Tiểu luận Lazer- Nguyên lý và ứng dụng

I.Lịch sử Laser được phỏng theo maser, một thiết bị có cơ chế tương tự nhưng tạo ra tia vi sóng hơn là các bức xạ ánh sáng. Maser đầu tiên được tạo ra bởi Charles H. Townes và sinh viên tốt nghiệp J.P. Gordon và H.J. Zeiger vào năm 1953. Maser đầu tiên đó không tạo ra tia sóng một cách liên tục. Nikolay Gennadiyevich Basov và Aleksandr Mikhailovich Prokhorov của Liên bang Xô viết đã làm việc độc lập trên lĩnh vực lượng tử dao động và tạo ra hệ thống phóng tia liên tục bằng cách dùng nhiều hơn 2 mức năng lượng. Hệ thống đó có thể phóng ra tia liên tục mà không cho các hạt xuống mức năng lượng bình thường, vì thế vẫn giữ tần suất. Năm 1964, Charles Townes, Nikolai Basov và Aleksandr Prokhorov cùng nhận giải thưởng Nobel vật lý về nền tảng cho lĩnh vực điện tử lượng tử, dẫn đến việc tạo ra máy dao động và phóng đại dựa trên thuyết maser-laser. Laser hồng ngọc, một laser chất rắn, được tạo ra lần đầu tiên vào năm 1960, bởi nhà vật lý Theodore Maiman tại phòng thí nghiệm Hughes Laboratory ở Malibu, California. Hồng ngọc là ôxít nhôm pha lẫn crôm. Crôm hấp thụ tia sáng màu xanh lá cây và xanh lục, để lại duy nhất tia sáng màu hồng phát ra. Robert N. Hall phát triển laser bán dẫn đầu tiên, hay laser diod, năm 1962. Thiết bị của Hall xây dựng trên hệ thống vật liệu gali-aseni và tạo ra tia có bước sóng 850 nanômét, gần vùng quang phổ tia hồng ngoại. Laser bán dẫn đầu tiên với tia phát ra có thể thấy được được trưng bày đầu tiên cùng năm đó. Năm 1970, Zhores Ivanovich Alferov của Liên Xô và Hayashi và Panish của Phòng thí nghiệm Bell đã độc lập phát triển laser diode hoạt động liên tục ở nhiệt độ trong phòng, sử dụng cấu trúc đa kết nối. II. Khái niệm về lazer Laser là tên của những chữ cái đầu của thuật ngữ bằng tiếng Anh “Light Amplification by Stimulated Emission of Radiation ’’ (Sự khuếch đại ánh sáng bằng bức xạ kích hoạt). Laser là nguồn ánh sáng nhân tạo thu được nhờ sự khuếch đại ánh sáng bằng bức xạ phát ra khi kích hoạt cao độ các phần tử của một môi trường vật chất tương ứng. Laser là ánh sáng có nhiều tính chất đặc biệt hơn hẳn ánh sáng tự nhiên hay nhân tạo khác và có những công dụng rất hữu ích có thể áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật và đời sống, tạo nên cả một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật sau khi nó ra đời. Sự ra đời cùa Laser bắt nguồn từ Thuyết Lượng tử do nhà bác học A. Einstein phát minh ra năm 1916. Đến năm 1954, các nhà bác học Anh, Mỹ đã đồng thời sáng chế ra máy phát tia laser ứng dụng vào thực tế. Các thử nghiệm laser trên người bắt đầu từ những năm 1960. Từ năm1964, đã bắt đầu ứng dụng laser trong các trị liệu về Da (chuyên khoa da liễu). 