Nhân dân ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,mong muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. Do vậy, tăng cường quan hệ với hệ thống kinh tế thế giới, tham gia phân công lao động và cạnh tranh quốc tế đang là đề tài cần làm sáng tỏ. Hiện nay, các nước tư bản chủ nghĩa vẫn đang giữ vị trí chi phối kinh tế thế giới. Trên phương diện chính trị thế giới cũng như kinh tế thế giới, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang chiếm ưu thế. Chúng ta kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh như vậy nên việc hiểu thấu đáo về chủ nghĩa tư bản hiện đại là điều hết sức cần thiết.
35 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1652 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kinh tế tư bản hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nay, cùng với sự điều tiết của Nhà nước đã có những biến đổi trong lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng như sự biến đổi trong hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa hiện nay.
I- Sự biến đổi trong lực lượng sản xuất
1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội nhất định, ở một thời kỳ nhất định. Nó biểu hiện trình độ sản xuất của con người, năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm: tư liệu sản xuất và con người với tri thức và phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen của họ.
Trong quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động có vai trò rất quan trọng. Trong quá trình lao động con người sử dụng tư liệu lao động tác động lên đối tượng lao động để làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích của con người. Khi xã hội phát triển đi lên, tầm nhận thức của con người ngày một sâu sắc, cũng như nhu cầu càng tăng thì tư liệu sản xuất cũng ngày một phong phú, đa dạng. Nó không chỉ là những công cụ thô sơ, thiết bị cơ khí hoá mà thay vào đó là các công cụ thiết bị tự động hoá. Nhất là khi khoa học công nghệ càng phát triển thì tư liệu sản xuất được cải tiến đi lên những trình độ mới ngày càng hiện đại. Cùng với những thành tựu khoa học thì trình độ của người lao động được nâng lên tầm cao mới như phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo được phát huy, đặc biệt là thời đại ngày nay với nền kinh tế trí thức.
Có thể nói lực lượng sản xuất là cơ sở tồn tại của loài người, đồng thời là lực lượng quyết định, thúc đẩy xã hội loài người phát triển không ngừng. Vì đó là năng lực được tạo ra bởi sự kết hợp giữa lao động với tư liệu lao động để tạo ra của cải vật chất và tinh thần không những để con người tồn tại mà còn nhằm thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng, càng đa dạng, phong phú của con người thúc đẩy xã hội loài người phát triển.
Cùng dòng chảy của thời gian và sự phát triển của thời đại thì lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ khác nhau cũng khác nhau, ngày một phàt triển đi lên và mang những đặc điểm riêng.Ngày nay, biểu hiện nổi bật nhất củ chủ nghĩa tư bản là sự phát triển như vũ bão của lực lượng sản xuất và kéo theo những thay đổi trong xã hội.
2. Biến đổi các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất:
2.1. Biến đổi trong khoa học - công nghệ:
Đặc trưng của tư bản chủ nghĩa là sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất.Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và ngày càng phát triển thì tư liệu sản xuất cũng đa dạng và phát triển mạnh.
Sự phát triển của máy móc, thiết bị và đối tượng lao động:
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất thì tư liệu sản xuất không thể thiếu đối với người lao động. Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản thì công cụ lao động cũng đang còn thô sơn như máy kéo sợi, máy hơi nước… cũng như đối tượng lao động giản đơn hầu như là lấy trong tự nhiên xung quanh con người, như gỗ trong rừng, quặng trong lòng đất…và một số loại trải qua lao động, cải biến, như:vải để may mặc, sắt thép để chế tạo máy…
Cuộc đại chiến thế giới thứ hai là một tai hoạ lớn trong lịch sử loài người xong nó lại có tác dụng thúc đẩy tới sự phát triển của khoa học kỹ thuật, máy móc thay thế dần cho các công cụ thô sơ. Các quốc gia đã tập trung nghiên cứu kỹ thuật quân sự, phát minh vũ khí, thiết bị chiến tranh như tên lửa, máy bay, bom tử… và các phát minh này được áp dụng trong đời sống, trong quá trình sản xuất sau này. Bên cạnh đó, nhờ sự cạnh tranh độc quyền quyết liệt, chạy đua vũ trang, chủ nghĩa độc quyền Nhà nước đã thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và trở thành lực lượng sản xuất xã hội- một bộ phận năng động nhất của lực lượng sản xuất hiện đại từng bước thay thế lực lượng sản xuất thô sơ bằng các tư liệu sản xuất hiện đại dựa trên thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Nó không chỉ nổ ra ở các ngành động lực, chế tạo máy mà còn xâm nhập vào mọi mặt của đời sống loài người như công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, giao thông, dịch vụ, môi trường sinh thái…mà tập trung ở các lĩnh vực điện tử, tin học ,công nghệ thông tin, vật liệu mới, năng lượng, vũ trụ học, hải dương học, công nghệ sinh học…thể hiện trong những thiết bị siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu bền…tác dụng nhanh, hiệu quả cao, tiêu tốn ít năng lượng như thiết bị điện tử, con chip…Bên cạnh đó, bước phát triển mới của cuộc cách mạng khoa học -công nghệ đã đưa sản xuất và đời sống con người vượt ra những hạn chế của nguồn tài nguyên. Ngày nay, khi mà nhu cầu của con người càng lên cao, con người sử dụng nhiều nguồn năng lượng, và tài nguyên thiên nhiên khan hiếm và đang trong tình trạng suy thoái thì việc tạo ra các nguồn năng lượng mới thay thế cho các nguồn năng lượng cũ là rất cần thiết. Cùng với sự phát triển của tư liệu sản xuất thì sự ra đời của các vật liệu tổng hợp không những giúp con người giảm sự phụ thuộc vào tự nhiên thiên nhiên không tái sinh được mà còn cung cấp cho con người nguồn vật liệu mới-nguyên vật liệu “nhân tạo”, tính năng ưu việt hơn và tái sinh được. Sự ra đời và xuất hiện các loại vật liệu này ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển sản xuất xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ.
Phát triển những công nghệ mới đẩy mạnh quá trình tự động hoá:
Sự đột phá của cuộc cách mạng khoa học công nghệ là nhanh chóng và không ngừng tạo ra, hình thành, phát triển công nghệ mới như:công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng đã đưa nền sản xuất cơ khí của chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn tự động hoá. Máy móc đã dần thay thế cho lao động của con người, đặc biệt là việc sử dụng rộng rãi người máy ở các nước tư bản phát triển, như năm 1990 ở Nhật đã sử dụng khoảng 270 ngàn người máy, Mỹ khoảng 40 ngàn, Đức khoảng 30 ngàn. Hệ thống máy móc, thiết bị điện tử sản xuất theo công nghệ dây truyền nên tạo nên mối liên hệ giữa các ngành càng mật thiết, tinh vi hơn. Hàng ngàn công nhân, nhà khoa học phải hiệp đồng với nhau, nỗ lực cùng nhau làm cho hoạt động sản xuất trôi chảy.
Vai trò của khoa học công nghệ được đánh giá khá cao và được thực tiễn chứng minh. Sự thay đổi của nó đã đóng góp tới 65% tăng trưởng kinh tế Nhật, 73% kinh tế Anh, 76% kinh tế Pháp và Cộng hoà liên bang Đức, 35% tăng trưởng kinh tế Mỹ.
