khác trong EU có mức nợ quốc gia cao tương đương với Hy Lạp như Ý, bồ Đào Nha, Areland, và Tây Ban Nha. Cuộc khủng hoảng này không chỉ có những ảnh hưởng to lớn đến khu vực Châu Âu mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới và đe dọa đến tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu.
Sau khi gia nhập WTO(2007), kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỷ lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Nếu cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp xảy ra thì kinh tế của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cũng là một bài học cho Việt Nam khi nhìn lại vấn đề nợ công và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4521 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khủng hoảng nợ công châu âu và bài học với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ VẠN XUÂN
KHOA KINH TẾ
BÀI TIỂU LUẬN
KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG CHÂU ÂU VÀ BÀI HỌC VỚI VIỆT NAM
Học phần: Tài chính-Tiền tệ
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thảo
Nhóm thực hiện: Nhóm1_Lớp DHKT2:
Bùi Thị Hà
Hoàng Thị Hồng Thảo
Trần Thị Thuỷ
Trương Quỳnh Ngân
Nguyễn Thị Trang
Mai Thị Thanh Vân
Thái Thị Khánh Hoà
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Cấu trúc đề tài:
Lý thuyết chung về thu-chi ngan sách nà nước
1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
1.2. Vai trò của ngân sách nhà nước
1.3. Thu và chi của ngân sách nhà nước
Khủng hoảng nợ công Châu Âu
Diễn biến của cuộc khủng hoảng
Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng.
Hậu quả của cuộc khủng hoảng.
Bài học kinh nghiệm và một số giải pháp đối với Việt Nam.
Tình trạng thu-chi NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010.
Những bài học kinh nghiệm.
Một số gải pháp, kiến ngị.
KẾT LUẬN
Lý do chọn đề tài
Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và chi của nhà nước, khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả của ngân sách nhà nước thì nước đó rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách.
Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong các nước phát triển và các nước kinh tế chậm phát triển. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nề kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể. Nổi bật nhất trong khoảng thời gian vừa qqua là cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực Châu Âu. Nguy cơ Hy Lạp vỡ nợ là rất cao. Khủng hoảng nợ ở Hy Lạp có thể lây lan đến một loạt các nước khác trong EU có mức nợ quốc gia cao tương đương với Hy Lạp như Ý, bồ Đào Nha, Areland, và Tây Ban Nha. Cuộc khủng hoảng này không chỉ có những ảnh hưởng to lớn đến khu vực Châu Âu mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới và đe dọa đến tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu.
Sau khi gia nhập WTO(2007), kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỷ lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Nếu cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp xảy ra thì kinh tế của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cũng là một bài học cho Việt Nam khi nhìn lại vấn đề nợ công và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.
Những vấn đề chung về thu - chi ngân sách Nhà nước:
1.1 Khái niệm ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được các cơ quan có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm, để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
1.2 Vai trò của ngân sách nhà nước.
1.2.1 Kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế)
Trong lĩnh vực kinh tế Nhà nước định hướng việc hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Các chính sách thuế và chính sách chi tiêu của chính phủ vừa kích thích và vừa tạo sức ép với doanh nghiệp nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
1.2.3 Giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội)
Điều tiết thu nhập và góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Như đánh thuế thu nhập, thuế lợi tức vào những người có thu nhập cao và trợ cấp cho những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, các khoản chi phí để thực hiên chính sách dân số, chính sách việc làm,các chương trình quốc gia lớn về chống mù chữ,chống dịch bệnh…
1.2.3 Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường)
Như điều tiết giả cả, giữ ổn định thị trường, chống lạm phát.
Chính phủ sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi nạn lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách cắt giảm chi tiêu ngân sách, chống tình trạng bao cấp, lãng phí trong chi tiêu, đồng thời có thể tăng thuế tiêu dùng để hạn chế cầu, mặt khác có thể giảm thuế đầu tư, kích thích đầu tư phát triển để tăng cung. Ngoài ra chính phủ còn phát hành các công cụ nợ để vay nhân dân nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước cũng góp phần to lớn về việc giảm tốc độ lạm phát trong nền kính tế quốc dân.
1.3 Thu và chi của ngân sách Nhà nước.
1.3.1 Thu ngân sách Nhà nước
Thu ngân sách Nhà nươc là những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Nổi bật của thu ngân sách Nhà nước là cơ cấu các khoản thu của ngân sách Nhà nước gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của Nhà nước.Thu ngân sách Nhà nước là tiền đề vật chất không thể thiếu để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Đặc trưng của thu ngân sách Nhà nước chính là luôn gắn chặt với quá trình kinh tế và các phạm trù chính trị.
1.3.2 Chi của ngân sách Nhà nước.
Chi của ngân sách Nhà nước là việc phân phối và việc sử dụng quỹ tập trung tiền tệ lớn nhất của Nhà nước để thực hiên các chức năng Nhà nước về mọi mặt và theo những qui tắc nhất định.
Những đặc thù riêng của chi ngân sách Nhà nước:
Chi ngân sách Nhà nước luôn gắn chặt với các nhiệm vụ kinh tế chính trị về xã hội, mà chính phủ đảm nhận trước mỗi quốc gia.
Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sach Nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện về hiệu quả kinh tế trực tiếp và các mặt xã hội chính trị, ngoại giao.
Các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp.
1.3.3 Bội chi ngân sách nhà nước.
Bội chi ngân sách Nhà nước là tình trạng tổng chi tiêu ngân sách Nhà nước vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả của ngân sách Nhà nước.
Mức bội chi NSNN = Tổng chi NSNN – Thu thường xuyên
Các nguyên nhân gây thâm hụt ngân sách Nhà nước: tham nhũng, quản lý kém, cơ cấu chi bất hợp lý hiệu quả thấp, hệ thống không hiệu quả và các nguyên nhán khách quan như thiên tai lũ lụt, hạn hán,khủng hoảng kinh tế…
Một số cách bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước như: phát hành tiền giấy,sử dụng dự trữ ngoai tệ, giảm chi, tăng thuế, thực hiện tốt công tác quản lý, chống tham nhũng…
Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
2.1. Diễn biến khủng hoảng nợ công ở Châu Âu.
Trong những tuần lễ đầu tháng 7, thị trường tài chính quốc tế gặp nhiều cú sốc liên quan đến vấn đề nợ nần của các nước châu Âu và Mỹ. Đâu đó, người ta đang nhắc lại quan điểm rằng kinh tế thế giới đang bắt đầu đi vào khủng hoảng nợ công toàn cầu.Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nền kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể.