1. Nguyên lý phát sinh LASER: Theo những khái niệm cơ bản của vật lý lượng tử, khi ta chiếu một chùm ánh sáng vào một môi trường vật chất (thuật ngữ vật lý học gọi là hệ vật lý tượng tử) thì chùm ánh sáng sẽ yếu dần đi do bị hấp thu bởi môi trường vật chất. Bản chất quá trình bị hấp thu ấy là các hạt ánh sáng (photon) đã truyền năng lượng kích hoạt các phân tử vật chất “nhảy” từ trạng thái ổn định A lên một trạng thái B với mức năng lượng cao hơn. Vì B là một trạng thái không ổn định, nên sau một thời gian nhất định, các phân tử đang ở mức B lại “nhảy” về mức A và trong lúc “nhảy về” đó nó cũng phát ra một photon mang năng lượng bằng năng lượng nó đã hấp thu, theo kiểu “vay gì trả nấy”. Đó là hiện tượng bức xạ. Tuy nhiên các hạt photon bức xạ này không nhiều, vì nó tỉ lệ với số phân tử có ở mức B, mà số phân tử ở trang thái B bao giờ cũng ít hơn số phân tử ở trạng thái ổn định A. Các photon bức xạ này phát ra theo mọi hướng một cách tự do nên còn gọi nó là bức xạ tự do. Khi ta làm cho các photon tương tác bởi các phân tử ở mức cao B, bắt nó trở về A sớm hơn và phát sinh ra photon, các photon có đồng mức năng lượng và đúng bằng mức năng lượng các photon của nguồn chiếu đã truyền cho nó thì đó là bức xạ kích hoạt. Khi tạo ra bức xạ kích hoạt ở mức độ cao cho các photon bức xạ phát ra liên tục ở mức cao nhất, rồi được chọn lọc và khuyếch đại để chúng phát về cùng một hướng với những tính chất giống nhau ta sẽ thu được chùm sáng laser. Như vậy nguyên lý của máy phát laser chính là làm sao cho nguồn sáng chiếu vào môi trường hoạt chất laser không bị yếu đi để có thể kích hoạt liên tục các phần tử vật chất cho số phân tử ở mức B luôn nhiều hơn ở mức A, như vậy số photon bức xạ sẽ được phát sinh nhiều đến mức tối đa. Khi đó, bằng các thiết bị đặc biệt, nguồn sáng bức xạ này sẽ được chọn lọc và khuyếnh đại để phát ra một chùm ánh sáng đơn sắc, gồm những tia sáng có cùng hướng, có bước sóng gần tương đương và có độ tập trung cao. Đó chính là laser. 2. Cấu tạo máy phát laser, bao gồm các bộ phận chính: - Hoạt chất laser: Là môi trường chứa các hoạt chất có khả năng phát ra bức xạ laser khi được kích hoạt bằng một nguồn năng lượng. - Nguồn nuôi: Là nguồn năng lượng để duy trì hoạt động của môi trường hoạt chất laser, giữ cho hoạt chất luôn luôn ở trạng thái có số phần tử ởø mức B nhiều hơn ở mức A. - Buồng cộng hưởng: Bao gồm 1 gương phản xạ toàn phần và 1 gương bán mờ (độ phản xạ từ 70% đến 99%) Buồng cộng hưởng cho phép nguồn sáng kích thích chất nhiều lần và chùm tia sáng bức xạ sẽ được khuyếch đại và chọn lọc qua gương phản xạ toàn phần và gương mờ cho đến khi ổn định để phát ra chùm sáng laser.