2.2 Biến đổi trong kết cấu ngành:
Cùng với sự biến đổi của công nghệ thì kết cấu các ngành cũng được dịch chuyển, nâng cấp nhanh. Các ngành công nghiệp mới dựa trên cơ sở khoa học kỹ thuật hiện đại ra đời và phát triển rất nhanh, trở thành những ngành tiên phong, chủ đạo của sự phát triển kinh tế xã hội như bưu chính viễn thông. Bên cạnh đó các ngành công nghiệp truyền thống phần lớn là những ngành công nghiệp cơ sở, không thể thiếu đối với nền tái sản xuất xã hội đã độ cải thiện không ngừng. Tuy nhiên,cơ cấu ngành thay đổi, chuyển dịch, nâng cấp nhanh lên trình độ mới phù hợp với nền sản xuất hiện đại, kỹ thuật cao, hàm lượng trí tuệ lớn. Và biểu hiện ở ba ngành:công nghiệp, nông nghiệp, ngành kinh tế phục vụ không sản xuất vật chất.
Ngành nông nghiệp:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nông nghiệp ở các nước tư bản phát triển đã ứng dụng thanh quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sử dụng rộng rãi thiết bị máy móc tiên tiến, phân bón, kỹ thuật điện tử, sinh học, di truyền đặc biệt trong trồng trọt và chăn nuôi để giảm bớt sức lao động chân tay .Đồng thời trình độ chuyên môn hoá phát triển mạnh và hệ thống phục vụ nông nghiệp ngày càng hiện đại. Tuy nhiên tỷ trọng nền nông nghiệp giảm xuống rất nhanh,từ năm: 1910-1949 mỗi năm giảm 0,8%, năm 1945-1990 mỗi năm giảm 4,8%. Và tỷ trọng ngững năm gần đây xu hướng giảm bắt đầu dịu đi, như Mỹ-một nước tư bản phát triển mạnh, thập kỷ 50 giảm với tốc độ 5,5%, còn thập kỷ 80 là: 1,1%. Tuy nhiên nhờ sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp thì sản lượng nông nghiệp tăng rất nhanh. ở Mỹ năm 1990 so với năm 1950 giá trị sản lượng nông nghiệp Mỹ cao hơn 4,8 lần, trình độ sản lượng nông nghiệp cao hơn 1,92 lần.
Ngành công nghiệp:
Bên cạnh sự phát triển của nền nông nghiệp thì cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp ngày nay vô cùng phức tạp, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, các ngành có kỹ thuật cao, như: kỹ thuật điện tử, vật liệu mới, năng lượng mới, sinh học…đặc biệt là ngành điện tử dần thay thế cho các ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh trong thập kỷ 50 như xe hơi, dụng cụ điện gia đình…Trong khi đó các ngành nghề truyền thống như:than, chế tạo máy,dệt…giảm tương đối. Việc đầu tư vào các thiết bị và nhà xưởng tăng để cải tạo kỷ thuật cũ và nâng cao trình độ tự động hoá. Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp phát triển mạnh, xong dần dần bị thu hẹp bớt, thay vào đó là sự đi lên của ngành du lịch, dịch vụ.
Ngành kinh tế phục vụ không sản xuất vật chất:
Cùng với sự thay đổi của công nghiệp và nông nghiệp thì sau chiến tranh thế giới cùng với sự thúc đẩy của khoa học -công nghệ và sự nâng cao trình độ sản xuất toàn diện của chủ nghĩa tư bản làm ngành kinh tế phục vụ không sản xuất vật chất không ngừng phát triển,không những vượt ngành công nghiệp, nông nghiệp về mặt tỷ trọng mà cơ cấu của nó còn có xu hướng hiện đại do hàm lượng tri thức và kỹ thuật trong nội bộ ngành không ngừng gia tăng. Nó xâm nhập vào đời sống của con người: phục vụ truyền thống, nghiên cứu khoa học, phục vụ cho sự phát triển và đời sống của con người cũng như tổ chức và quản lý đời sống kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, tốc độ tích luỹ tư bản của ngành này tăng lên rất mạnh, mức của nó trong tổng lượng tích luỹ tư bản toàn xã hội không ngừng mở rộng.
Xu hướng chung của ba ngành trong phạm vi trên toàn thế giới là ngành nông nghiệp không ngừng thu nhỏ lại, tỷ lệ ngành công nghiệp từ mở rộng đi đến thu nhỏ lại, tỷ lệ ngành kinh tế phục vụ không sản xuất không ngừng mở rộng.
3. Biến đổi cơ cấu lao động
3.1. Nguồn lao động
Trong chủ nghĩa tư bản, mục tiêu và quan tâm là giá trị thặng dư. Sau chiến tranh, chủ thể sản xuất ra giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản vẫn là thành phần làm thuê đã có nhiều thay đổi, vừa có người lao động trong ngành trực tiếp sản xuất vật chất vừa có cả người lao động trong ngành sản xuất phi vật chất; vừa có người lao động chân tay, vừa có người lao động trí óc mà lao động trí óc ngày càng có vai trò quan trọng trong tiêu hao lao động sống. Đặc biệt sự chào đời của thời đại kinh tế tri thức, với những con người trí thức. Ngày nay, khi khoa học-công nghệ đang phát triển mạnh thì tri thức của con người càng được đánh giá cao. Lượng người lao động trí óc tăng lên, người lao động chân tay giảm xuống.
Việc áp dụng kỹ thuật mới trong các ngành sản xuất vật chất đã nâng cao đột ngột năng suất lao động và tạo ra điều kiện đưa lao động sang các ngành phi sản xuất. Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ, cơ cấu người lao động làm thuê biến động nhanh chóng. Với nền kinh tế dựa trên nguồn lực thông tin ngay càng nhiều và các ngành có hàm lượng tri thức, công nghệ cao thì ngoài số lao động trong các ngành sản xuất vật chất, người làm trong các ngành lao động trí lực ngày càng có vai trò lớn trong việc tiêu hao lao động sống, tạo ra giá trị thặng dư cho xã hội tư bản. Nên quá trình người lao động được giáo dục, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật như một tất yếu, với một nhịp độ ngày càng phát triển nhanh. Ngày nay, với nền sản xuất dần dần từng bước chuyển sang nền “sản xuất tri thức”, vai trò của nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng. Khi đại bộ phận con người đều có văn hoá và tri thức khoa học thì đó là lực lượng quyết định hướng đi của xã hội. Xu hướng hiện nay là lao động trí lực, lao động khoa học, kỹ thuật, lao động phi sản xuất trực tiếp tăng nhanh, lao động có kỹ năng thấp, ít được đào tạo giảm nhanh vai trò trong sản xuất giá trị thặng dư và dần dần bị loại bỏ khỏi danh mục nghề nghiệp ở các nước tư bản. Như Mỹ:năm 1960 số công nhân lành nghề văn phòng, số công nhân kỹ thuật tương ứng là:19%, 16% thì đến năm 1995 tăng lên:20%, 17%.