2.1.1. Hy Lạp, nơi hình thành khủng hoảng nợ công.
Năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công chủ yếu xảy ra ở Hy Lạp khi chi phí cho các khoản nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể lợi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3.47% vào tháng 01/2010, lên 9.73% tháng 07/2010, và nhảy vọt lên 26.65%/năm ở tháng 07/2011.
Ngày 2/5/2010, các nước thành viên khu vực eurozone và IMF đã thông qua khoản vay 110 tỷ euro cho Hy Lạp, với điều kiện nước này phải thực thi các biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc nghiệt.
Hơn một năm sau khi nhận được khoản hỗ trợ 110 tỉ euro, Hy Lạp vẫn tiếp tục ở trong nguy cơ vỡ nợ. Gần đây Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF ước tính nợ quốc gia của Hy Lạp có thể lên đến 172% GDP (so với mức khoảng 120% lúc bắt đầu rơi vào khủng hoảng nợ) trong khi thâm hụt ngân sách của nước này cao hơn dự kiến và nước này đang cần một khoản hỗ trợ mới. (Nguồn:Toàn cảnh khủng hoảng nợ công châu Âu )
Các nhà lãnh đạo châu Âu đang kéo dài cuộc tranh luận về chuyện chọn lựa phương án bởi vì các bên đều đang cố gắng lựa chọn một phương án có lợi cho mình. Chẳng hạn, một trong những đề xuất của Pháp (và được Đức ủng hộ) là các chủ nợ tư nhân có thể đảo nợ, biến khoảng 90% các khoản nợ sắp đáo hạn thành các khoản nợ mới kỳ hạn năm năm.
Một đề xuất khác phức tạp hơn là Hy Lạp trả một phần các khoản nợ bằng tiền mặt (khoảng 30%), phần còn lại thì được xem như là đầu tư lại vào trái phiếu kỳ hạn 30 năm của Hy Lạp. Những đề xuất kéo dài thời hạn nợ hay đảo nợ kiểu này có thể khiến các tổ chức xếp hạng tín nhiệm như S&P hạ bậc tín nhiệm của Hy Lạp xuống hạng vỡ nợ vì những giải pháp như vậy khiến chủ nợ nhận được ít tiền hơn đáng kể so với các khoản cho vay ban đầu.
Một số quan chức các chính phủ châu Âu đang xem xét tới khả năng lựa chọn các đề xuất cho phép Hy Lạp “vỡ nợ tạm thời”. Những giải pháp này có thể được gói ghém sao cho dù có thể khiến Hy Lạp rơi vào vỡ nợ tạm thời nhưng sẽ không đủ để tạo ra một “sự kiện tín dụng”, nghĩa là không đủ để cấu thành lý do khiến các nhà phát hành các hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS-credit default swaps) phải tiến hành chi trả, như vậy giảm bớt tổn thất đối với các định chế tài chính.
Nhưng phía Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) lại không muốn Hy Lạp bị hạ xếp hạng tín nhiệm xuống khu vực vỡ nợ. ECB lập luận rằng điều đó có thể phát ra tín hiệu xấu về độ tin cậy của các trái phiếu do chính phủ châu Âu khác phát hành, đồng thời nếu trái phiếu chính phủ Hy Lạp bị xếp vào hạng vỡ nợ thì sẽ hạn chế khả năng ECB chấp nhận các trái phiếu của Hy Lạp làm tài sản cầm cố trong trường hợp hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng nước này. Điều đó đồng nghĩa hệ thống ngân hàng Hy Lạp gặp nguy cơ thiếu thanh khoản và có thể sụp đổ vì Hy Lạp không thể tự in tiền ra.
Và cho dù Hy Lạp có nhận được tiền tài trợ mới, được giãn nợ sau cuộc thảo luận lần này của các quan chức EU (21-7) thì cũng không có nghĩa là Hy Lạp có thể tránh được chuyện bị các tổ chức xếp hạng tín nhiệm dán nhãn “vỡ nợ”. Điều đó đồng nghĩa với việc mối lo khủng hoảng nợ sẽ tiếp tục có thể tác động xấu đến thị trường cổ phiếu, nhất là các cổ phiếu ngân hàng, và trái phiếu.
Thật khó dự đoán được điều gì sẽ xảy ra nếu Hy Lạp bị xếp hạng vỡ nợ và do đó, nhiều nhà đầu tư lại quay sang mua vàng và bán đi các trái phiếu chính phủ có vấn đề khác như Ý. Điều này không những chỉ đẩy giá vàng tăng mà còn đang tạo ra một hiệu ứng lây lan có thể khiến Ý trở thành nạn nhân mới của cuộc khủng hoảng nợ.
2.1.2. Ý: điểm lây lan mới của khủng hoảng.
Sau Hy Lạp, Ý cũng trở thành mối quan tâm của thị trường tài chính cũng như báo chí. Trước hết, lãi suất trái phiếu chính phủ của Ý đột nhiên được thị trường đẩy lên quá nhanh. Cụ thể là đợt đấu giá 1,25 tỉ euro trái phiếu thời hạn năm năm gần đây của Ý đã có lợi suất trung bình là 4,93%, cao hơn nhiều so với mức 3,9% của tháng trước. Điều này cho thấy thị trường đang đánh giá rủi ro vỡ nợ của Ý đã tăng lên đáng kể.
