Bên cạnh đó là việc tập trung tháo gỡ khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu có vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu; rà soát các chính sách về đầu tư và đề xuất Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét bổ sung các chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu để tăng số lượng và chất lượng hàng xuất khẩu; đẩy nhanh các dự án sản xuất thay thế hàng nhập khẩu.
Về các giải pháp kiểm soát nhập siêu, đưa ra các danh mục mặt hàng cần áp dụng thuế quan hoặc giấy phép nhập khẩu để bảo đảm kiểm soát nhập khẩu nhóm mặt hàng có nguy cơ gây dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi và các mặt hàng gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người; tiếp tục áp dụng các biện pháp kiểm soát nhập khẩu, quy trình thông quan đối với các nhóm hàng cần kiểm soát và cần hạn chế nhập khẩu; nghiên cứu xây dựng phương án áp dụng thí điểm việc kiểm tra xuất xứ, chất lượng hàng hóa, nhất là đối với nông, thủy sản, thực phẩm chế biến, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, thuốc chữa bệnh cho người, thuốc bảo vệ thực vật trước khi hàng hóa được xếp lên tàu tại nước xuất khẩu hoặc kiểm tra quy trình sản xuất tại nước ngoài để cấp giấy chứng nhận hàng hóa đủ điều kiện lưu thông trên thị trường Việt Nam, kiểm tra tại cửa khẩu Việt Nam trước khi hàng hóa được thông quan.
46 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1852 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kinh nghiệm và tình huống phá giá đồng tiền trong thương mại và bài học ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht trong khi giá trị của USD với JPY và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa Baht với USD có tăng lên, nhưng nếu theo học thuyết ngang giá sức mua thì đồng Baht đã giảm giá khoảng 20% so với USD nhưng chỉ được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). Do đó, việc đồng Baht bị thả nổi là hiện tượng cần thiết để trả lại giá trị đích thực của nó.
Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan giảm đáng kể, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng giảm tương đối. Có nhiều nguyên nhân làm giảm xuất khẩu của Thái Lan trong giai đoạn này bao gồm: tăng trưởng thương mại toàn cầu suy giảm, tỷ giá hối đoái thực của các nước Đông á lên giá, lượng cầu và giá của các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là hàng điện tử bị suy giảm. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan năm 1996 lên đến 7,9%GDP. Mức thâm hụt này tiếp tục được tài trợ bởi dòng vốn ngắn hạn nước ngoài chảy vào.
Do tài khoản vốn được tự do và những yếu kém trong việc kiểm soát các khoản nợ vay đã khiến ngày càng nhiều hơn các luồng vốn ồ ạt chảy vào Thái Lan. Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ USD đổ vào Thái Lan, trong đó,vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn do các tổ chức tài chính trong nước vay để đầu tư dài hạn và bất động sản. Bên cạnh đó, tỷ giá được giữ gần như cố định ở mức 25 Baht/USD trong thời gian dài cộng với thâm hụt thương mại kéo dài đã khiến áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng tăng.
Dưới áp lực của những khoản nợ đến hạn và thâm hụt thương mại kéo dài, mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối, nhưng Thái Lan đã không thể duy trì được mức tỷ giá hiện thời. Thái Lan đứng trước việc đồng Baht bị phá giá và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng với những tổn thương nghiêm trọng đến nền kinh tế. Chỉ trong 1 ngày sau khi Chính phủ tuyên bố phá giá, đồng Baht mất hơn 20% giá trị rồi tiếp tục giảm xuống sau đó. Tỷ giá Baht/USD tăng lên từ 25,61 đến 47,25. Tỷ giá này làm tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Thái Lan nói chung, nông thủy sản nói riêng, hạn chế nhập khẩu. Kết quả là Thái Lan giảm nhập siêu từ 9,5 tỷ USD năm 1991 xuống còn 4,624 tỷ USD năm 1997 và thặng dư là 11,973 tỷ USD năm 2007.
Ngày 2/7/1997, Thái Lan đã cạn kiệt các nguồn dự trữ ngoại hối trong nỗ lực bảo vệ đồng Baht tránh bị tác động của một cuộc đầu cơ lớn và buộc phải thả nổi đồng Baht. Đồng tiền này ngay lập tức giảm giá mạnh. Phản ứng dây chuyền đã lan rộng khi các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi các nước có những triệu chứng kinh tế tương tự như Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc.
Từ cuối năm 1998 - 2004, tỷ giá Baht/USD đôi lúc giảm và sau đó tăng nhẹ nhưng nói chung duy trì ở mức ổn định. Tỷ giá tăng nhẹ từ 39,06 năm 2004 lên 41,03 năm 2005 nhưng cho tới nay, tỷ giá giảm do USD giảm giá. Mặc dù luôn chú trọng tới xuất khẩu, nhưng Thái Lan đã phải chấp nhận để tỷ giá của nội tệ tăng hơn 20% so với USD và duy trì ở mức lạm phát trung bình là 3% từ năm 2006 tới nay do Chính phủ Thái Lan nhận thức được rằng trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, nội tệ tăng giá so với USD là chính sách có lợi hơn.
2. Bài học sử dụng chính sách phá giá nhằm cải thiện cán cân thương mại đối với Việt Nam
Dựa trên kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan, một số bài học kinh nghiệm được rút ra cho Việt Nam như sau:
- Cần có sự phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô trong cải cách. Việc tiến hành phá giá tiền tệ có ảnh hưởng đến giá cả trong nước và quốc tế, thay đổi tỷ giá cũng là điều kiện tiên quyết trong thay đổi chính sách thương mại, đặc biệt trong điều kiện mở cửa. Tuy nhiên, không có thay đổi trong chính sách thương mại thì việc thay đổi tỷ giá sẽ vận hành không có hiệu quả. Trong sự phối hợp với các lĩnh vực khác của nền kinh tế, việc điều chỉnh theo hướng thay đổi tỷ giá không mang tính chất cứng nhắc mà được xem như là phù hợp với các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế.
- Phải duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia trong từng giai đoạn. Một chính sách tỷ giá hối đoái được coi là phù hợp bao gồm:
+ Lựa chọn thời điểm phá giá đồng nội tệ phù hợp. Thành công trong việc phá giá tiền tệ thể hiện rõ nét ở thời điểm phá giá và mức điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nhờ sự nhạy bén của các công cụ trong chính sách tỷ giá mà Trung Quốc đã đạt được sự ổn định giá cả trong nước và cân bằng tài chính tiền tệ với bên ngoài. Trong khi các chính sách kinh tế khác như chính sách tiền tệ bị vô hiệu hóa để giảm lạm phát thì chính sách tỷ giá vẫn đạt được mục tiêu là đẩy mạnh xuất khẩu.