Để nâng cao trình độ khoa học, đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, các nước tư bản đã tăng cường đầu tư vào việc nghiên cứu và triển khai, thực hiện hợp tác quốc tế trong những trương trình nghiên cứu mang tính chiến lược, thực hiện cải cách giáo dục…Thông qua giáo dục, bồi dưỡng chuyên môn. khoa học kỹ thuật được chuyển há vào người lao động; khi nắm được phương pháp, kỹ năng kỹ xảo lao động chế tạo và điều khiển công cụ lao động, quy trình công nghệ mới,người lao động trở thành công nhân lành nghề hoặc người làm công tác kỹ thuật.Viêc chi cho giáo dục ở Mỹ chiếm: 7,65%GDP,Đức: 4,1% GDP,Pháp: 2,34% GDP. Không những thế các nước tư bản phát triển trên thế giới có những chính sách thu hút vốn lao động có trình độ cao ở các nước trên thế giới. Vì thế lực lượng lao động có chuyên môn cao ngày càng tăng lên ở các nước tư bản phát triển.
Lao động trí óc ngày càng giữ vao trò quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển lên một tầm cao mới-chủ nghĩa tư bản hiện đại. Nếu như sản lượng công nhân thế giới năm 1700-1970 tăng 1,73% lần thì từ 1970 đến thập kỷ 80 sản lượng công nhân tăng gần gấp đôi( gần 3,0416 lần).
3.2. Biến đổi cơ cấu lao động:
Cùng với sự phát triển của con người và sự biến đổi cơ cấu ngành: tỷ trọng của ngành sản xuất vật chất công nông nghiệp trong nền kinh tế giảm, tỷ trọng những ngành sản xuất phi vật chất tăng lên đã kéo theo sự biến đổi cơ cấu lao động trong ngành.
Khi khoa học- công nghệ phát triển tương đối cao thì ngành công nghiệp và nông nghiệp có nguồn lao động tương đối cao chỉ dùng một số lượng người làm ít để làm ra nhiều sản phẩm đã tạo cho sự phát triển của ngành thứ ba (ngành sản xuất phi vật chất) có một cơ sở vật chất vững chắc, thu hút mạnh mẽ sức lao động từ lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp di chuyển đến.
Cơ cấu lao động thay đổi theo chiều hướng tiến bộ và các yếu tố tái sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách có hiệu quả. Trong dịch vụ lao động tập trung cao chiếm khoảng 70-75%, đồng thời đội ngũ chuyên gia có tay nghề cao chủ yếu tập trung ở khu vực này. Năm 1990, một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Đức phân bố lực lượng lao động kỹ thuật có tay nghề cao vào các khu vực dịch vụ, khu vực công nghiệp, khu vực nông nghiệp lần lượt là:77,6%; 21,9%; 0,5%.
Trong ba thập kỷ gần đây, ngành thứ ba tăng trưởng nhanh chóng và do đó tạo ra mức độ tập trung vốn và lao động ngày càng cao trong các ngành dịch vụ. Trong thời kỳ 1960-1989, tỷ trọng số lao động làm việc trong ngành nông nghiệp và công nghiệp trong tổng lao động cả nước Mỹ giảm bình quân hàng năm rương ứng là 3,3% và 1,3%; Trong khi đó tỷ trọng lao động trong ngành sản xuất phi vật chất tăng bình quân 1,2%, đặc biệt đến đầu thập kỷ 90, lao động của ngành này hầu hết ở các nước tư bản phát triển đã chiếm 75% tổng số người lao động làm việc và đóng góp từ 60% đến 70%GNP.
Theo thời gian, cùng với sự thay đổi của thời đại, lưc lượng sản xuất cũng thay đổi cả về yếu tố vật chất lẫn cơ cấu lao động đã làm xã hội tư bản lên một tầm cao mới-xã hội tư bản hiện đại.
II- Sự biến đổi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản
1. Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội.Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên mà còn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự nhiên và mới có sản xuất. Quá trình sản xuất trãi qua bốn giai đoạn: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm. Bốn giai đoạn bị chi phối lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Để tạo thành một quy trình giai đoạn thì con người đều có tác động với nhau, kết hợp với nhau và đã tạo ra mối quan hệ giữa người với người.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội, biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu: quan hệ sở hữu là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội; quan hệ tổ chức quản lý là quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho nhau; quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa người với người trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội. Chúng có mối quan hệ mật thiết,tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó quan hệ sở hữu đóng vai trò quyết định. Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và phân phối lưu thông cũng có tác động trở lại quan hệ sở hữu.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý trí chủ quan của con người. Trong tính hiện thực của nó không phải là những quan hệ ý chí, pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu hiện thành các phạm trù, quy luật kinh tế. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bảo của khoa học công nghệ làm quan hệ sản xuất thay đổi theo.
2. Biến đổi các hình thức sở hữu
2.1. Các hình thức sở hữu
Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bao gồm sở hữu tư bản tư nhân và sở hữu của người sản xuất nhỏ. Hình thức sở hữu tư nhân bao gồm hình thức chủ sở hữu là các nhà tư bản tư nhân, kinh doanh trong các ngành từ nông nghiệp, công nghiệp, đến dịch vụ và hình thức sở hữu của các nhà sản xuất nhỏ từ nông nghiệp, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp. Trong đó hình thức sở hữu tư bản tư nhân vẫn đóng vai trò thống trị trong tư bản chủ nghĩa.
2.2. Sự biến đổi
Dưới tác dụng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ quan hệ sở hữu đã có nhiều biến đổi to lớn về các mặt: chủ sở hữu, đối tượng sở hữu và đặc biệt là hình thức sở hữu.
Chủ sở hữu:
Chủ sở hữu không đơn thuần là một chủ sở hữu của một doanh nghiệp,công ty mà là nhiều chủ sở hữu. Hiện nay, xu thế hoá toàn cầu càng mở rộng, khoa học kỹ thuật phát triển đòi hỏi phải có nguồn vốn khổng lồ vượt qua khỏi khả năng của một chủ thể. Vì vậy hình thức góp vốn là rất cần thiết. Đặc biệt là hình thức cổ đông, đồng sở hữu, hình tức bán cổ phiếu có các nhà tư bản lớn, tư bản nhỏ, và các công nhân cùng tham gia để thu hút vốn đầu tư trong xã hội, kể cả nguồn vố nhàn rỗi, cũng để thu hút sự quan tâm hơn của người lao động đối với công ty.
Đối tượng sở hữu:
Bên cạnh đó đối tượng sở hữu cũng có sự biến đổi. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, đối tượng sở hữu không còn bị hạn chế trong việc sở hữu tư liệu sản xuất( hiện vật) mà còn sở hữu về mặt giá trị đặc biệt là sở hữu trí tuệ có vai trò đặc biệt quan trọng. Vì chính giá trị sinh ra mọi của cải của xã hội.