Việc lãi suất trái phiếu chính phủ Ý tăng cao do nhà đầu tư lo ngại diễn biến phức tạp về nợ công có thể tạo ra một hiệu ứng biến Ý trở thành nạn nhân tiếp theo. Trong cấu trúc nợ khoảng 1.600 tỉ euro của Ý (gấp nhiều lần so với khoản nợ 350 tỉ của Hy Lạp), có đến hơn 800 tỉ euro là các khoản nợ sẽ đáo hạn trong vòng năm năm và hơn 250 tỉ trong số đó là nợ sẽ đáo hạn trong vòng một năm. Nghĩa là nếu lãi suất tiếp tục giữ ở mức hiện tại thì chi phí phát hành mới trái phiếu để tài trợ cho các khoản nợ cũ sẽ tăng rất nhiều. Ví dụ, với hơn 250 tỉ euro trái phiếu kỳ hạn một năm của Ý thì trước đây lãi suất trung bình là 1,8%, hiện tại là gần 2,3%, đồng nghĩa với việc lãi phải trả hàng năm của Ý sẽ tăng lên khoảng hơn 1 tỉ euro so với hiện tại.
Một số liệu ước tính của Evolution Securities cho thấy nếu mặt bằng lãi suất vẫn như hiện tại thì tổng chi phí trả lãi vay của Ý sẽ tăng thêm gần 17 tỉ euro (khoảng 1% GDP) vào năm 2015. Với mức thâm hụt ngân sách khoảng 4-5% GDP hiện tại của Ý, thêm 1% GDP chi phí lãi vay này sẽ đẩy nước này tới gần hơn bờ vực khủng hoảng nợ.
Thực tế không thể phủ nhận là Ý có mức nợ công cao, tăng trưởng chậm và có một chính phủ bị xem là thiếu hiệu quả và không minh bạch. Trường hợp nếu Ý thực sự thiếu tiền trả các khoản nợ ngắn hạn sẽ gây nhiều lo ngại hơn trường hợp Hy Lạp, Ireland hay Bồ Đào Nha vì Ý là nền kinh tế lớn thứ ba trong khu vực sử dụng đồng euro và quy mô khoản nợ của nước này cũng lớn tương ứng trong khi tăng trưởng của nước này vốn dĩ là chậm chạp còn dân số Ý thì thuộc nhóm dân số già.
2.1.3. Nguy cơ vỡ nợ từ Hy Lạp lan sang Ireland rồi đến Bồ Đào Nha
Ireland
Ireland đã đưa ra các kết quả mới nhất về các ngân hàng nước này. Ngân hàng Trung Ương đã lên tiếng yêu cầu trợ giúp từ liên minh Châu Âu trong việc kiểm soát chặt chẽ lĩnh vực ngân hàng do chi phí trang trải các khoản nợ lên tới 70 tỷ Euro, tương đương 99 tỷ USD, một con số nợ khổng lồ đối với một đất nước tạo ra 171 tỷ USD một năm.
Cuộc khủng hoảng nợ công của Ireland không phải là điều bất ngờ như trường hợp Hy Lạp. Nhưng những dấu hiệu báo trước đã xuất hiện khá sớm.Trước tiên, đó là một thị trường bất động sản bong bong.Trong một thập niên tính đến năm 2007, giá nhà tại Ireland tăng gần gấp 4 lần, thậm chí còn đắt hơn cả những thành phố vẫn được mệnh danh là đắt đỏ trên thế giới như Los Angeles.
Khi bong bóng bất động sản vỡ tung đã kéo theo sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Và khi chính phủ ra tay cứu trợ ngân hàng – nợ công trở thành ghánh nặng cho ngân khố quốc gia.
Ireland đã trở thành quốc gia thứ hai sau Hy Lạp buộc phải thực hiện các biện pháp kinh tế khắc khổ để đổi lấy khoản cứu trợ khẩn cấp từ IMF và EU, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ như giảm ít nhất 10% mưc lương tối thiểu, tăng thuế giá trị gia tăng, cắt giảm 25.000 biên chế trong các cơ quan nhà nước…
Bồ Đào Nha
Bồ Đào Nha thừa nhận thâm hụt ngân sách 2010 của quốc gia này ở mức 8,6 % GDP, cao hơn nhiều so với mục tiêu 7,3% đặt ra trước đó. Khoản nợ công của Bồ Đào Nha năm 2010 lên tới 84% GDP.Nghiêm trọng hơn, 70% các khoản nợ của Bồ Đào Nha là nợ nước ngoài.Điều này đòng nghĩa với việc quốc gia này khó cos thể xoay xở hay trì hoãn khi bợ đáo hạn.
Dự báo, tỷ lệ nợ công Bồ Đào Nha sẽ tăng từ 82,4% trong tổng GDP trong năm ngoái lên 87,9% GDP trong năm nay và tăng đến 88,1% GDP vào năm tới. Cuộc khủng hoảng nợ công cũng khiến cho tình hình chính trị của nước này cũng bị chia rẽ sâu săc.Quốc hội Bồ Đào Nha đã bác bỏ chưpưng trình thắt lưng buộc bục của chính phủ nhằm hạn chế tác đọng của cuộc khủng hoảng tài chính của thủ tướng Bồ Đào Nha Ajose Socrates, khiến ông tuyên bố từ chức.
Moody đã hạ mức xếp hạng tín nhiệm của chính phủ Bồ Đào Nha xuống thêm một bặc, từ A3 xuống Baa1.Đây là lần thứ 2 trong vòng chưa đến 1 tháng Moody đã hạ bậc xếp hạng tín nhiệm của quốc gia này.Hãng này cho rằng chính phủ Bồ Đào Nha khó có thể đạt được những mục tiêu về giảm thâm hụt ngân sách giai đoạn 2011-2014.Trước đó ngày 29/3, Standard & Poor’s (S&P) cũng đã hạ mức xếp hạng tín nhiệm của Bồ Đào Nha từ BBB xuống BBB-.
Theo tuyên bố được đưa ra vào cuối ngày 6/4 của thủ tướng José Sócrates mới từ chức của nước Bồ Đào Nha, nước này chính thức đề nghị sự giúp đỡ tài chính từ bên ngoài để vực dậy hệ thống tài chính và nền kinh té.Các thành viên EU và giới phân tích nhận định quốc gia này cần ít nhất 100 tỷ USD để trang trải các khó khăn tài chính cho đén khi đáo hạn va tổng tuyển cử. Bồ Đào Nha phải trả 4,2 tỷ euro tiền trái phiếu đến hạn vào ngày 15/4 và them 4,9 tỷ USD vào thang 6.