+ Duy trì tỷ giá phù hợp với mục tiêu phát triển theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy việc duy trì tỷ giá trong thời gian dài cùng với sự phá giá hợp lý CNY đã tạo ra sự phát triển tối ưu cho nền kinh tế và áp dụng những biện pháp hỗ trợ khôn khéo để giảm bớt tác động ngược chiều. Đảm bảo cung ứng ngoại tệ được duy trì thường xuyên, liên tục đảm bảo cho sự thành công trong việc điều hành chính sách tỷ giá. Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái phải luôn hướng tới mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính sách xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
+ Không nên neo giữ quá lâu đồng bản tệ với một đồng ngoại tệ mạnh. Tỷ giá cần được xác lập trên cơ sở thiết lập một rổ ngoại tệ để tránh được cú sốc trong nền kinh tế. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho thấy một trong những nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng là trong giai đoạn đó, các nước trong khu vực về cơ bản thực hiện chủ trương ổn định tỷ giá so với USD. Ngoài ra, cần thận trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ trước những tác động bên ngoài. Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho thấy chính sự hoang mang của các nhà đầu tư đã dẫn đến sự rút vốn ồ ạt, gây nên sự sụp đổ trong hệ thống tài chính ở các nước này.
3. Thực trạng chính sách phá giá tiền tệ ở Việt Nam
3.1. Các giai đoạn phát triển của chính sách tỷ giá hối đoái
a) Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989-1993
Bảng số liệu dưới đây cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến động lên xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã:
+ Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.
+ Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn sốc USD làm mất ổn định nền kinh tế.
+ Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn.
+ Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Bảng 5: Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-1993
Năm
Tỷ giá USD/VND
Lạm phát
Giá chính thức nhà nước
Giá
thị trường
tự do
Tăng giảm %
1989
4.200
4.570
+8,80
+34,70
1990
6.650
7.550
+13,50
+67,50
1991
12.720
12.550
- 0,02
+68,00
1992
10.720
10.550
- 0,02
+17,50
1993
10.835
10.736
- 0,01
+5,20
Tình trạng leo thang của giá đồng USD đã kích thích tâm lý dự trữ USD. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
b) Giai đoạn tỷ giá cố định: 1993-1997
Bảng 6: Lạm phát và tỷ giá Việt nam qua các năm 1993-1996
Năm
Tỷ giá USD/VND
So sánh % năm trước
Tốc độ lạm phát
1993
10.835,00
100,00%
5,2%
1994
11.050,00
+1,98%
14,4%
1995
11.040,00
0%
12,7%
1996
11.060,00
+0,18%
4,5%
(Nguồn: Tập san khoa học ngân hàng tháng 7/1995 đến tháng 12/1995 và từ số 1/1996 đến tháng 12/1996 và từ tháng 1/1997 đến tháng 12/1997)
Kể từ năm 1993 đến năm 1997, NHNN liên tục áp dụng chế độ tỉ giá neo – có nghĩa là quy định một tỉ giá VND/USD chính thức và một biên độ giao động nhất định. Biên độ giao động này thường là nhỏ (khoảng 1% tới 2%). Tỷ giá thực giảm do eR<1 đã làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế do tốc độ tăng giá trị nhập khẩu nhanh hơn tốc độ tăng giá trị xuất khẩu, đã làm cán cân thương mại liên tục thâm hụt. Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Vì vậy, nếu so sánh chỉ số CPI của Mỹ và CPI của Việt Nam, các nhà kinh tế tính toán cho rằng, tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%.
Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trên 8%/ năm. Nhưng việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế, song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam) và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VND có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Do tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống, VND được đánh giá cao đã làm suy giảm sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam, làm cán cân thương mại thâm hụt. Việc duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài (1993 – 1996) đã không khuyến khích được xuất khẩu đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng 3 sau đây:
Bảng 7: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm 1996-1997-2998 (đơn vị tính: triệu USD)
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
So sánh
1
2
3
4 =3 - 2
1993
2.985
3.924
- 939
1994
4.054
5.825
- 1.771
1995
5.448,9
8.155,4
- 2.706,5
1996
7.255
11.143
- 3.888
(Nguồn: thời báo kinh tế Sài gòn của UBND Thành phố HCM qua các năm 1996-1997-1998)
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định đã có tác dụng tích cực trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng do ngoại tệ được đánh giá rẻ nên đã khuyến khích các nhà đầu tư vay ngoại tệ để đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều vốn và nguyên liệu nhập khẩu mà không khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có và những lợi thế so sánh của đất nước, đó là nguồn lực lao động.
Một yếu tố khác là việc phá giá đồng CNY gần 50% vào năm 1994 của Trung Quốc (từ 1USD= 5,8000CNY lên 1 USD = 8,4462 CNY năm 1994). Việc phá giá CNY đã làm cho hàng hóa, dịch vụ của Trung Quốc quá rẻ đã tràn ngập thị trường Việt Nam qua con đường buôn bán mậu dịch và buôn lậu, gây khó khăn cho sản xuất trong nước và tăng nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc.
c) Giai đoạn tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết (1997 đến nay)
Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997, Việt Nam đã lựa chọn cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Chúng ta đã từ bỏ cơ chế tỷ giá neo mềm, theo đó, tỷ giá thị trường được giao dịch quanh tỷ giá chính thức do NHNN công bố và một biên độ được ấn định sẵn.Từ năm 1997-1999, sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam bắt đầu đươc cải thiện, thể hiện ở chỉ số tỷ giá xuất khẩu lớn hơn chỉ số tỷ giá nhập khẩu và thâm hụt của cán cân thương mại giảm. Đặc biệt, trong năm 1999, lần đầu tiên cán cân thương mại thặng dư. Nguyên nhân là do tháng 10/1997, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng mạnh. Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999. Ngoài ra, giá cả trên thị trường biến động không đáng kể cũng là một nhân tố góp phần cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam.
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trên nền tảng cơ chế tỷ giá đã lựa chọn, việc điều hành chính sách tỷ giá phải theo hướng ngày càng linh hoạt hơn. NHNN đang thực thi lộ trình linh hoạt hóa tỷ giá kể từ năm 2004 qua nhiều bước. Trước hết là bãi bỏ các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn để thay bằng chênh lệch lãi suất (tháng 5-2004). Tiếp đến là thừa nhận tính tự do chuyển đổi của các ngoại tệ mạnh, cho phép chuyển đổi giữa các ngoại tệ không cần chứng từ, chính thức áp dụng quyền chọn ngoại tệ (tháng 11-2004).
Các ngân hàng thương mại tiến hành thí điểm quyền chọn USD và tiền đồng trong điều kiện được tự do thỏa thuận phí quyền chọn (tháng 6-2005). Bỏ biên độ giao dịch USD tiền mặt, cho thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận (tháng 7-2006). Những bước đi này có dụng ý để thị trường tự điều chỉnh tỷ giá chừng nào mà Việt Nam chưa thể áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn (independent floating). Thống kê xuất khẩu được Bộ Thương mại công bố: trong tháng 12/2006, xuất khẩu đạt 3,5 tỷ USD, nâng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2006 lên 39,6 tỷ USD, vượt 4,9% so với kế hoạch và tăng 22,1% so với năm trước. Điều đáng chú ý là xuất khẩu năm 2006 đã có những bước tăng trưởng bền vững. Cụ thể, trong tổng số 7,163 tỷ USD kim ngạch tăng thêm trong năm 2006 có 2,941 tỷ USD tăng do được giá và 4,222 tỷ USD là do tăng trưởng về số lượng.
Từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Một biểu hiện rõ nét nhất ngay sau khi hội nhập, đó là dòng vốn nước ngoài chảy vào nhiều, áp lực lạm phát gia tăng. Cũng như hầu hết các nước khi mở cửa hội nhập, Việt Nam đang phải đối mặt với hiện tượng “Bộ ba bất khả thi”. Đó là, khi dòng vốn nước ngoài vào nhiều, để ổn định tỷ giá NHNN mua ngoại tệ, qua đó gây áp lực lạm phát. Việc kiểm soát dòng vốn, theo qui định của Pháp lệnh Ngoại hối, thì Việt Nam đã tự do hóa giao dịch vãng lai, còn các giao dịch vốn chưa được tự do hoàn toàn nhưng đã nới lỏng một cách tương đối. Theo lý thuyết này, với một tài khoản vốn mở, một quốc gia không thể đạt được cùng một lúc hai mục tiêu: ổn định lạm phát và ổn định tỷ giá (tỷ giá mục tiêu). Các nỗ lực tăng lãi suất để làm giảm áp lực lạm phát thì đồng thời cũng làm tăng khả năng hút các nguồn vốn từ bên ngoài. Vì vậy, tỷ giá lại được nâng lên, nhưng điều này lại làm suy yếu mục tiêu của các NHNN về tỷ giá hối đoái. Tác động hai chiều ngược nhau của chính sách này đã tác động mạnh trong môi trường hiện tại. Đối với các nền kinh tế mới nổi, nơi mà thị trường tài chính và tiền tệ còn kém phát triển, thì hiện tượng bộ ba bất khả thi là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Việc giải quyết hợp lý 3 mục tiêu vĩ mô này, đối với mỗi quốc gia khác nhau thì có các phản ứng khác nhau. Ví dụ như Thái Lan và Colombia đã lựa chọn áp dụng kiểm soát các nguồn vốn đi vào các nước này (tức là bỏ mục tiêu thứ 3 trong “bộ ba bất khả thi“). Trong khi đó thì Nga lại cho phép nâng giá đồng Rúp để làm giảm áp lực về lạm phát. Cho đến gần đây, hầu hết các nước Châu á đã nới lỏng hơn về mục tiêu về tỷ giá để đạt được mục tiêu lạm phát.
Vấn đề đặt ra lúc này đối với Việt Nam là phải lựa chọn mục tiêu theo đuổi trong quản lý kinh tế vĩ mô để đảm bảo kinh tế tăng trưởng bền vững. Trong ba mục tiêu trên, kiểm soát lạm phát là mục tiêu số một không thể loại bỏ, còn vấn đề tỷ giá và kiểm soát dũng vốn cần có sự lựa chọn cho phự hợp để hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của “bộ ba bất khả thi“.
Vậy cơ chế điều hành tỷ giá nào phù hợp với tình hình kinh tế và mức độ phát triển thị trường tài chính hiện nay của Việt Nam?
Có nhiều quan điểm khác nhau về việc áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái hiện nay, có ý kiến cho rằng trong bối cảnh lạm phát cao, dòng vốn vào nhiều nên để VND lên giá theo cung cầu thị trường thì mới kiểm soát được lạm phát; có ý kiến ngược lại là phải can thiệp để phá giá VND, qua đó, giảm thâm hụt cán cân thương mại mà hiện nay đang thâm hụt ở mức báo động. Gần đây nhất, ý kiến của TS Phạm Lan Hương chuyên gia kinh tế của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, cùng quan điểm với nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế thế giới, cho rằng: “... Trong bối cảnh thị trường ngoại hối bấp bênh trên phạm vi toàn cầu, tốc độ tăng trưởng kinh tế và đầu tư cao, tỷ giá hối đoái ổn định trong hoàn cảnh khó khăn, Quĩ dự trữ ngoại hối tăng lên là những bước phát triển tích cực có ý nghĩa quan trọng ở Việt Nam. Bình ổn giá của đồng nội tệ, điều này góp phần duy trì khả năng cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam khi Việt Nam gia nhập WTO.
3.2. Đánh giá chính sách phá giá tiền tệ của Việt Nam trong thời kì khủng hoảng tài chính hiện nay.
Năm 2008 – 2009 Việt Nam cũng như các nước khác phải đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại. Mặc dù Việt Nam đã chuyển hướng chính sách để đối phó với khủng hoảng, tuy độ mở của nền kinh tế Việt Nam khá cao nhưng còn chịu tác động bất lợi trên cả ba bình diện: thương mại, đầu tư và tài chính nên sẽ đứng trước nhiều thách thức. Năm 2008, vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam chiếm 30% tổng đầu tư, đầu tư gián tiếp qua các kênh trái phiếu chính phủ, thị trường chứng khoán chiếm tỉ trọng khá cao (39% trái phiếu và 25% tổng mức vốn hoá của thị trường), nhưng đã có dấu hiệu suy giảm do khủng hoảng.
Đầu năm 2009, phần do lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, nhiều doanh nghiệp chọn vay VND do được hỗ trợ lãi suất, nên tại nhiều ngân hàng rơi vào nghịch lý thừa USD cho vay nhưng lại thiếu USD để bán. Doanh nghiệp xuất khẩu găm giữ USD trên tài khoản. Trong bối cảnh các nguồn cung USD từ FDI, kiều hối, du lịch…bị suy giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nên đã ảnh hưởng đến cân bằng cung cầu ngoại tệ trong nước và là một trong những nguyên nhân khiến thị trường ngoại tệ của Việt Nam có biểu hiện căng thắng.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp để ổn định thị trường này, trong đó có quyết định mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +3% lên +5% kể từ ngày 24/3/2009 và điều hành linh hoạt tỷ giá bình quân liên ngân hàng phù hợp với tín hiệu thị trường và mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
Đồ thị 1: Diễn biến tỷ giá năm 2007-2009
Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước
Từ cuối tháng 11/2009, để phù hợp với diễn biến mới của nền kinh tế và trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá, lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng và cán cân thanh toán quốc tế, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm biên độ ấn định tỷ giá xuống +/-3% kể từ ngày 26/11/2009, đồng thời điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 26/11/2009 tăng thêm 5,4% so với ngày 25/11/2009. Chính phủ cũng chỉ đạo 7 tập đoàn, tổng công ty bán ngoại tệ cho ngân hàng. Ngày 30/12, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký ban hành Thông tư số 26/2009/TT-NHNN quy định mua – bán ngoại tệ của một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Ngân hàng nhà nước đưa lãi suất cơ bản tăng từ 7% lên 8%. Lãi suất chiết khấu tăng từ 5 lên 6% (Quyết định số 2664/QĐ-NHNN) áp dụng từ 01/12/2009. Các biện pháp này được áp dụng nhằm giảm lượng tín dụng lưu thông trên thị trường, hướng tới ổn định đồng bạc Việt Nam. NHNN cũng cam kết sẽ hỗ trợ mạnh mẽ trong việc bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại kèm nhiều biện pháp hỗ trợ khác nhằm bình ổn thị trường ngoại hối. Các tài chính tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống được NHNN cam kết bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất.
Như vậy, có thể xác định rằng chính phủ đã tiến hành phá giá VND trong thời điểm này để kích thích xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài. Tuy nhiên tỷ lệ phá giá nhỏ để không gây sốc cho nền kinh tế, hạn chế những bất lợi do việc tăng giá đồng ngoại tệ dẫn tới tăng giá nguyên liệu đầu vào sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả hàng hóa.