Hình thức sở hữu:
Cùng với sự thay đổi của chủ sở hữu và đối tượng sở hữu thì hình thức sở hữu cũng có nhiều thay đổi. Nó là một đặc trưng rất cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Sở hữu tư nhân bao gồm: sở hữu tư bản tư nhân và sở hữu của nhà sản xuất nhỏ. Trong đó hình thức sở hữu tư bản tư nhân giữ địa vị thống trị trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên hình thức này đã có sự biến đổi lớn, đặc biệt là tính độc lập tương đối trong hình thức sở hữu tư nhân thuần tuý đã bị mất dần và thay vào đó là hình thức sở hữu hỗn hợp gồm có sở hữu tập đoàn tư nhân, sở hữu xã hội và sở hữu tập thể cũng như sở hữu liên hợp giữa nhà nước và các nhà tư bản.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các nhà tư bản lớn đã từng bước thôn tính các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lôi cuốn chúng vào một quỹ đạo dưới những hình thức khác nhau theo chế độ tham dự. Giữa các doanh nghiệp thành viên này có những mối liên hệ ở mức độ khác nhau, theo những chức năng riêng. Như ở Mỹ có một công ty hàng đầu về điện dân dụng là công ty General- Electric, có khoảng 3200 xí nghiệp thành viên, thực hiện những chức năng ,nhiệm vụ khác nhau.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, độc quyền nhà nước đã ra đời tồn tại cùng với độc quyền tư nhân. Hình thức sở hữu độc quyền cũng đã có sự biến đổi, nó không còn là độc quyền thuần túy mà ở các dạng hỗn hợp dưới các hình thức sở hữu tư bản tài chính, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, các công ty xuyên quốc gia.
Sở hữu tư bản tà chính:
Sở hữu tư bản tài chính là hình thức sở hữu hỗn hợp tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đưa tới. Ngày nay, tư bản tài chính đã có sự thay đổi về mặt cơ cấu, cách thức huy động vốn và ngày càng mang tính quốc tế hoá cao. Tư bản tài chính đã lôi cuốn hầu như toàn bộ tư bản ở các ngành sản xuất, lưu thông vào cơ cấu tổ chức của mình, hình thành nên một cơ cấu mang tính hỗn hợp. Cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong ngân hàng thì hình thức phi ngân hàng cũng đã tăng lên trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ như thành lập các công ty cổ phần kinh doanh tiền tệ, thị trường tư bản cho vay và chứng khoán để thu hút tiền tiết kiệm, việc cấp vốn của nhà nước, doanh nghiệp, dân cư. Quan hệ sở hữu cổ phần của tư bản tài chính ngày càng được sử dụng rộng rãi, làm cho cổ phần của các nhà tư bản cá biệt thành nhà tư bản hỗn hợp, sở hữu của cá nhân tư bản thành sở hữu của nhà tư bảnn hỗn hợp, ồng thời nâng cao tính quốc tế hoá.
Sở hữu độc quyền Nhà nước:
Bên cạnh đó, hình thức sở hữu độc quyền Nhà nước là một hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền. Nó được hình thành thông qua nhiều con đường khác nhau như quốc hữu hoá, xây dựng mới, mua lại, một phần xí nghiệp tư bản…vốn của nó cũng được tạo từ nhiều con đườn khác nhau như thuế,công tráI,tiết kiệm,tích luỹ...Tuy nhiên sở hữu độc quyền nhà nước là một công cụ có vị trí trọng yếu để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sở hữu tư bản tư nhân tự do phát triển.Đây là hình thức phù hợp với tính chất xã hội hoá của sản xuất, là hình thức giải quyết mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với hình thức chiếm hữu hoá tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Các công ty xuyên quốc gia:
Do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất ngày càng mạnh, cùng với những điều kiện quốc tế hoá sản xuất, các tổ chức độc quyền quốc gia đã vượt ra khỏi giới hạn quốc gia trở thành các công ty xuyên quốc gia. Thông qua con đường này các công ty xuyên quốc gia ngày càng thâu tóm nhiều tư liệu sản xuất, vốn, trí tuệ quốc tế, tạo ra nhiều hình thức mang tính quốc tế hoá. Hơn nữa, các công ty này khi ra khỏi quốc gia đã thực hiện liên kết với nhau, góp vốn để thu hút được kỹ thuật mới, kinh nghiệm, cũng như năng lực làm việc. Hiện nay đã có khoảng 70% xí nghiệp liên doanh góp vốn với tỷ lệ khác nhau. Khi xu hướng quốc tế hoá ngày càng cao thì hình thúc sở hữu độc quyền xuyên quốc gia là hình thức sở hữu hỗn hợp và đã được quốc tế hoá càng cao.
Ngày nay, khi khoa học công nghệ càng lên cao, lực lượng sản xuất cang phát triển thì các hình thức quan hệ sở hữu cũng thay đổi, ngày càng được quốc tế hoá để phù hợp với lực lượng sản xuất.
3. Hình thức quản lý
3.1. Hình thức quản lý tư bản chủ nghĩa
Hình thức quản lý tư bản chủ nghĩa là hình thức nhằm điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người để phù hợp với lực lượng sản xuất.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là mặt biến đổi quan trọng trong quan hệ quản lý và là đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa tư bản đương đại. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước chính là sản phẩm của sự phát triển hợp logic của độc quyền trong điều kiện tích tụ và tập trung sản xuất cao độ, là sự dung hợp giữa nhà nước tư sản và các tổ chức độc quyền, hình thành một cơ cấu thống nhất, hoạt động theo cơ chế nhất định nhằm bảo vệ sự tồn tại và lợi ích của giai cấp tư sản, trước hết là của các tổ chức tư bản độc quyền.
3.2. Biến đổi trong hình thức quản lý
Cùng với những biến đổi về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức và cơ chế quản lý cũng có sự biến đổi theo.
Tổ chức quản lý:
Tổ chức quản lý trong nền kinh tế tư bản hiên đại diễn ra trong lĩnh vực vi mô, vĩ mô và cũng có những biến đổi từ trong các công ty, xí nghiệp đến hoạt động quản lý của Nhà nước tư sản. Từ khi khoa học kỹ thuật phát triển thì nhiều thiết bị hiện đại ra đời như máy tính điện tử, các hệ thống sản xuất linh hoạt, các thiết bị điều khiển từ xa đã góp phần vào quá trình quản lý sản xuất được thuận lợi và dễ dàng hơn đáp ứng thị hiếu ngày càng đa dạng của khách hàng, đa dạng hoá các sản phẩm với phương châm nhỏ, đẹp và bền. Hình thức quản lý từ xa được sử dụng rộng rãi, tạo điều kiện cho quá trình phân tán sản xuất nhỏ và vừa trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Mặt khác, nền kinh tế ngày càng được quốc tế hoá, mang tính chất toàn cầu nên quá trình quản lý cũng được toàn cầu hoá. Việc quản lý trong quá trình sản xuất và hoạt động trong nền kinh tế cũng như trong quản lý xã hội từ mô hình đại trà, cồng kềnh chuyển sang kiểu sản xuất nhỏ và linh hoạt, mạng lưới liên kết chặt chẽ và nhạy bén hơn.