Tây Ban Nha
Giới phân tích nhận định, Tây Ban nha có thể là nạn nhân tiếp theo của cuộc khủng hoảng nọe công với bong bong nhà đất khổng lồ và các vấn đề lien quan đến các khoản nợ tăng lên với mức đọ chóng mặt. Hợp đồng bảo hiểm khả năng vỡ nợ (CDS) kỳ hạn 10 năm của trái phiếu chính phủ Tây Ban Nha đã lên tới mức 312 điểm phần trăm, cao chưa từng ccó từ trước đến nay. Như vậy cứ 10 triệu euro nợ dài hạn của Tây Ban Nha sẽ mất 312.000 euro phí bảo lãnh.
Mạng tin “Dự báo thị truờng” (Anh) nhận định mặc dù Châu Âu vẫn chống chọi được với cơn bão khủng hoảng nợ công, nhưng những diễn biến mới nhất ở Bồ Đào Nha đang đe dọa đẩy cuộc khủng hoảng nợ công của khu vực khỏi tầm kiểm soát.
2.2. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
Nguyên nhân chính là do những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng.
Tầm quan trọng của nợ nước ngoài có thể được minh họa bằng trường hợp của Bồ Đào Nha.Ở quốc gia này, mặc dù nợ công và tỷ lệ thâm hụt khá cao nhưng cũng chỉ tương tự như của Pháp. Vấn đề quan trọng nhất mà Bồ Đào Nha đang phải đối mặt, không phải là chính sách tài chính, mà là các khoản nợ nước ngoài cao của khu vực tư nhân: các ngân hàng và các doanh nghiệp Bồ Đào Nha.
Tầm quan trọng của các khoản nợ công cũng chỉ ở mức nhất định đối với một quốc gia, ví dụ như ở Ý và Bỉ. Cả 2 nước này có tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn nhiều so với Bồ Đào Nha, nhưng mức phí bảo hiểm rủi ro mà họ phải trả lại thấp hơn nhiều so với nước này. Lý do chính là họ nợ nước ngoài rất ít, Bỉ thậm chí còn thặng dư tài khoản vãng lai.
Đặc biệt, là do trong khủng hoảng, các khoản nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công.
Điều quan trọng trên thị trường tài chính khi nhìn vào nợ công 1 quốc gia là ai là chủ nợ của chúng.
Tại các quốc gia khu vực đồng Euro, điều quan trọng là đảm bảo được hoạt động thu thuế. Với những quốc gia có nợ công cao nhưng nợ nước ngoài thấp, nợ công chủ yếu do người dân nắm giữ, và Chính phủ luôn luôn có thể giải quyết vấn đề nợ công bằng một số hình thức thu thuế.
Vì thế, nợ nước ngoài là thành phần chủ yếu gây ra những vấn đề trong khả năng thanh toán nợ của một quốc gia. Trường hợp ngoại lệ trong vấn đề này chính là Mỹ, giống như những gì được gọi là “đặc quyền cắt cổ” của nền kinh tế lớn nhất thế giới: nợ nước ngoài của Mỹ lại chính bằng đồng USD, giúp Chính phủ Mỹ có thể linh hoạt giải quyết các vấn đề nợ công.
Một điều phức tạp hơn nữa là, một quốc gia có nợ nước ngoài cao, trong khi cư dân của họ cũng nắm giữ một lượng tài sản lớn của nước ngoài.
Trong trường hợp này, Chính phủ phải đối mặt với trường hợp, quốc gia có thể vỡ nợ trong khi người dân của mình vẫn có thể hưởng lợi nhuận từ tài sản nước ngoài.Ngay cả khi điều này xảy ra, Chính phủ có thể giải quyết bằng cách, kêu gọi người dân bán tài sản nước ngoài và mua trái phiếu Chính phủ trong nước thay thế.
Một ví dụ đặc trưng là trường hợp của của Argentina năm 2001.Nợ nước ngoài ròng mà Argentina nắm giữ là không lớn, chỉ tương đương với số tài sản nước ngoài mà khu vực tư nhân trong nước nắm giữ. Mặc dù vậy, Chính phủ Argentina đã phá sản, bởi vì tầng lớp người giàu thì nhanh chóng bán tài sản ra nước ngoài, trong khi những người dân nghèo từ chối trả các khoản thuế cần thiết để giúp Chính phủ thanh toán nợ nước ngoài.
Nguyên nhân khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp
Tiết kiệm trong nước thấp, vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công.
Kinh tế Hy Lạp tăng trưởng mạnh, bình quân ở mức 4.2%/năm trong giai đoạn 2002-2007. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên minh châu Âu (EU), tạo điều kiện cho chính phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công. Thêm vào đó, tiết kiệm nội địa của nước này cũng sụt giảm nhanh chóng.Những năm cuối của của thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân chỉ ở mức 11%, thấp hơn nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý và Tây Ban Nha. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngoài.
Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng năm 2008 làm trầm trọng thêm vấn đề.
Năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công nghiệp chủ chốt của nước này. Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế. Tính đến tháng 01/2010, nợ công của Hy Lạp ước tính lên tới 216 tỷ Euro và mức nợ lũy kế được dự báo có thể vượt mức 120% GDP.
Bên cạnh đó, trong suốt thời gian dài Chính phủ Hy Lạp đã phải ngụy tạo các báo cáo về tình hình kinh tế trong nước, sắp xếp lại các giao dịch nhằm che dấu mức vay thực tế, nhằm phù hợp với các quy định gia nhập, giám sát của EU và có thể chi tiêu cao hơn.