Nhờ đó mà tháng 12, kim ngạch xuất khẩu (5,47 tỷ USD) và nhập khẩu (7,4 tỷ USD) đạt mức cao nhất trong năm 2009.
Đồ thị 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của cán cân thương mại 2009
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Những động thái này gây quan ngại cho một số nhà đầu tư trong nước. Họ cho rằng đây là dấu hiệu của CSTT thắt chặt sẽ được thực thi trong năm 2010, do đó có thể ảnh hưởng hạn chế tốc độ tăng trưởng trở lại của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu xét từ diễn biến thực tế trên thị trường cho thấy việc thay đổi lãi suất cơ bản và tỷ giá cuối tháng 11 thực hiện đồng bộ cùng các biện pháp bình ổn tỷ giá và lãi suất thị trường là một giải pháp thận trọng cần thiết, xuất phát từ 6 nguyên nhân sau:
Thứ nhất, với việc thực hiện CSTT nới lỏng và thực hiện chương trình kích thích kinh tế của Chính phủ đã làm cho mức tăng trưởng tín dụng tăng cao (tăng trưởng tín dụng đến hết tháng 10 đã đạt 33,29%, tháng 11 là 36,86% so với cuối năm 2008). Vì vậy, việc thực hiện tăng lãi suất cơ bản và điều chỉnh tỷ giá là việc làm cần thiết để tác động vào mức tăng trưởng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô theo nghị quyết của Quốc hội và chủ trương của Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện cho các NHTM huy động được vốn từ nền kinh tế và ngăn chặn ngay từ đầu trạng thái lạm phát cao có thể xảy ra khi nền kinh tế phục hồi.
Thứ hai, khi tiến hành hỗ trợ lãi suất vay VND 4% trong chương trình hỗ trợ kinh tế của Chính phủ đã đưa lãi suất vay VND thực tế của các doanh nghiệp và người dân xuống 5% - 6%. Điều này khuyến khích các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tiến hành vay vốn bằng VND để mua ngoại tệ của các NHTM thay vì vay vốn bằng ngoại tệ. Thậm chí nhiều doanh nghiệp đang có số dư vay vốn ngân hàng bằng ngoại tệ cũng tìm mọi cách vay VND mua ngoại tệ để trả nợ trước hạn vốn vay ngoại tệ cho ngân hàng. Do đó, gây áp lực về ngoại tệ đối với các ngân hàng cũng như đẩy tỷ giá tự do có xu hướng tăng lên, tạo ra sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá giao dịch trong ngân hàng và tỷ giá giao dịch ngoài thị trường tự do.
Thứ ba, trong 11 tháng đầu năm 2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn tăng cao hơn tốc độ huy động tiền gửi gây áp lực đến lãi suất của thị trường. (Tính đến cuối tháng 11 tín dụng đối với nền kinh tế tăng 36,86% trong khi huy động vốn chỉ tăng 26,45% (so với 31/12/2008)). Do đó, việc nâng lãi suất cơ bản đã tạo ra sự ổn định, đưa lãi suất thị trường trở lại theo quy luật cung - cầu, tránh sức ép, tiêu cực cho hệ thống tài chính - ngân hàng và nền kinh tế.
Thứ tư, thực tế cho thấy lạm phát của Việt Nam trong ba năm 2007, 2008, 2009 là trên 40%, trong khi lạm phát của Mỹ chỉ bằng khoảng 20% cùng kỳ, nhưng tỷ giá chính thức USD/VND dường như thay đổi không đáng kể trong thời gian đó, khiến VND bị định giá cao trong tương quan tỷ giá với USD.
Theo lý thuyết ngang giá về lãi suất, đồng tiền của một quốc gia nào đó có lãi suất thấp hơn thì nhất định sẽ là bù kỳ hạn cho hợp đồng kỳ hạn đối với đồng tiền của một quốc gia có lãi suất cao hơn. Nói cách khác, trừ kỳ hạn hoặc bù kỳ hạn trên giá kỳ hạn là xấp xỉ tương đương với chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Ngược lại, hiệu ứng Fisher quốc tế chú trọng đến việc tỷ giá giao ngay của một đồng tiền sẽ thay đổi theo thời gian, khẳng định rằng tỷ giá giao ngay sẽ thay đổi theo chênh lệch lãi suất giữa hai nước. Như vậy, việc NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất, đồng thời tăng tỷ giá của đồng USD lên gần tỷ giá thị trường và thu hẹp biên độ tỷ giá giao dịch ngoại hối từ ±5% xuống ±3% là hoàn toàn hợp lý.
Thứ năm, tính đến cuối tháng 11 Việt Nam nhập siêu khoảng hơn 10 tỷ USD, cùng với những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước, đẩy mạnh cuộc vận động người Việt dùng hàng Việt thì đây là một con số tương đối cao trong giai đoạn hậu suy giảm kinh tế hiện nay. Do đó, việc tăng lãi suất cơ bản và tăng tỷ giá sẽ làm tăng chi phí cho việc nhập khẩu. Qua đó giúp giảm bớt được tình trạng nhập khẩu, kích thích xuất khẩu nhằm hạn chế tình trạng nhập siêu cao và kích thích sản xuất - tiêu dùng hàng hóa trong nước.
Thứ sáu, bên cạnh những nguyên nhân trên có thể thấy rõ yếu tố tâm lý của người dân và doanh nghiệp cũng ảnh hưởng rất mạnh đến áp lực thay đổi lãi suất và tỷ giá: với những dự đoán năm 2010 nền kinh tế nước ta sẽ vẫn tiếp tục phải đương đầu với những khó khăn, thách thức của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu nên cả doanh nghiệp và người dân đều có tâm lý lo ngại sự mất giá mạnh của VND dẫn đến hiện tượng găm giữ ngoại tệ. Các doanh nghiệp xuất khẩu hay các doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ thì găm giữ trên tài khoản hoặc chỉ bán nhỏ giọt cho thị trường. Các doanh nghiệp nhập khẩu vội vã bằng mọi cách và bằng mọi giá đi mua ngoại tệ. Một bộ phận người dân cũng chuyển từ tiền gửi nội tệ sang tiền gửi ngoại tệ. Điều này lại càng làm trầm trọng hơn tình trạng mất cân đối cung-cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Quyết định thay đổi các loại lãi suất cùng với tỷ giá đã đưa đến những phản ứng tích cực của thị trường, cụ thể là: Ngay sau khi mức lãi suất cơ bản mới có hiệu lực, các NHTM đồng loạt đều tăng lãi suất huy động lên mức cao (10,5 % sau đó giảm xuống 10,499 %). Lãi suất cho vay ở các kỳ hạn đều tăng trần lên mức 12%. Như vậy lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng đã gần tiến gần tới lãi suất thực của thị trường; Tín dụng đối với nền kinh tế tháng 12/2009 ước tăng 0,87% so với mức tăng 3,57% của tháng 11 và mức tăng 2,04% của tháng 10. Ngoài ra, sự điều chỉnh tỷ giá lần này của NHNN đã lập tức có hiệu quả, tác động ngay đến giá USD trên thị trường tự do. Ngay trong ngày 25/11/2009, khi NHNN công bố thông tin về việc điều chỉnh tỷ giá, giá USD trên thị trường tự do đã giảm từ mức 19.750-19.800 buổi sáng xuống còn 19.500-19.700 vào buổi chiều. Sáng ngày 26/11, tỷ giá tự do tiếp tục giảm còn 19.300-19.500 VND/USD.