Mô hình quản lý:
Mô hình quản lý của thể chế này có hai loại, theo quá trình nằm ngang và theo kiểu “tế bào sản xuất”. Quá trình chuyển từ mô hình liên kết dọc sang liên kết ngang đã cắt giảm hàng loạt nhân viên quản lý trung gian, xoá bỏ một số ngành chức năng, nhưng đồng thời lập ra “chủ quản thông tin” hoặc “giám đốc tri thức” để tăng cường thông tin và nghiên cứu khoa học. Mặt khác cũng dựa vào kỹ năng, chuyên môn của công nhân để phân thành “tế bào sản xuất” có thể chế tạo, kiểm tra và hoàn thàn toàn bộ sản phẩm. Đây là một quá trình thu hẹp nhưng linh hoạt đáp ứng nhanh những biến động, đòi hỏi của thị trường. Bên cạnh đấy, mối quan hệ giữa xí nghiệp và công nhân đã có những biến đổi. Công nhân đã được tham gia vào quá trình quản lý, như ở Đức một số công ty có khoảng hơn 2000 người làm thuê thì công nhân được nữa số ghế trong họi đồng giám đốc. Vai trò của công nhân là người làm thuê được dần tăng cường ý thức làm chủ và đồng thời gắn lợi ích của người lao động với tế bào, với tổ chức,nhờ đó họ phát huy được tính chủ động, sáng tạo và có trách nhiệm hơn trong công việc. Bên cạnh mô hình quản lý của các xí nghiệp, công ty thì vai trò của tư bản tàI chính và Nhà nước tư sản trong quá trình quản lý cũng rất to lớn. Nhất là quản lý theo chế độ tham dự đang được mở rộng trong các tổ chức kiểm soát doanh nghiệp của Nhà nước tạo ra môi trường cho mỗi công nhân, cá nhân nói lên những quan tâm và nguyện vọng của mình. Đặc biệt sự ra đời của tư bản tài chính Nhà nước không những tăng cường sức mạnh cho tư bản tài chính mà còn đảm bảo cho hiệu lực quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường ngày càng cao.
Việc thay đổi trong quản lý đã tạo thêm những lợi nhuận cho các công ty,như theo thông kê năm 1996 có 18 trong 20 công ty đứng đầu bảng lợi nhuận tăng ít nhất là 10-20%, nhiều là 40-60%.
4. Biến đổi trong hình thức phân phối
4.1. Hình thức phân phối
Phân phối là một giai đoạn trong quá trình tái sản xuất, nó là một khâu trung gian tác động mạnh mẽ đến sản xuất và tiêu dùng. Hình thức của nó là hình thức phân chia các yếu tố sản xuất và sản phẩm cho các cá nhân tiêu dùng. Trong đó, phân phối cho sản xuất là sự phân chia các yếu tố sản xuất: tư liệu sản xuất và người lao động cho các ngành, các đơn vị sản xuất khác nhau để tạo ra sản phẩm. Còn phân phối tiêu dùng là sự phân chia sản phẩm cho các cá nhân tiêu dùng theo tỷ lệ đóng góp của họ vào việc tạo ra sản phẩm. Nó là kết quả trực tiếp của sản xuất, ta có thể phân phối những cái đã được sản xuất tạo ra.
Hình thức phân phối chịu sự tác động của sản xuất. Tuy nhiên nó cũng tác động lại sản xuất. Nếu hình thức phân phối phù hợp thì nó sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, ngược lại nếu không phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
4.2. Sự thay đổi trong hình thức phân phối
Trong giai đoạn trước của chủ nghĩa tư bản, quá trình phân phối lợi ích kinh tế là theo tỷ lệ của khối lượng tư bản và khối lượng sức lao động mà các chủ thể bỏ ra. Những người nắm trong tay lượng tư bản lớn sẽ quyết định phân phối và chiếm lợi ích cao. Những người bán sức lao động thu được một phần rất nhỏ so với giá trị sức lao động mà mình bỏ ra thì ngày càng nghèo đi, còn những người không có khả năng bán sức lao động thì bị gạt ra ngoài xã hội. Do vậy xã hội tư bản đã tạo ra sự chênh lệch rõ rệt giữa người giàu và người nghèo. Người giàu thì ngày càng giàu, người nghèo thì ngày càng nghèo đi. Nhưng trong xã hội đại bộ phận là người nghèo, bộ phận tiêu dùng chủ yếu quyết định khối lượng cầu trong xã hội đã làm cho mất cân đối giữa tiêu dùng và sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản với vai trò của Nhà nước, tư bản độc quyền đã thực hiện sự điều chỉnh phân phối lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế. Và chủ yếu là giữa người lao động và nhà tư bản,sự phân phối chủ yếu đã chú ý tới người lao động và được coi là nguồn lực chủ yếu của sự phát triển xã hội. Với việc nâng cao tiêu dùng, tăng đầu tư để nâng cao tiền lương và cải thiện đời sống của công nhân đã làm dịu đi một phần mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản đồng thời cũng làm tăng lợi nhuận của các nhà tư bản. Như ở một số nước phát triển, giá tiêu dùng và tiền luơng giờ công nhân ngành chế tạo tăng rõ rệt, ở Mỹ tăng tương ứng 4,5 và 9,5 lần; Nhật Bản tăng 3,5 và 51,4 lần(từ năm 1960-1990)…Bên cạnh đấy, Nhà nước còn tác động vào thị trường sức lao động bằng luật lao động, điều chỉnh nguồn cung cấp về số lượng và chất lượng, nhu cầu sử dụng sức lao động kích thích mở rộng sản xuất và tạo việc làm cho đội ngũ cán bộ bị sa thải, đặc biệt là Nhà nước đã có những chính sách trợ cấp thất nghiệp cho những người không có khả năng lao động hoặc chưa tìm được việc làm. Những thay đổi này đã nâng cao đời sống của công nhân, và thu nhâp của doanh nghiệp, như ở Đức trong năm 1980-1989 thu nhập tiền lương của người lao động làm thuê tăng bình quân hàng năm là 3,7%; thu nhập kinh doanh xí nghiệp tài sản bình quân hàng năm tăng 7,4%.
Ngày nay trong quá trình vận động của xã hội, sự thay đổi của tư liệu sản xuất và quan hệ sản xuất đã và đang làm thay đổi bộ mặt của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã nâng lên một tầm cao mới.
III- Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện nay
1. Khái niệm và vai trò
Khái niệm:
Sự điều tiết chính là việc Nhà nước áp đặt những quy chế của mình nhằm hướng dẫn, hạn chế, thay đổi hành vi kinh tế của chủ thể sản xuất và kinh doanh cho phù hợp với những hoạt động chung. Hệ thống điều tiết của Nhà nước tư sản hình thành một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của Nhà nước. Bộ máy đó bao gồm cơ quan lập pháp,hành pháp, tư pháp và có sự tham gia của những đại biểu của tập đoàn lớn và các quan chức Nhà nước về mặt nhân sự. Sự điều tiết này được thực hiện dưới nhiều hình thức như:hướng dẫn,kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ hành chính-pháp lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt bằng các công cụ hành chính pháp luật, chính sách và các đòn bẩy kinh tế như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ-tín dụng, các doanh nghiệp Nhà nước…để thực hiện những hoạch định đã đạt được.