Rủi ro lớn nhất của Hy Lạp là nợ vay nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn, có thể lên đến 80%. Ước tính tỷ lệ trái phiếu do nước ngoài nắm giữ có thể lên tới 80% lượng trái phiếu chính phủ phát hành. Chủ nợ phần lớn là các ngân hàng châu Âu. Các nước Ý, Ireland cũng trong tình cảnh thâm hụt ngân sách và nợ công cao, nhưng không bị đánh giá nghiêm trọng bằng Hy Lạp. Sở dĩ như vậy vì các nước này có nền kinh tế tương đối lớn, ngân sách lớn và khả năng kiểm soát nợ trong nước cao hơn.
Vào tháng 04/2010, các tổ chức định mức tín nhiệm như S&P, Moody’s và Fitch Rating đã hạ bậc trái phiếu chính phủ Hy Lạp xuống mức rủi ro cao, trước nguy cơ mất khả năng thanh khoản. S&P ước tính trong trường hợp Hy Lạp mất khả năng thanh toán, nhà đầu tư có thể mất 30-50% giá trị khoản đầu tư. Ngay lập tức sau đó lợi tức trái phiếu chính phủ Hy Lạp đã tăng mạnh. Điều này đã khiến cho chính phủ Hy Lạp gặp nhiều khó khăn hơn trong việc huy động vốn trên thị trường tài chính quốc tế để tái cấu trúc các khoản vay.
3.3. Hậu quả của cuộc khủng hoảng
Các thị trường ngày càng mất tin tưởng nhau.
Trước việc các thị trường ngày càng mất tin tưởng, tỷ lệ tăng trưởng của khu vực đồng euro đã chậm lại trong quý 2, chỉ đạt 0,2%, theo một thẩm định vừa được công bố hôm qua.
Một yếu tố khác khiến các thị trường chứng khoán tiếp tục lo ngại đó là tình hình của các ngân hàng châu Âu, hiện đang nắm rất nhiều nợ của Hy Lạp và những nước khác cũng đang suy yếu vì nợ công. Thậm chí các ngân hàng này cũng không tin tưởng nhau, thành ra ngày càng ít cho mượn tiền nhau. Vừa lo ngại về khủng hoảng nợ kéo dài, các thị trường chứng khoán châu Âu còn sợ là kinh tế Mỹ sẽ lại lâm vào suy thoái, nhất là sau khi ngày thứ sáu vừa qua, các số liệu về việc làm ở Mỹ không lấy gì là khả quan.
Hệ quả của việc các thị trường chứng khoán châu Âu tiếp tục sụt giảm, đó là giá vàng lại phá kỷ lục tuyệt đối.
Vì các nhà đầu tư đua nhau mua vàng, giá trị bảo đảm nhất trong lúc này. Theo dự báo của nhiều chuyên gia kinh tế, các thị trường chứng khoán châu Âu có thể sẽ xuống dưới cả mức thấp nhất của khủng hoảng năm 2009.
Khủng hoảng nợ công tại châu Âu ngày càng trầm trọng
Những lo ngại về thâm hụt và gánh nặng nợ công ngày càng tăng cao cùng với làn sóng hạ bậc tín nhiệm nợ công ở châu Âu đã tạo nên những cảnh báo trên thị trường tài chính toàn cầu. Điều này sẽ làm mất ổn định lãi suất liên ngân hàng của đồng Euro, khiến nhà đầu tư mất lòng tin vào đồng tiền chung Euro. Một đợt tháo chạy với quy mô lớn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu các ngân hàng khu vực châu Âu là hoàn toàn có thể và gây hiệu ứng sụp đổ hàng loạt ở các nền kinh tế khác.
Tình hình trên các thị trường tài chính đã trở nên căng thẳng, khủng hoảng nợ công sẽ gây ra thiệt hại lớn cho các ngân hàng châu Âu và từ đó sẽ lan ra toàn cầu.
Hai báo cáo mới nhất của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) về triển vọng kinh tế và ổn định tài chính toàn cầu công bố ngày 26-1 đều nhấn mạnh khủng hoảng nợ nghiêm trọng ở châu Âu đã trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu. IMF khẳng định khu vực đáng lo ngại nhất của nền kinh tế toàn cầu hiện nay là châu Âu, nơi cuộc khủng hoảng nợ công và những vấn đề tài chính của các ngân hàng đã gây rối loạn các thị trường tài chính.
Theo số liệu của Trung tâm Nghiên cứu Chính sách châu Âu, nợ của các ngân hàng châu Âu đã tăng tới mức nguy hiểm so với tổng quy mô của các nền kinh tế châu lục. Tổng nợ của các ngân hàng châu Âu đã tăng từ 66% tổng sản lượng kinh tế của châu Âu năm 1999 lên 111% năm 2007 và 127% năm 2010
Đối với khu vực châu Á, vấn đề nợ công nghiêm trọng tại phương Tây giống như một hành tinh có quỹ đạo bay hướng thẳng về Trái Đất. Hành tinh đó quá to để có thể né tránh, cũng như quá khó để xác định chính xác mức độ thiệt hại sau cú va chạm.
Tình trạng trên đã tác động mạnh đến nền kinh tế châu Á. Vào ngày 12/9, giá chứng khoán tại tất cả các thị trường đều giảm 2-3%; riêng tại thị trường chứng khoán Ôxtrâylia bị giảm tới gần 4%, tương đương 45 tỷ đôla Ôxtrâylia (AD), trong khi giá trị đồng AD cũng giảm đáng kể. Các ngân hàng cũng như công ty xuất khẩu nguyên vật liệu như BHP Billiton bị thiệt hại hết sức nặng nề. Trong khi đó, giá chứng khoán tại thị trường chứng khoán Tôkiô (Nhật Bản) sụt giảm nhiều nhất kể từ 2 năm vừa qua. Đồng yên của Nhật Bản tăng giá so với đồng ơrô. Cùng lúc đó, giá chứng khoán cũng sụt giảm tại các thị trường chứng khoán Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan, đồng thời giá dầu mỏ trên thị trường châu Á cũng giảm.