Chuyên gia Tai Hui từ Ngân hàng Standard Chartered Bank cho rằng tiền đồng Việt Nam vẫn chịu sức ép trong thời gian tới. Ông dự đoán sẽ có thêm các vụ phá giá mới. Nói chuyện với hãng Reuters, ông Tai Hui giải thích: “Trong bối cảnh thiếu hụt ngân sách đi cùng với cán cân thương mại thâm thủng, tiền đồng tại Việt Nam vẫn đang được định giá ở mức cao. “Điều này sẽ giảm uy tín của giới hoạch định chính sách tại Việt Nam. Dù loan báo mới này sẽ bớt đi phần nào sức ép với tiền đồng.”
Không nằm ngoài dự đoán, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư số 03 /2010/TT-NHNN ngày 10/02/2010 quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng và quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng.
- Kể từ ngày 11/02/2010, mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng) tại tổ chức tín dụng tối đa là 1,0%/năm. Quy định về lãi suất tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng theo Quyết định số 07/2007/QĐ-NHNN ngày 06/02/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về lãi suất tiền gửi của pháp nhân tại tổ chức tín dụng hết hiệu lực thi hành; đối với lãi suất tiền gửi có kỳ hạn bằng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng phát sinh trước thời điểm Thông tư này có hiệu lực thi hành, thì được tiếp tục thực hiện cho đến hết thời hạn đã thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và tổ chức kinh tế.
- Tỷ giá bình quân liên Ngân hàng giữa USD và VND áp dụng cho ngày 11/02/2010 là 18.544 VND/USD.
Như vậy, đồng tiền Việt Nam bị giảm giá 3,4% so với đôla Mỹ. Đây là lần phá giá thứ hai trong vòng 3 tháng qua. Theo giải thích của NHNN, việc điều chỉnh lại tỷ giá, hay nói cho đúng là phá giá đồng tiền Việt Nam là nhằm “cân đối hài hoà cung - cầu ngoại tệ, tăng cường sự lưu thông trên thị trường ngoại tệ, góp phần kiểm soát nhập siêu và ổn định kinh tế vĩ mô.”
Tuy nhiên việc phá giá cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Thứ nhất biện pháp phá giá đồng tiền có nguy cơ làm tăng lạm phát và thâm hụt thương mại. Khi giá USD tăng lên sẽ làm cho hàng ngoại nhập vào có giá cao hơn so với hàng hóa Việt Nam, góp phần hạn chế nhập khẩu nhưng cũng làm cho giá cả một số hàng hóa trong nước tăng lên. Đặc biệt là những ngành sử dụng nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài như ngành sản xuất thép, vận tải (xăng dầu tăng giá)…Năm ngoái, thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam được đánh giá lên tới 12,2 tỷ đô la. Trong năm 2008, lạm phát của Việt Nam tăng vọt 23%, sau đó giảm xuống còn 6,88% trong năm 2009. Tuy nhiên, theo giới quan sát, trong thời gian gần đây, lạm phát lại có xu hướng tăng, có thể lên tới 7,62%.
Thứ hai, tỷ giá VND/USD là tổng hòa của nhiều mối quan hệ, chứ không chỉ liên quan đến xuất khẩu/nhập khẩu. Tỷ giá VND/USD tác động rất lớn đến quan hệ nợ/trả nợ, bao gồm cả doanh nghiệp và Nhà nước. Nợ của doanh nghiệp không nhỏ, nên nếu USD tăng giá mạnh so với VND sẽ làm cho doanh nghiệp gặp rủi ro về tỷ giá. Trong khi đó, nợ của Nhà nước tuy là nợ dài hạn, nhưng những khoản nợ đã đến kỳ trả chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng ngân sách...
Thứ ba, nhiều thời điểm, tỷ giá trên thị trường tự do có độ vênh lớn so với thị trường chính thức đã tạo điều kiện cho hoạt động găm giữ, đầu cơ, lũng đoạn thị trường, làm ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước đã phải triển khai biện pháp liên kết với Bộ Công an, Bộ Công thương, Tổng Cục an ninh, UBND TP Hà Nội, TP HCM tăng cường kiểm soát hoạt động ngoại tệ, vàng trên thị trường chợ đen, được coi là phương án mạnh tay để trấn tĩnh thị trường. Thời gian tới, cần tăng cường tuyên truyền phổ biến nhiều hơn nữa về phương pháp xử phạt cụ thể để người dân thấy rõ chủ trương và góp phần bình ổn thị trường ngoại tệ.
Thứ tư, đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, yếu tố đánh giá sự phát triển của nền kinh tế một phần là dựa vào tỷ giá. Nếu đồng Việt Nam quá thấp so với USD sẽ làm giảm niềm tin với họ, ảnh hưởng tới lượng vốn nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận đưa vào Việt Nam.
Chương III: Những thách thức trong năm 2010 và những giải pháp sử dụng hiệu quả phá giá tiền tệ nhằm cải thiện cán cân thương mại.
1. Tổng quan cán cân thương mại năm 2009 và những thách thức trong năm 2010
Trải qua cuộc đối đầu bằng những giải pháp kinh tế quyết liệt và linh hoạt với suy giảm kinh tế bởi 2 trở lực từ nội sinh và “ngoại nhập”, kinh tế Việt Nam đã từng bước tìm được lối ra. Tuy nhiên vẫn còn nhiều trở ngại, mà trong đó tác động của ngoại lực với sự ẩn chứa của cuộc khủng hoảng toàn cầu có thể coi là rào cản lớn trong tiến trình hồi phục kinh tế Việt Nam. Bởi khủng hoảng toàn cầu đã làm thay đổi khối lượng tỷ giá hối đoái suy giảm kim ngạch xuất khẩu, mà kim ngạch xuất khẩu là yếu tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia khác đều hạn chế nhập khẩu hàng hóa, đẩy mạnh sản xuất trong nước nên thị trường xuất khẩu giảm đáng kể. Đến nay mặc dù có những thông tin ngược chiều song những tín hiệu ban đầu cho thấy kinh tế toàn cầu đặc biệt là các nước kinh tế phát triển đang có những động thái tích cực.
Trong bối cảnh đó, nhìn lại và phân tích toàn cảnh sự diễn tiến cuộc khủng hoảng kinh tế Việt Nam, bắt nguồn từ nguyên nhân phát sinh, sức đề kháng nội tạng, tác động ngoại lực các giải pháp nhằm chống đỡ của chính phủ Việt Nam và những ảnh hưởng khách quan và chủ quan khác, đã lộ rõ bức tranh lạc quan cho quá trình hồi phục kinh tế.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn biến là áp lực làm trì trệ nền kinh tế Việt Nam nhưng cũng được coi là cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc nền kinh tế, xác lập mặt bằng kinh tế mới, hướng tới sự phát triển bền vững hơn trong điều kiện Việt Nam tiến sâu vào hội nhập kinh tế toàn cầu. Mặt khác hậu quả của cuộc khủng hoảng này cũng sẽ là tác nhân cho việc tái cấu trúc kinh tế quốc tế theo hướng cân bằng, hợp tác và bền vững hơn.