Vai trò:
Vai trò điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản trong tiến trình vận động và phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết. Nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế của các nước tham chiến bị suy yếu (trừ Mỹ), cùng với những biến động về chính trị, xã hội luôn diễn ra đặc biệt là khủng hoảng,thất nghiệp,mâu thuẫn xã hội và những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học-công nghệ và bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất, hàng loạt ngành nghề mới ra đời đòi hỏi có sự định hướng, và có khoản đầu tư lớn và rủi ro cao,lợi nhuận thấp như viêc nghiên cứu khoa học, kết cấu hạ tầng.Và ngày nay, khi quốc tế hoá và toàn cầu hoá được mở rộng thì sự can thiệp của Nhà nước tư sản là không thể thiếu. Trong đó, chính sách kinh tế của Nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét nhất sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. Và Vai trò kinh tế và phương thức điều tiết nền kinh tế thị trường hiện đại của nó lại có những nét độc đáo và là đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
2. Sự điều tiết
Hệ thống điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản chủ nghĩa hiện đại có cấu trúc phức tạp, tinh vi và hoạt động nhanh nhạy, được hình thành và hoàn thiện do mối tương tác khách quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự thay đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã kéo theo sự thay đổi của sự điều tiết của Nhà nước.
Cơ chế điều tiết của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là sự kết hợp giữa các cơ chế độc quyền và cạnh tranh:
Trong chủ nghĩa tư bản ngày nay, cơ chế kinh tế được biểu hiện qua ba hình thức:cơ chế cạnh tranh tự do, cơ chế độc quyền tư nhân và cơ chế độc quyền Nhà nước.Trong đó cơ chế tự do cạnh tranh được hình thành ngay trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất chủ nghĩa tư bản. Trong thị trường tự do cạnh tranh, cơ chế thị trường đã tác động vào quá trình tái sản xuất xã hội, tạo ra sự vận động của nền kinh tế bằng cách liên tục phá vở và tự xác lập sự cân đối giữa các yếu tố chất lượng và số lượng một các tự phát trong nền kinh tế. Ngay trong nền kinh té tư bản hiện đại cơ chế thị trường với nhiều liên hệ kinh tế tinh tế, phức tạp giữa các chủ thể và ngay trong trung tâm này là sự cạnh tranh quyết liệt cả từ phía người sản xuất lẫn phía người tiêu dùng nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao,từ đó tạo ra động lực thúc đẩy nền kinh tế vận động và phát triển. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế gây ra những đổ vỡ to lớn đẩy nền sản xuất tới trạng thái trì trệ và khủng hoảng. Vì thế cơ chế điều chỉnh độc quyền với độc quyền tư nhân và độc quyền Nhà nước là một khách quan. Nó tạo ra những tổ chức mới nổi bật là độc quyền tư bản tài chính cùng với những công cụ mạnh, chủ động điều chỉnh hành vi sản xuất,kinh doanh của các chủ thể dựa trên những nguyên tắc mới:hạn chế sự quan liêu hoá bằng cách xem lại hệ thống luật kinh tế,đơn giản hoá thủ tục, xây dựng điều luật phù hợp với cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; nới lỏng sự điều tiết của Nhà nước để tránh hạn chế sự cạnh tranh trên thị trường; xác định những ưu tiên, trợ cấp của Nhà nước đối với một số doanh nghiệp; tăng cường phối hợp chính sách kinh tế với các chính sách xã hội …Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh, không thủ tiêu cạnh tranh mà còn làm cho sức mạnh cạnh tranh lên cao hơn.
Nhà nước điều tiết kinh tế ở lĩnh vực vĩ mô và ngày càng linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn, phạm vi rộng hơn:
Với sự kết hợp của cả ba cơ chế: cơ chế thị trường, cơ chế độc quyền tư nhân và cơ chế độc quyền Nhà nước, Nhà nước điều tiết kinh tế ở lĩnh vực vĩ mô với mức độ tác động khác nhau tới các yếu tố cung-cầu,giá trị, giá cả trong thời gian, không gian nhất định và duy trì việc tổ chức có kế hoạch. Nhà nước điều tiết cơ cấu kinh tế bằng quan hệ thị trường thông qua hợp đồng đồng thời hỗ trợ các ngành truyền thống cần được tiếp tục duy trì và những ngành mũi nhọn với công nghiệp; điều tiết tiến bộ khoa học bằng tăng chi ngân sách cho nghiên cứu và phát triển, đề xuất các hướng ưu tiên phát triển công nghệ, tài trợ cho nghiên cứu ứng dụng của các công ty tư nhân, điều tiết thị trường lao động bằng cách đào tạo và đào tạo lại, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để thu hút người thất nghiệp; điều tiết thị trường tài chính,tiền tệ,chống lạm phát,tiền tệ quốc tế…
Bên cạnh đó, năng lực điều tiết kinh tế xã hội của Nhà nước tăng lên rõ rệt do vai trò mới như người tổ chức đời sống kinh tế-xã hội ở các nước tư bản:
Nhà nước là nơi đưa ra các hoạch định chính sách, phương hướng phát triển cho xã hội và nền kinh tế, đưa nền kinh tế phát triển phù hợp với phát triển của xã hội.Nhà nước tích cực thoả mãn đòi hỏi của sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội đối với cơ cấu hạ tầng hiện đại, đảm bảo cho tái sản xuất xã hội vận hành bình thường theo hướng mở rộng không ngừng, và góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ. Nhà nước không những bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị mà còn quan tâm hơn đến đời sống công nhân với những trợ cấp,chính sách, và luật lệ và xoa dịu bớt mâu thuẫn trong xã hội, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản và duy trì đời sống ổn định kinh tế-xã hội.
Hiện nay, trong thời kỳ tư bản hiện đại khi mà khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bảo, mối quan hệ trong nước cũng như ngoài nước càng trở nên phức tạp, trong xã hội có nhiều mâu thuẫn nảy sinh thì vai trò của Nhà nước tư bản chủ nghĩa càng quan trọng và không thể thiếu.
IV- Sự biến đổi trong hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa hiện nay
1. Hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa
Hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa là toàn bộ các quan hệ kinh tế quốc tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền, là tổng thể các mối liên hệ kinh tế giữa các nền kinh tế quốc dân của từng nước tư bản chủ nghĩa và nước phụ thuộc.
Hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới được hình thành cùng với quá trình chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế,các nước ngày càng lệ thuộc vào nhau, sự giao lưu tư bản,trao đổi mậu dịch ngày càng phong phú, cũng như ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhau bởi sự phân công lao động quốc tế, thương mại, tài chính tiền tệ. Sự phát triển của hệ thống thông tin hiện đại,đặc biệt là kỹ thuật thông tin vi điện tử, và sự phát triển của giao thông vận tải đã tạo điều kiện cho hợp tác quốc tế, càng làm tăng quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và đời sống của các dân tộc. Việc dịch chuyển vốn ra ngoài, sự chuyển giao công nghệ, quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế và di chuyển lao động mang tích quốc tế cao, ngày càng vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia càng làm nổi bật tính thống nhất của nền sản xuất thế giới cũng như hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới. Và ngày nay hệ thống đó đã có nhiều thay đổi.
2. Sự biến đổi của của hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa
Ngày nay, hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa đã có nhiều biến đổi so với giai đoạn độc quyền.