Trên phương diện khu vực châu Á, vấn đề đáng quan ngại nhất là những hiệu ứng tiêu cực toàn cầu, tương tự như những gì từng xảy ra sau sự sụp đổ của Ngân hàng đầu tư Lehman Brothers hồi năm 2008. Điều này có thể khiến các nhà đầu tư rút tiền ra khỏi các thị trường đang phát triển, cho dù triển vọng tăng trưởng của các nền kinh tế này sáng sủa hơn hẳn so với nhiều quốc gia phát triển khác. Mặt khác, các ngân hàng phải dựa vào Trái phiếu Bộ Tài chính Mỹ như là nguồn dự trữ ngoại tệ an toàn có thể phải ngừng cho vay hoặc bán các tài sản rủi ro hơn để gia tăng vốn. Việc Mỹ có thể bị hạ mức xếp hạng tín nhiệm như cảnh báo của một số cơ quan xếp hạng tín dụng cũng sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng, nhất là đối với các thị trường tài chính châu Á.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 được châm ngòi từ tín dụng bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ, hoành hành thế giới suốt 3 năm qua tưởng đã tạm yên thì bước sang năm 2011, lại được châm thêm mồi lửa từ khủng hoảng nợ công.
Từ đó, bộc lộ những ảnh hưởng mang tầm vóc sâu rộng và nguy hiểm đối với nền tài chính toàn cầu, đến nỗi, nhiều ý kiến cho rằng, thế giới sắp phải đón một “siêu bão” tài chính mới.
Hầu hết các nhà phân tích đều cảnh báo: không nên xem thường khủng hoảng nợ công. Bởi nếu không được phòng ngừa và cứu trợ kịp thời, sẽ nổ ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền và lan truyền nguy hiểm tới chất lượng tài sản hệ thống ngân hàng thương mại do phần lớn trái phiếu chính phủ phát hành đều được ngân hàng nắm giữ.
Trên thực tế, không chỉ có ngân hàng của Ireland mua trái phiếu Chính phủ nước này mà nhiều ngân hàng của châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… đều mua. Hoặc với trái phiếu Hy Lạp, Tây Ban Nha, Italia cũng vậy.Hơn nữa, do tính chất hoạt động của ngân hàng thương mại là toàn cầu hóa nên khi ngân hàng bị tổn thương, uy tín bị giảm sút, sẽ tác động xấu đến dòng tiền gửi của người dân.
III. Bài học kinh nghiệm và một số giải pháp đối với Việt Nam
3.1 .Thực trạng thu chi ngân sách nhà nước Việt Nam giai đoạn 2006-2010
Chỉ tiêu
2006
2008
THU CÂN ĐỐI NSNN
350,842
548,529
Thu theo dự toán Quốc hội
279,472
430,549
Thu nội địa (không kể thu từ dầu thô)
145,404
240,076
Thu từ dầu thô
83,346
89,603
Thu cân đối NSNN từ xuất khẩu, nhập khẩu
42,825
91,457
Thu viện trợ không hoàn lại
7,897
9,413
Thu từ quỹ dự trữ tài chính
126
317
Thu huy động đầu tư theo Khoản 3 Điều 8 Luật NSNN
9,572
3,895
Kinh phí chuyển nguồn từ năm trước sang năm sau để thực hiện cải cách tiền lương
19,682
17,909
Kinh phí đã xuất quĩ ngân sách năm trước chưa quyết toán, chuyển sang năm sau quyết toán và số chuyển nguồn năm trước sang năm sau để chi theo chế độ qui định
31,057
70,912
Thu kết dư ngân sách địa phương năm trước
10,934
24,947
CHI CÂN ĐỐI NSNN
385,666
590,714
Chi theo dự toán Quốc hội
308,058
452,766
Chi đầu tư phát triển
88,341
119,462
Chi trả nợ, viện trợ
48,192
58,390
Chi thường xuyên
161,852
252,375
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
135
159
Chi bù lỗ cho doanh nghiệp kinh doanh dầu
9,539
22,380
Kinh phí chuyển nguồn năm hiện tại sang năm sau thực hiện cải cách tiền lương
26,987
12,331
Kinh phí đã xuất quĩ ngân sách năm trước chưa quyết toán, chuyển sang năm sau quyết toán và số chuyển nguồn năm trước sang năm sau để chi theo chế độ qui định
50,621
125,617
CÂN ĐỐI NSNN
48,613
67,677
Bội chi NSNN (Bội chi ngân sách trung ương)
48,613
67,677
Tỷ lệ bội chi NSNN so GDP
5%
4.58%
NGUỒN BÙ ĐẮP BỘI CHI NSNN
48,613
67,677
Vay trong nước
35,864
48,009
Vay ngoài nước
12,749
19,668
Năm 2007:
1.Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 431.057 tỷ đồng bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2006 sang năm 2007 là 81.336 tỷ đồng, số thu từ quỹ dự trữ tài chính là 90 tỷ đồng, số thu từ huy động vốn đầu tư của ngân sách địa phương theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật ngân sách nhà nước là 8.272 tỷ đồng và số chênh lệch thu chi ngân sách địa phương năm 2006 là 13.448 tỷ đồng.
2. Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 469.606 tỷ đồng (bốn trăm sáu mươi chín nghìn, sáu trăm linh sáu tỷ đồng), bao gồm cả số chi chuyển nguồn từ năm 2007 sang năm 2008 là 88.821 tỷ đồng.
3. Mức bội chi ngân sách nhà nước (không bao gồm 26.018 tỷ đồng chênh lệch thu lớn hơn chi của ngân sách địa phương) là 64.567 tỷ đồng (sáu mươi tư nghìn, năm trăm sáu mươi bảy tỷ đồng), bằng 5,64% GDP
4. Nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước:
a) Vay trong nước: 51.572 tỷ đồng (năm mốt nghìn, năm trăm bảy mươi hai tỷ đồng);
b) Vay ngoài nước: 12.995 tỷ đồng (mười hai nghìn, chín trăm chín mươi lăm tỷ đồng
Năm 2009:
1. Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 629.187 tỷ đồng (sáu trăm hai mươi chín nghìn, một trăm tám mươi bảy tỷ đồng), bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2008 sang năm 2009, thu kết dư ngân sách địa phương năm 2008, thu từ quỹ dự trữ tài chính, thu hồi vốn ngân sách cho vay, thu huy động đầu tư của ngân sách địa phương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
2. Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 715.216 tỷ đồng (bảy trăm mười lăm nghìn, hai trăm mười sáu tỷ đồng), bao gồm cả số chi chuyển nguồn từ năm 2009 sang năm 2010.