Năm 2009, tình hình xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu dẫn đến sự đình trệ sản xuất và hạn chế tiêu dùng ở những nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU... và ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, bởi kim ngạch xuất khẩu ở Việt Nam chiếm gần 70% GDP. Đây là tác nhân quan trọng làm suy giảm kinh tế Việt Nam và tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc không ít vào nhân tố đó.
Ngoài ra Việt Nam còn chịu tác động của đồng USD giảm giá, làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu tăng nhập siêu. Số nhập siêu tính đến tháng 5/2008 tăng 55,3% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó sự giảm giá của đồng USD cũng tạo cơ hội cho đầu cơ xăng dầu ảnh hưởng đến cung – cầu thêm tác nhân tiềm ẩn cho giá xăng dầu leo thang liên tục, giá vàng dao động bất thường, không có lợi cho nền kinh tế. Giá vàng tuy diện ảnh hưởng của nó là giới hạn và gián tiếp đến một bộ phận xã hội đặc biệt trên thị trường bất động sản song cũng góp phần thêm tác nhân biến động tiêu cực đến mặt bằng giá cả trong thời lạm phát cả về mặt thực thể, tâm lý. Ngoài ra sự biến động của giá vàng mang tính tự phát, mà chính phủ vẫn chưa có đủ các giải pháp điều hành có hiệu lực, không thể coi là yếu tố đứng ngoài quá trình lạm phát. Những tác động trên có thể là những yếu tố “nhập khẩu” lạm phát. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 ước đạt khoảng 56,5 tỷ USD, giảm 9,9% so với năm 2008. Khối lượng hàng hoá xuất khẩu có sự tăng đáng kể giúp chúng ta giảm thiểu được đáng kể đến tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và xa hơn là giảm thiểu được tác động tiêu cực đến việc làm và thu nhập của người lao động. Vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản. Các mặt hàng công nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu. Trong thời gian tới, xuất khẩu của Việt Nam sẽ chịu thách thức lớn hơn, nhất là trong bối cảnh tác động của khủng hoảng những rào cản thương mại mới ngày càng nhiều với các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại các thị trường lớn sẽ dành cho các mặt hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như khoáng sản, nông, lâm, hải sản.
Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2010 phụ thuộc vào 3 yếu tố chính: tình hình kinh tế thế giới, sức mạnh nội tại của kinh tế trong nước và sự điều hành vĩ mô của Chính phủ. Tuy nhiên bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì cũng đặt ra nhiều thách thức cho cả 3 yếu tố trên.
Trong ngắn hạn, năm 2010 sẽ chứng kiến sự phục hồi ở những nền kinh tế lớn nhất thế giới. Hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế sẽ được hồi phục sau khi có sự giảm sút mạnh năm 2009. Với tư cách là một nền kinh tế nhỏ có độ mở cao, điều này tạo ra những ảnh hưởng tích cực trực tiếp lên nền kinh tế Việt Nam để có thể đạt tăng trưởng cao hơn trong năm 2010. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của những năm vừa qua, vấn đề đặt ra cho Việt Nam là cần phải xác định và điều chỉnh độ mở của nền kinh tế như thế nào cho phù hợp để tránh được các cú sốc do hội nhập quốc tế mang đến.
Đối với trong nước, những bất ổn vĩ mô trong nội tại nền kinh tế vẫn còn tồn tại và trở thành thách thức cho phát triển kinh tế năm 2010. Việt Nam vẫn còn mất cân đối lớn như bội chi ngân sách 2009 khoảng 6,9%, một tỷ lệ rất cao, mặc dù 2010 dự báo sẽ còn khoảng 6,2%. Chính phủ cần phải đưa con số này về dưới 5% thì mới đảm bảo tính an toàn. Thâm hụt cán cân kinh tế vãng lai năm 2009 rất lớn khiến dự trữ ngoại hối bị giảm mạnh do các gói kích cầu của chính phủ Bội chi đòi hỏi chính phủ phải bù đắp một phần bằng cách vay nợ từ nước ngoài. Tuy nhiên việc tỷ giá VND/USD tăng lên sẽ tạo áp lực lớn hơn do các khoản vay chịu lãi suất tạo lớn hơn. Thách thức tiếp theo là áp lực lạm phát cao.
Lạm phát không phải là vấn đề của năm 2009, nhưng năm 2010 hoàn toàn có thể là một năm làm phát bùng lên trở lại do các nguyên nhân gây ra lạm phát bị tích lũy ngày càng nhiều trong năm 2009. Cụ thể, như các chính sách hỗ trợ lãi suất làm tăng trưởng tín dụng, nới lòng kiểm soát giá một số mặt hàng như điện, nước, xăng dầu, điều chỉnh tăng lương và có thể là cả những nỗ lực phát hành tiền mà không được công bố chính thức.
2. Giải pháp phá giá tiền tệ và cải thiện cán cân thương mại
- Không nên phá giá mạnh VND: VND tăng giá sẽ có ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh toán, do đó đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách quản lý tỷ giá phải có chính sách phá giá VND tương ứng với mức giảm của tỷ giá REER (tỷ giá thực đa phương), chẳng hạn nếu ta muốn phá giá VND so với USD thì cần thiết phải tính ra tỷ giá (TG) kỳ vọng dựa trên công thức:
TG kỳ vọng = (% thay đổi tỷ giá REER) x (TG danh nghĩa tại thời điểm t) + (TG danh nghĩa tại thời điểm t).
Tuy nhiên xoay quanh vấn đề phá giá tiền tệ hiện nay có rất nhiều luồng ý kiến về việc nên hay không nên phá giá mạnh VND. Để trả lời cho câu hỏi này trước tiên ta phải xét đến các điều kiện phù hợp để tiến hành phá giá. Theo Marshall – Lener thì giá trị tuyệt đối của tổng độ co giãn theo giá của xuất khẩu và nhập khẩu lớn hơn 1. Trên thực tế nếu xét các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu là các mặt hàng thô, hoặc gia công cho nước ngoài. Đối với các nước công nghiệp phát triển, nơi nhận đại bộ phận sản phẩm thô xuất khẩu, độ co giãn của cầu là thấp, đặc biệt đối với nông sản xuất khẩu. Ngược lại cung sản phẩm thô của các nước đang phát triển lại có độ co giãn cao. Do đó hiệu quả để đạt mục tiêu xuất khẩu là không cao. Thêm vào đó quỹ dự trữ ngoại tệ của Việt Nam không đủ lớn để bù đắp lượng ngoại tệ khi cần thiết và để trả nợ cho nước ngoài. Khi tiến hành phá giá sẽ dẫn tới tình trạng đầu cơ tích trữ ngoại tệ gây khan hiếm ngoại tệ trên thị trường.
Việc phá giá tiền tệ mang lại lợi ích lớn trong việc xúc tiến xuất khẩu hàng hóa nhưng trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều vấn đề như hiện nay thì Việt Nam không nên phá giá mạnh VND. Bởi vì không thể phủ nhận rằng nhìn bề ngoài thì có thể kỳ vọng tác động phần nào đến xuất khẩu nhưng phân tích bản chất thì tăng trưởng xuất khẩu bền vững không thể trông chờ vào yếu tố tỷ giá được. Hơn nữa, việc phá giá đồng tiền Việt Nam sẽ có tác động nhiều chiều, có khi tác động ngược lại còn lớn hơn là mặt tích cực.