Sự phát triển không đồng đều giữa các bộ phận cấu thành nên hệ thống:
Mỗi nước tư bản chủ nghĩa trong hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa có những đặc điểm riêng, chịu sự tác động khác nhau của các quy luật nên có phương hướng, nhịp độ phát triển khác nhau thể hiện rõ ở các nước phát triển đặc biệt là nước Mỹ, Nhật Bản, các nước Tây Âu và các nước đang phát triển. Sau chiến tranh thế giới thứ hai do thu được nhiều lợi nhuận nên nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh, đứng đầu thế giới về sức mạnh kinh tế, còn Nhật Bản thì sau chiến tranh chịu thiệt hại nặng nề. Tuy nhiên, càng về sau thì Mỹ gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng không ổn định,như vào năm 1980: 4,4%; năm 1989:3%; năm 1991:0,9%; năm 1992:2,7%; năm 1998: 3,9%; năm 1999:3,3%... và rơi vào các cuộc khủng hoảng năm 1974-1975, năm 1990-1991. Còn Nhật Bản thì giai đoạn 1952-1973 bước vào giai đoạn phát triển thần kỳ, nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ rất nhanh chóng, so với năm 1950 đến năm 1973 giá trị tổng sản phẩm trong nước tăng 20 lần, các ngành công nghiệp then chốt tăng lên với nhịp độ rất nhanh. Tuy nhiên trong những năm gần đây, Nhật Bản có những bước trao đảo và bị ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng tài chính năm 1992 và năm 1997. Bên cạnh đấy, các nước Tây Âu cũng có những bước phát triển mới, tuy hiện nay đang đứng trước những khó khăn, như thất nghiệp, mâu thuẫn nội bộ trong khu vực đã làm chậm bước tiến của nó, xong dự báo trong tương lai Tây Âu sẽ có sự phát triển nhanh.
Tuy trong thế giới tư bản chủ nghĩa ngày nay không còn phân chia ra chính quốc và thuộc địa, nhưng vẫn còn phân chia thành những nhóm nước phát triển cao như nhóm G7, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế gồm 25 nước và các nước đang phát triển lạc hậu. Bên cạnh sự phát triển của các nước tư bản phát triển thì các nước đang phát triển có một số nước phát triển nhanh như nhóm NICs cho đén nay đang phát triển với tốc độ tăng trưởng cao 7-8%,tỷ trọng công nghiệp chiếm trên 50% GDP; Xong về tổng thể vẫn còn trong tình trạng lạc hậu so vơí các nước tư bản phát triển, như theo thống kê năm 1991 trong tổng sản phẩm quốc dân của hơn 160 quốc gia trên thế giới, riêng 7 nước tư bản phát triển chiếm gần 70%, trong khi các nước đang phát triển chỉ chiến khoảng 15%; Mặc dù các nước này chiếm 31,2% dầu mỏ và khí thiên nhiên được khai thác nhưng chỉ chiếm có 7,5% sản phẩm hoá dầu và hoá chất quan trọng…Do xuất phát từ những điểm khác nhau, hoàn cảnh, bước đi khác nên nền kinh tế các nước trong hệ thống tư bản chủ nghĩa có sự phát triển không đồng đều. Sự phát triển không đồng đều của nền kinh tế cũng kéo theo sự khác nhau về đời sống chính trị-xã hội.
Sự hình thành trung tâm kinh tế thế giới và các công ty độc quyền xuyên quốc gia:
Do sự phát triển không đồng đều giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống tư bản chủ nghĩa đã dẫn đến hình thành các trung tâm kinh tế thế giới. Trước đây,khi nền kinh tế Mỹ có sức mạnh kinh tế đứng đầu thế giới và là trung tâm kinh tế duy nhất. Xong, cuối thập kỷ 80 nền kinh tế Mỹ suy giảm và các nước tư bản khác cũng phát triển đã tạo nên nhiều trung tâm ở nhiều khu vực khác nhau như Nhật Bản, Đức. Tuy nhiên Mỹ vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự hình thành nên trung tâm kinh tế thế giới tạo điều kiện cho các nước có quan hệ gắn bó với nhau, buôn bán, trao đổi thông qua trung tâm kinh tế. Song cũng nảy sinh những mâu thuẫn và bất đồng phức tạp hơn do sự cạnh tranh để giành vị trí xứng đáng của mình. Ngày nay, ngay cả trong nội bộ hệ thống tư bản thế giới có nhiều mâu thuẫn nội bộ. Và điều này làm cho xu hướng tăng cường quân sự hoá trong thời kỳ “hậu chiếu tranh lạnh”nhằm phát triển vũ khí quân sự, thiết bị quốc phòng. Điều này đã tạo cơ hội cho các nước sản xuất vũ khí chiến tranh thu được những khoản lợi nhuận cao, xong nó lại đang là nguy cơ đe dọa môi trường sinh thái cũng như đời sống con người.
Cùng với sự hình thành của trung tâm kinh tế thế giới thì các công ty xuyên quốc gia cũng đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế. Hiện nay, trong nền kinh tế thế giới đã có khoảng 60000 công ty xuyên quốc gia thực thụ với khoảng 500000 chi nhánh nước ngoài. Đây là bộ phận cấu thành năng động, là quá trình quốc tế hoá và tư bản, đồng thời nó đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá và mở rộng hệ thống tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên nó cũng làm gay gắt thêm mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới .
Ngày nay, hệ thống tư bản chủ nghĩa trên thế giới rộng, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của các nước cấu thành. Tuy nhiên trong nó cũng mang nhiều mâu thuẫn.
Kết luận
1. Nhận định chung về tư bản chủ nghĩa
Chủ nghĩa tư bản ngày nay là giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc quyền( chủ nghĩa tư bản hiện đại). Dưới tác động của cuộc khoa học và công nghệ, sự phát triển như vũ bảo của lực lượng sản xuất đã kéo theo sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Cùng với quá trình quản lý mới, đặc biệt là của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước thì chủ nghĩa tư bản đang trên đà phát triển và có những thay đổi đáng kể. Độc quyền vẫn là hình thái vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa song đã có sự phát triển lên nấc thang mới và có tính quốc tế.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại chỉ thay đổi về hình thức còn bản chất không thay đổi:
Ngày nay, dưới phương thức,tổ chức sản xuất cũng như tổ chức xã hội mới,các nhà tư sản, chủ doanh nghiệp,nhà nước tư sản đã quan tâm hơn tới đời sống công nhân. Tuy có thay đổi về hình thức tổ chức xong bản chất vẫn không thay đổi. Cái mà chủ nghĩa tư bản quan tâm vẫn là lợi nhuận,giá trị thặng dư bóc lột từ sức lao động của người công nhân ngày càng tinh vi hơn. Họ tạo điều kiện để người công nhân phát huy hết khả năng của mình, họ gắn lợi ích của người công nhân vào với doanh nghiệp để tạo cho người công nhân làm việc nhiệt tình và hăng hái. Mặc dù tiền lương, tiền công trả cho người công nhân có tăng lên, xong vẫn không cao bằng lợi nhuận mà các nhà tư bản thu vào. Bên cạnh đấy, phía trong của việchợp tác, quan hệ quốc tế, đầu tư mở rộng giao lưu ra thị trường thế giới để thúc đẩy nền kinh tế phát triển là nhằm bành trướng và mở rộng hệ thống tư bản chủ nghĩa, tư bản hoá các nước xã hội, như ‘diễn biến hoà bình” của Mỹ, là một trong những chiến lược hết sức tinh vi.