3. Bội chi ngân sách nhà nước là 114.442 tỷ đồng , bằng 6,9% tổng sản phẩm trong nước (GDP), không bao gồm số kết dư của ngân sách địa phương.
Nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước:
- Vay trong nước: 78.150 tỷ đồng.
- Vay ngoài nước: 36.292 tỷ đồng.
(Ngồn: Cổng thông tin Bộ Tài chính)
Trong năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Song nhiệm vụ ngân sách 2010 đã đạt được kết quả khả quan. Tăng thu cân đối ngân sách nhà nước vượt 24,4% so với dự toán, tăng 29,4% so với năm 2009; riêng thu nội địa vượt 8,6%. Nguồn thu nội địa liên tục tăng cao qua các năm cho thấy chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đã phát huy hiệu quả, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước. Theo bộ Tài chính, tổng thu cân đối ngân sách nhà nước ước đạt 66,600 tỉ đồng, vượt 14,4% so với dự toán, tăng 19,4% so với năm 2009.
Tính chung 5 năm (2006-2010), tổng thu nội địa do ngành thuế quản lý ước đạt 1.551 nghìn tỷ đồng, bằng 116,5% so với dự toán, tăng gấp 2,5 lần so với thực hiện giai đoạn 2001-2005. Tốc độ tăng thu bình quân đạt 16,5%/năm. Kết quả này đã góp phần đưa tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 27,9% GDP, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đề ra (21-22% GDP). Cơ cấu nguồn thu thay đổi theo chiều hướng tích cực, tỷ trọng thu từ các yếu tố tài nguyên như đất đai, dầu thô ngày càng giảm, tỷ trọng thu từ nội lực nền kinh tế ngày càng tăng. Cụ thể, thu từ dầu thô trong tổng thu đã giảm từ 29,8% (năm 2006) xuống 13,4% năm 2010. Nguồn thu từ khu vực sản xuất kinh doanh (trừ dầu) tăng từ 62,4% (giai đoạn 2001-2005) lên 67,1% (giai đoạn 2006-2010), tốc độ tăng trưởng bình quân 22,5%/năm. Kết quả này có được là do Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết liệt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích, thu hút đầu tư nhằm phát triển kinh tế, tạo tiền đề quan trọng cho việc huy động và nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn này, ngành thuế đã sửa đổi, bổ sung nhiều chính sách về thuế, phí theo hướng công bằng, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, giảm nghĩa vụ cho người nộp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tăng khả năng tích lũy, tái sản xuất mở rộng, góp phần tạo tăng trưởng nguồn thu và tính bền vững cho ngân sách.
3.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
3.2.1 Đánh giá về nợ công hiện tại của Việt Nam
Nợ công vẫn đang trong giới hạn an toàn, phần lớn các khoản vay nước ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất cố định và ưu đãi. Hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng và linh hoạt.Thể chế chính sách dần được hoàn thiện, công tác quản lý nợ ngày càng tốt hơn, dần tiếp cận thông lệ quốc tế.
Những tồn tại cơ bản là thị trường trái phiếu trong nước phát triển còn hạn chế. Công tác huy động vốn ODA còn thụ động, nhiều khoản vay ODA còn gắn với những ràng buộc làm tăng chi phí đầu vào.
Cạnh đó, phân bổ vốn vay còn dàn trải; chủ trương huy động và sử dụng vốn cần gắn kết hơn với ngưỡng an toàn nợ. Hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao, chưa được quản lý giám sát chặt chẽ.
Các chỉ tiêu nợ trong tầm kiểm soát nhưng một số rủi ro thị trường cần được tính toán đo lường chính xác hơn; rủi ro tín dụng chưa được phản ánh trong phí cho vay lại và phí bảo lãnh của Chính phủ. Cơ chế cảnh báo sớm còn hạn chế và quyền hạn quản lý của các cơ quan còn chồng chéo; năng lực cán bộ cần được cải thiện.
3.2.2 Bài học kinh nghiệm
Bài học lớn nhất cho nước ta chính là Nhà nước cần có sự giám sát chặt chẽ và can thiệp kịp thời đối với hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp lớn vì những tổ chức này khi đổ vỡ sẽ tạo ra những tác hại vô cùng lớn cho nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết, tình trạng khủng hoảng nợ công của Ireland bắt nguồn từ việc chính phủ đã không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng và nhà đất tạo thành bong bóng. Mặt khác, chính phủ đã buộc phải chọn lựa bao cấp các ngân hàng này khi họ thua lỗ.
Khi các doanh nghiệp đó đổ vỡ rồi, vì lý do cứu vãn tăng trưởng kinh tế, nhà nước phải cứu trợ cho các doanh nghiệp đó với lý lẽ là phải cứu cả một ngành công nghiệp hay là cứu nền kinh tế khỏi suy thoái, bảo vệ việc làm cho người dân.
Nhưng càng chi tiền cứu các ngân hàng thì càng phải chấp nhận bội chi ngân sách sẽ càng lớn và khi đó niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài vào trái phiếu chính phủ và đồng nội tệ sẽ càng thấp.
Khi Hy Lạp và Ireland lâm vào khủng hoảng nợ, hạng mức tín nhiệm của trái phiếu các nước này bị hạ, chi phí lãi vay tăng lên cho các khoản vay mới và chi phí bảo hiểm các khoản tiền vay của những nước này tăng mạnh. Điều này tác động xấu đến tâm lý nhà đầu tư trong và ngoài nước, khiến cho kỳ vọng về sự hồi phục kinh tế sẽ tiếp tục thấp.