“Nếu phá giá đồng Việt Nam, dù chỉ là mức 4-5% thôi sẽ tạo nên một mặt bằng giá mới thị trường trong nước, tác động lên tăng chỉ số CPI. Mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2009 rõ ràng khó có thể đạt được” – TS Nguyễn Ngọc Thao - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia nói.
Theo tính toán của cơ quan chức năng, nếu như đồng Việt Nam mất giá 5% thôi thì mỗi năm Ngân sách Nhà nước sẽ chi thêm 26.000 tỷ đồng để trả nợ nước ngoài, các doanh nghiệp cũng phải trả nợ thêm 13.000 tỷ đồng. Một tính toán khác đã được công bố cho hay, chỉ tính riêng Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại số nợ nước ngoài phải trả tính ra nội tệ đã tăng thêm tới 800 tỷ đồng. Nói cách khác, phá giá đồng Việt Nam, hay để ngoại tệ tăng giá so với VND thì sẽ làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp. Một tác động đặc biệt quan trọng khác là tạo tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ và chuyển đổi từ VND sang USD, làm gia tăng thêm tình trạng đô la hoá nền kinh tế.
- Xây dựng chế độ tỷ giá linh hoạt: Theo mục 2, Điều 39 Nghị định 160/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối thì cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý do NHNN Việt Nam xác định trên cơ sở rổ tiền tệ của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ, đầu tư với Việt Nam phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ. Như vậy, trong bối cảnh kinh tế hiện nay, tỷ giá VND được xác định dựa trên rổ tiền tệ (B- Basket) thay vì chỉ dựa vào USD.
Ngày 25/2/1999, cơ chế tỷ giá của Việt Nam được cải cách đáng kể, NHNN bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức và thay thế bằng việc thông báo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Các ngân hàng thương mại được xác định tỷ giá mua bán đối với USD không vượt quá +0,1% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó, sau đó biên độ đã tiếp tục được thay đổi để tạo sự linh hoạt hơn cho chính sách tỷ giá. Ngoài ra, hàng năm NHNN sẽ công bố mục tiêu như là một vật neo danh nghĩa trong điều hành tỷ giá.
- Theo sát những tín hiệu trên thị trường ngoại tệ chính thức: Khoảng cách giữa tỷ giá mua và bán của một ngoại tệ, trên lý thuyết cũng như thực tiễn, tùy thuộc vào phạm vi giao dịch, mức độ rủi ro và tính thanh khoản của ngoại tệ đó trên thị trường. Trong trạng thái cân bằng của thị trường, áp lực cạnh tranh luôn giữ sự chênh lệch này ở vào một mức độ hợp lý. Việc nới lỏng biên độ dao động tỷ giá là một nhu cầu thiết thực để đưa công tác điều chỉnh tỷ giá tiến gần tới các quy luật thị trường hơn, hay cũng đồng nghĩa với việc tự do hóa dần các giao dịch ngoại tệ. Khi thị trường hối đoái thế giới có biến động mạnh, các quy định hành chính về biên độ có thể làm đóng băng thị trường ngoại tệ trong nước, khuyến khích các hoạt động phi pháp.
Theo nghiên cứu của IMF, tỷ giá thực của đồng Việt Nam so với USD được đánh giá cao hơn tỷ giá thực tương ứng của các nước có quan hệ mậu dịch với Việt Nam như Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Thái Lan và thậm chí cả Mỹ. Điều đó có nghĩa hàng Việt Nam được bán trên thị trường thế giới với giá cao hơn hàng cùng loại của những quốc gia trên. Mặt khác, xu hướng hội nhập gắn liền với chiến lược cạnh tranh bằng hàng xuất khẩu cũng tạo áp lực thay đổi cách quản lý tỷ giá danh nghĩa hiện nay, trong đó ý kiến nổi bật là phải phá giá đồng Việt Nam. Tuy nhiên, việc phá giá đột ngột đồng Việt Nam có thể gây xáo trộn lớn trong nền kinh tế. Tỷ giá danh nghĩa tăng là một lợi thế cho hàng xuất khẩu nhưng chưa thể bảo đảm khả năng cạnh tranh vì chúng ta còn vấp phải hàng rào phi thuế quan (tiêu chuẩn về kiểm dịch, chất lượng sản phẩm, hàm lượng kỹ thuật cao trong sản phẩm, tâm lý tiêu dùng, thương hiệu …). Trong lúc đó, cán cân mậu dịch hiện đang ở tình trạng nhập siêu. Một khi đầu ra chưa đảm bảo thì việc phá giá sẽ làm trầm trọng hơn sự thâm hụt cán cân mậu dịch. Mặt khác, các công cụ điều tiết thị trường tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu chưa phát huy tính ưu việt. Thế nên, việc phá giá mạnh đồng VN rất có thể dẫn đến những cú sốc kinh tế nằm ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ. Xu hướng phá giá nội tệ là một định hướng đúng nhưng cần tiến hành thận trọng nhằm tránh gây sốc cho nền kinh tế.
- Theo dõi những xu hướng vận động trên thị trường chợ đen. Sự tồn tại của thị trường ngoại tệ chợ đen là một tất yếu xuất phát từ thực trạng kinh tế và cơ chế quản lý ngoại hối của VN. Nắm bắt những tín hiệu trên thị trường này, nơi mà các lực thị trường về cơ bản là không bị điều phối bởi các quy định hành chính, có thể giúp ích công tác điều hành tỷ giá. Cụ thể:
Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước ở các tỉnh, thành phố nên hình thành chân rết tại những đầu mối giao dịch trên trường chợ đen nhằm nắm bắt kịp thời xu hướng vận động của thị trường này.
Độ chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen tạo nên khái niệm độ mở “cánh kéo”, được xem là hàn thử biểu để đánh giá mức độ hợp lý trong điều hành tỷ giá. Tính hợp lý bộc lộ khi hai tỷ giá này xích gần lại nhau. Không nhất thiết làm chúng trùng nhau vì thị trường chợ đen cũng chỉ một mảng nhỏ trong tổng thể thị trường, và tính bất hợp pháp của nó luôn chứa đựng một khoản rủi ro nhất định. Tốt hơn là nên chấp nhận sự chênh lệch này, miễn sao nó không đủ lớn để làm rò rỉ ngoại tệ từ thị trường chính thức ra chốn chợ đen.
- Cân bằng kinh tế bên trong và bên ngoài: Các khái niệm cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài đã được Trevor Swan (1955) mô tả bằng đồ thị và được biết đến là “Swan Diagram“. Do không đề cập đến luồng chu chuyển vốn quốc tế nên mô hình Swan Diagram coi điều kiện bên ngoài chính là trạng thái cân bằng cán cân vãng lai, nền kinh tế Việt Nam được phân tích theo đồ thị Swan như sau:
Theo đồ thị, REER =1. Trục tung của đồ thị biểu diễn tỷ giá. Trục hoành biểu diễn chi tiêu trong nước, bao gồm: tiêu dùng (C), đầu tư (I), và chi tiêu của Chính phủ (G).