Những mâu thuẫn trong lòng xã hội:
Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhưng vẫn tồn tại nhũng mâu thuẫn trong lòng xã hội: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động biểu hiện trong phân cực giàu nghèo và tình trạng bất công xã hội tăng lên; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc và ngày nay đang chuyển dần thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển bị lệ thuộcvới những nước đế quốc, thành mâu thuẫn giữa các tầng lớp thượng lưu giàu có ở phương Bắc với các nước và tầng lớp nghèo khổ ở phương Nam; mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa ba trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia…Sự tồn tại những phủ định trong lòng xã hội tạo nên sự không ổn định và có xu hướng biến mất thay vào đấy là xã hội xã hội chủ nghĩa cộng sản.
2. Giới hạn của chủ nghĩa tư bản
Sự phân tích những đặc trung kinh tế của chủ nghĩa tư bản ngày nay đã bọc lộ tiềm năng phát triển và sẽ còn tiếp tục phát triển, song chủ nghĩa tư bản ngày nay không tránh khỏi những giới hạn nằm ngay trong bản chất độc quyền.
Sự áp bức bóc lột bất bình đẳng:
Mặc dù ngày nay chủ nghĩa tư bản phát triển lên với nhiều hình thức mới, nhưng vẫn là một chế độ áp bức bóc lột bất bình đẳng giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, giữa những ông chủ và những người làm thuê.ở Mỹ, tệ phân biệt chủng tộc vẫn tồn tại ngang nhiên. Phần lớn da đen bị khinh miệt, rất khó tìm việc làm, phải sống cơ cực.
Tình trạng thất nghiệp:
Khi khoa học công nghệ phát triển, nhất là với nền kinh tế tri thức thì những người công nhân ngày càng được nâng cao trình độ. Bên cạnh đấy máy móc ngày càng được thay thế cho sức lao động của công nhân thì những người không có khả năng bán sức lao động hoặc trình độ thấp thì bị loại ra khỏi xã hội đã tạo ra một lượng thất nghiệp ngày càng tăng.Vào những năm 80-90, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ, Anh, Pháp ở mức từ 7-12%; ở EU là 11%;ở Nhật Bản khoảng 2%,mấy năm gần đây đã tăng lên 3%...
Tệ nạn xã hội:
Trong xã tư bản ngày nay, các tệ nạn xã hội vẫn tồn tại ngang nhiên, như: sự suy đồi văn hoá, xã hội và đạo đức ngày càng trầm trọng, đặc biệt là các nạn mại dâm, ma tuý…đã và đang là một vấn đè nhức nhối. Vấn đề tội ác và bạo lực tràn lan. Tội giết người ở Mỹ tăng nhanh trong thanh niên, nhất là ở tuổi 15-19. Đời sống văn hoá và đạo đức của xã hội tư bản xuống cấp nghiêm trọng, các tệ nạn xã hội trở thành một thách thức gay gắt.
Vấn đề môi trường:
Cùng với quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá, sự phát triển của các ngành công nghiệp thì vấn đề ô nhiễm môi trường đang lên tiếng. Không những môi trường tự nhiên mà cả môi trường xã hội cũng bị ô nhiễm và huỷ hoại. Đời sống của con người và sinh vật đang bị đe doạ. Ngày nay, đây là vấn đề mang tính toàn cầu.
Cùng với những vấn đề xã hội thì trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, với cơ chế thị trường thì xuất hiện các cuộc khủng hoảng kinh tế và tính không ổn định trên nhiều lĩnh vực cũng tác động rất lớn đến nền kinh tế của các nước tư bản.
Khi các nước tư bản càng phát triển, càng tạo ra trong lòng nó những nhân tố tự phủ định làm cho xã hội loài người đang tiến gần hơn tới xã hội mới-xã hội xã hội chủ nghĩa.
3. Liên hệ thực tế với Việt Nam
Đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, xong cần cơ sở vật chất vững chắc, Đảng và Nhà nước đã và đang có chính sách mở cửa, giao lưu học hỏi, đúc rút kinh nghiệm, đồng thời cũng phê phán và loại bỏ những mặt trái.
Chủ nghĩa tư bản mặc dù vẫn có những giới hạn xong không thể phủ nhận những thành tựu của nó. Tại các nước tư bản, đặc biệt là những nước tư bản phát triển là nơi đã và đang tập trung được những nguồn lực phát triển, những thị trường bản địa rộng lớn và những mạng lưới quan hệ quốc tế bao trùm hành tinh đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của chúng ta. Sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá và phát triển bền vững của ta có thể rút ngắn bằng sự khai thác tích cực hơn nữa các nguồn lực, kinh nghiệm đã tích luỹ của họ. Nên quan hệ của chúng ta với các nước tư bản là cần thiết.
Ngày nay, Việt Nam đang dần hội nhập với thế giới, việc nâng cao tay nghề, nhập máy móc thiết bị hiện đại,các công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật công nghệ được nâng cao. Đặc biệt trong nền kinh tế, ngoài những thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa: kinh tế tập thể, kinh tế Nhà nước còn có thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa như: kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…Và từng bước tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là tiến trình chuẩn bị cho gia nhập tổ chức WTO.
Nhân dân ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,mong muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. Do vậy, tăng cường quan hệ với hệ thống kinh tế thế giới, tham gia phân công lao động và cạnh tranh quốc tế đang là đề tài cần làm sáng tỏ. Hiện nay, các nước tư bản chủ nghĩa vẫn đang giữ vị trí chi phối kinh tế thế giới. Trên phương diện chính trị thế giới cũng như kinh tế thế giới, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang chiếm ưu thế. Chúng ta kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh như vậy nên việc hiểu thấu đáo về chủ nghĩa tư bản hiện đại là điều hết sức cần thiết.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam:
- Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7, NXB. Hà Nội: sự thật,1994.
- Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8, NXB. Chính trị quốc gia, 1996.
- Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9, NXB. Chính trị quốc gia, 2001.
2. PGS.TS. Đỗ Lộc Diệp
Chủ nghĩa tư bản ngày nay:mâu thuẫn nội tại, xu thế, triền vọng. Nxb khoa học xã hội, 2003.
Chủ nghĩa tư bản ngày nay:tự điều chỉnh kinh tế. NXB. Khoa hoc xã hội, 1993.
3. Lê Văn Sang:
Chủ nghĩa tư bản hiện đại tập 1-2. NXB. Chính trị quốc gia, 1995.
4. Nguyễn Khắc Thân:
Tập bài giảng về chủ nghĩa tư bản hiện đại. NXB. Chính trị quốc gia, 2002.
5. Giáo trình Kinh tế Chính trị - NXB Chính trị quốc gia
6. Chủ nghĩa Tư bản hiện đại những tìm kiếm mới
7. Chủ nghĩa Tư bản những bất ổn tiềm tàng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35656.doc