Vì vậy nền kinh tế sẽ tiếp tục vật lộn với suy thoái kéo dài.Khi mà niềm tin đã bị mất đi thì rất khó có thể tạo dựng lại. Điển hình là trường hợp của Hy Lạp. Chi phí của một hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng của Hy Lạp trước khi được cứu trợ là khoảng 12%, sau đó giảm xuống xung quanh 7% sau khi được cứu trợ vào đầu năm, và bây giờ nó lại tăng trở lại lên trên 10% (nghĩa là phải tốn khoảng 1 triệu EUR để bảo hiểm cho một khoản nợ 10 triệu EUR).
Do đó, không thể chờ đến khi tổn thất xảy ra rồi mới tìm cách tháo gỡ. Niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài (và cả trong nước nữa) đối với triển vọng nền kinh tế và độ tín nhiệm của một chính phủ một khi đã bị tổn hại thì khó có thể xây dựng lại nhanh chóng.
Vì vậy, ngay từ đầu, trong trường hợp của nước ta, rất cần sự giám sát chặt chẽ đối với hệ thống tài chính và các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế, giảm thiểu các khoản cho vay kém chất lượng và loại bỏ những doanh nghiệp nhà nước lớn kém hiệu quả càng sớm càng tốt để tránh đến khi một doanh nghiệp quá lớn để đổ vỡ bị lâm vào nguy cơ sụp đổ thì Nhà nước phải đứng ra bảo lãnh và cứu trợ.
Trong tình huống đó, thâm hụt ngân sách và nợ công sẽ phải chịu một gánh nặng quá lớn và trường hợp của Ireland là một kinh nghiệm. Việt Nam có lợi thế là độc lập trong chính sách tiền tệ và đồng tiền của mình nên có nhiều công cụ để điều tiết nền kinh tế hơn so với Ireland đang nằm trong khối sử dụng đồng tiền chung.
Tuy nhiên, nếu chạy theo tăng trưởng, bỏ mặc an toàn hệ thống và dung túng những doanh nghiệp có quy mô quá lớn nhưng thực tế chỉ còn các vỏ bọc bên ngoài (như nước ngoài hình dung là những xác chết biết đi - “zombie”) thì rủi ro khủng hoảng tài khóa và nợ công sẽ ngày một tăng lên. Vì vậy, trường hợp của Ireland hàm chứa những kinh nghiệm và cũng là một lời cảnh báo cần được chú ý.(Nguồn: Khung hoang no Ireland: Bien no tu thành no công - Kinh doanh - Dân trí)
3.3. Một số giải pháp, kiến nghị
Để quản lý nợ công chặt chẽ từ khâu vay nợ, sử dụng và thanh toán nợ đến hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng, giữ vững uy tín quốc gia trong thanh toán nợ, bảo đảm an ninh tài chính đối với các khoản nợ công, hạn chế rủi ro, thì Chính phủ nên:
Một là, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch chiến lược về vay nợ công trên cơ sở và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ.
Kế hoạch chiến lược về vay nợ công xácđịnh rõ mục đích vay (vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu nợ và cho vay lại hoặc vay để tài trợ cho các chương trình, dự án đầu tư quan trọng, hiệu quả, vay nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia), mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng vay trong nước và ngoài nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp. Kế hoạch chiến lược về vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng các khoản vay, hiệu quả dự kiến; xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự có nhu cầu sử dụng.
Hai là, bảo đảm tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ công, có khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ chính phủ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ...
Ba là, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay về cho vay lại và các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh.
Chính phủ vay về cho vay lại và bảo lãnh vay là các hoạt động thường phát sinh khi doanh nghiệp cần huy động một lượng vốn lớn trên thị trường vốn quốc tế, nhưng không đủ uy tín để tự mình đứng ra vay nợ.Khi đó, Chính phủ có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận được với các nguồn vốn quốc tế với quy mô lớn, lãi suất thấp. Các khoản vay và bảo lãnh này thực chất là nghĩa vụ ngân sách dự phòng, làm nảy sinh nguy cơ ngân sách nhà nước phải trang trải các khoản nợ của khu vực doanh nghiệp trong tương lai, khi doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh toán. Nguy cơ này sẽ càng cao hơn nữa khi Chính phủ vay và phát hành bảo lãnh không dựa trên những phân tích thận trọng về mức độ rủi ro cũng như năng lực trả nợ của doanh nghiệp. Do đó, việc vay về cho vay lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, chỉ nên ưu tiên cho các chương trình, dự án trọng điểm của Nhà nước hoặc thuộc các lĩnh vực ưu tiên cao của quốc gia. Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ trong nước; khuyến khích phát triển mô hình hợp tác công - tư (PPP).
Bốn là,nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn vay, vốn được Chính phủ bảo lãnh.
Đây là vấn đề cốt yếu bảo đảm cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công. Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp...; trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay nợ. Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ 2 nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng.
Năm là,công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công.
Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ công.Để thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng đó, nợ công cần phải được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà nước và phải được cơ quan chuyên môn độc lập kiểm tra, xác nhận.
Để hỗ trợ thực hiện tốt 5 vấn đề nêu trên, Kiểm toán Nhà nước với tư cách là cơ quan độc lập về kiểm tra tài chính nhà nước cần được quy định rõ nhiệm vụ kiểm toán nợ công trong Luật Quản lý nợ công và Luật Kiểm toán nhà nước.
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu đang có những ảnh hưởng sâu sắc đến các nước khu vực Châu Âu và toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng nợ cũng đang làm thức tỉnh toàn thế giới về nhu cầu duy trì tính ổn định kinh tế vĩ mô và tăng cường thắt chặt hoạt động tài khóa để giảm bớt nợ công không thật cần thiết cho nhu cầu tăng trưởng bền vững.
Từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu, đặc biệt là nguy cơ vỡ nợ ở Hy Lạp một lần nữa cho chúng ta thấy kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Tình trạng của Việt Nam cũng giống Hy Lạp ở một số yếu tố như: thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài, yếu kém trong quan lý chi tiêu công… Chỉ có tái cấu trúc nền kinh tế và cải thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm sắp tới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lop_dhkt2_nhom1_9949.doc