Đồ thị 3: Mô hình Swan Diagram
Theo cách tính REER của nhóm nghiên cứu, thì REER của Việt Nam có xu hướng giảm xuống, tức là đang bị định giá cao hơn. Thâm hụt cán cân vãng lai kéo dài dai dẳng từ năm 2002 đến năm 2008 đưa nền kinh tế Việt Nam nằm bên phải đường cân bằng ngoại EB. Năm 2008, tình trạng thất nghiệp của người lao động tăng cao do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu (Theo Outlook 2009, Vietnam: Năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị ước tính tăng 5% và tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực nông thôn cũng tăng lên mặc dù chính sách nông nghiệp đã được cải cách đáng kể). Có nghĩa là trạng thái nền kinh tế Việt Nam đang nằm bên trái đường cân bằng nội IB, tức tại điểm B, vùng số 2. Để nền kinh tế Việt Nam (điểm B) trở về trạng thái cân bằng đối nội và đối ngoại, tức tại điểm A.
Đối với mục tiêu cân bằng nội, Chính phủ phải tăng chi tiêu trong nước, tức là tăng đầu tư, tiêu dùng, chi tiêu của Chính phủ, đưa nền kinh tế duy chuyển tới điểm D. Điều này đưa nền kinh tế đến tình trạng thậm hụt cán cân vãng lai. Đối với mục tiêu cân bằng ngoại, Chính phủ thực hiện phá giá đồng nội tệ, khi đó sẽ kích thích tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, do đó đưa nền kinh tế đến điểm C, khi đó kinh tế Việt Nam sẽ đối diện với tình trạng thất nghiệp.
Vì vậy, để đạt được cả hai mục tiêu cân bằng bên trong và bên ngoài, Chính phủ nên kết hợp cả hai công cụ: phá giá tiền tệ và tăng chi tiêu trong nước đồng bộ với nhau, không nên dùng một trong hai phương pháp một cách riêng lẻ.
- Thêm vào đó, để đẩy mạnh xuất khẩu thì chính phủ nên áp dụng các chính sách khuyến khích xuất khẩu khác. Chỉ dựa vào chính sách tỷ giá để cải thiện cán cân thương mại thôi là chưa đủ mà phải kết hợp biện pháp khác nhăm tăng khả năng cạnh tranh, tạo uy tín của sản phẩm xuất khẩu. Ta phải phối hợp với các đơn vị của các bộ quản lý chuyên ngành và các địa phương làm việc với các tập đoàn, tổng công ty và các hiệp hội ngành hàng lớn, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rà soát khả năng về mặt hàng, thị trường xuất khẩu, xác định cụ thể mục tiêu và biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu của từng đơn vị, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn cho sản xuất, kinh doanh xuất khẩu; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất khẩu để tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Bên cạnh đó là việc tập trung tháo gỡ khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu có vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu; rà soát các chính sách về đầu tư và đề xuất Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét bổ sung các chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu để tăng số lượng và chất lượng hàng xuất khẩu; đẩy nhanh các dự án sản xuất thay thế hàng nhập khẩu.
Về các giải pháp kiểm soát nhập siêu, đưa ra các danh mục mặt hàng cần áp dụng thuế quan hoặc giấy phép nhập khẩu để bảo đảm kiểm soát nhập khẩu nhóm mặt hàng có nguy cơ gây dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi và các mặt hàng gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người; tiếp tục áp dụng các biện pháp kiểm soát nhập khẩu, quy trình thông quan đối với các nhóm hàng cần kiểm soát và cần hạn chế nhập khẩu; nghiên cứu xây dựng phương án áp dụng thí điểm việc kiểm tra xuất xứ, chất lượng hàng hóa, nhất là đối với nông, thủy sản, thực phẩm chế biến, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, thuốc chữa bệnh cho người, thuốc bảo vệ thực vật…trước khi hàng hóa được xếp lên tàu tại nước xuất khẩu hoặc kiểm tra quy trình sản xuất tại nước ngoài để cấp giấy chứng nhận hàng hóa đủ điều kiện lưu thông trên thị trường Việt Nam, kiểm tra tại cửa khẩu Việt Nam trước khi hàng hóa được thông quan.
Kết luận
Phá giá tiền tệ là một trong những biện pháp cải thiện cán cân thương mại quốc tế. Chính phủ thực hiện biện pháp này khi cần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong nước khi đem ra trao đổi trên thị trường nước ngoài, đồng thời làm hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên để thực hiện hiệu quả chính sách này cần phải chú ý đến nhiều yếu tố: việc phá giá đồng tiền của nước bạn hàng, sự ảnh hưởng của giá cả lên xuất khẩu, nhập khẩu phải lớn, tình hình nợ nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước…
Chính sách phá giá tiền tệ đã và đang được thực hiện ở rất nhiều nước và được xem như là chính sách rất quan trọng để đẩy mạnh xuất khẩu. Thành công nhất phải kể đến Trung Quốc. Với chính sách này hàng hóa của Trung Quốc trở nên rẻ tương đối so với hàng hóa nhập từ các nước khác đem lại lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Có được thành công này là nhờ sự nhạy bén trong việc kết hợp các chính sách khác trong việc giải quyết các mặt hạn chế của phá giá, và đưa ra những quyết định phù hợp đúng thời điểm cho chính sách tỷ giá. Nghiên cứu thành công từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác cho Việt Nam rất nhiều bài học cần thiết khi áp dụng chính sách tỷ giá trong việc cải thiện cán cân thương mại.
Tỷ giá chỉ là một phần, nhưng không nhất thiết là phần lớn. Khối lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam gia tăng cần có sự gia tăng nhu cầu từ các nước nhập khẩu đối với sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam cũng như đưa ra mức giá cao hơn đối với những hàng hóa này. Giá cả rất nhiều hàng hóa, đặc biệt là nông sản, đã bắt đầu hồi phục trong năm qua và nhiều hàng hóa được dự kiến sẽ có mức giá cao hơn từ thời điểm này. Điều này sẽ hỗ trợ nhiều cho xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam cũng nhập khẩu rất nhiều hàng hóa, đặc biệt các sản phẩm hóa dầu, thép, nhựa, máy móc và giá của những hàng hóa này cũng gia tăng, nhập khẩu của Việt Nam sẽ tăng thêm. Vì Việt Nam là một nước đang phát triển, đang tăng trưởng tương đối nhanh và nền tảng công nghiệp vẫn còn hạn chế. Rõ ràng, Việt Nam cần phải tiếp tục nhập khẩu thêm hàng hóa để phục vụ cho công nghiệp cũng như các loại nguyên liệu thô để phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế. Do đó việc phá giá tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến giá cả hàng hóa có hàm lượng nhập khẩu cao.
Vì vậy, giải quyết vấn đề mất cân đối cán cân thương mại có thể là vấn đề dài hạn, mất nhiều năm để thực hiện được. Điều này cũng cần sự chú ý của Chính phủ để giám sát và kiểm soát thâm hụt thương mại cũng như đảm bảo cho cán cân thương mại vẫn nằm trong một giới hạn hợp lý trong so sánh với xuất khẩu của đất nước.
Việc quản lý và điều chỉnh linh hoạt tỷ giá USD/VND tùy thời điểm sẽ là một công cụ hữu hiệu của cơ quan chức năng và cũng là một phần quan trọng của quá trình làm cân đối cán cân thương mại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25788.doc