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2049 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lazer- Nguyên lý và ứng dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ giáo dục và đào tạo trường đại học SƯ PHẠM HÀ NỘI tIỂU LUÂN LAZER- NGUYÊN LÝ VÀ ỨNG DỤNG Họ và tên: Lương Thị Hà Khoa: Vật lí Lớp : Ak59 MSSV : 595103019 Hà Nội 2011 I.Lịch sử Laser được phỏng theo maser, một thiết bị có cơ chế tương tự nhưng tạo ra tia vi sóng hơn là các bức xạ ánh sáng. Maser đầu tiên được tạo ra bởi Charles H. Townes và sinh viên tốt nghiệp J.P. Gordon và H.J. Zeiger vào năm 1953. Maser đầu tiên đó không tạo ra tia sóng một cách liên tục. Nikolay Gennadiyevich Basov và Aleksandr Mikhailovich Prokhorov của Liên bang Xô viết đã làm việc độc lập trên lĩnh vực lượng tử dao động và tạo ra hệ thống phóng tia liên tục bằng cách dùng nhiều hơn 2 mức năng lượng. Hệ thống đó có thể phóng ra tia liên tục mà không cho các hạt xuống mức năng lượng bình thường, vì thế vẫn giữ tần suất. Năm 1964, Charles Townes, Nikolai Basov và Aleksandr Prokhorov cùng nhận giải thưởng Nobel vật lý về nền tảng cho lĩnh vực điện tử lượng tử, dẫn đến việc tạo ra máy dao động và phóng đại dựa trên thuyết maser-laser. Laser hồng ngọc, một laser chất rắn, được tạo ra lần đầu tiên vào năm 1960, bởi nhà vật lý Theodore Maiman tại phòng thí nghiệm Hughes Laboratory ở Malibu, California. Hồng ngọc là ôxít nhôm pha lẫn crôm. Crôm hấp thụ tia sáng màu xanh lá cây và xanh lục, để lại duy nhất tia sáng màu hồng phát ra. Robert N. Hall phát triển laser bán dẫn đầu tiên, hay laser diod, năm 1962. Thiết bị của Hall xây dựng trên hệ thống vật liệu gali-aseni và tạo ra tia có bước sóng 850 nanômét, gần vùng quang phổ tia hồng ngoại. Laser bán dẫn đầu tiên với tia phát ra có thể thấy được được trưng bày đầu tiên cùng năm đó. Năm 1970, Zhores Ivanovich Alferov của Liên Xô và Hayashi và Panish của Phòng thí nghiệm Bell đã độc lập phát triển laser diode hoạt động liên tục ở nhiệt độ trong phòng, sử dụng cấu trúc đa kết nối. II. Khái niệm về lazer Laser là tên của những chữ cái đầu của thuật ngữ bằng tiếng Anh “Light Amplification by Stimulated Emission of Radiation ’’ (Sự khuếch đại ánh sáng bằng bức xạ kích hoạt). Laser là nguồn ánh sáng nhân tạo thu được nhờ sự khuếch đại ánh sáng bằng bức xạ phát ra khi kích hoạt cao độ các phần tử của một môi trường vật chất tương ứng. Laser là ánh sáng có nhiều tính chất đặc biệt hơn hẳn ánh sáng tự nhiên hay nhân tạo khác và có những công dụng rất hữu ích có thể áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật và đời sống, tạo nên cả một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật sau khi nó ra đời. Sự ra đời cùa Laser bắt nguồn từ Thuyết Lượng tử do nhà bác học A. Einstein phát minh ra năm 1916. Đến năm 1954, các nhà bác học Anh, Mỹ đã đồng thời sáng chế ra máy phát tia laser ứng dụng vào thực tế. Các thử nghiệm laser trên người bắt đầu từ những năm 1960. Từ năm1964, đã bắt đầu ứng dụng laser trong các trị liệu về Da (chuyên khoa da liễu). 1. Nguyên lý phát sinh LASER: Theo những khái niệm cơ bản của vật lý lượng tử, khi ta chiếu một chùm ánh sáng vào một môi trường vật chất (thuật ngữ vật lý học gọi là hệ vật lý tượng tử) thì chùm ánh sáng sẽ yếu dần đi do bị hấp thu bởi môi trường vật chất. Bản chất quá trình bị hấp thu ấy là các hạt ánh sáng (photon) đã truyền năng lượng kích hoạt các phân tử vật chất “nhảy” từ trạng thái ổn định A lên một trạng thái B  với mức năng lượng cao hơn. Vì B là một trạng thái không ổn định, nên sau một thời gian nhất định, các phân tử đang ở mức B lại “nhảy” về mức A và trong lúc “nhảy về” đó nó cũng phát ra một photon mang năng lượng bằng năng lượng nó đã hấp thu, theo kiểu “vay gì trả nấy”. Đó là hiện tượng bức xạ. Tuy nhiên các hạt photon bức xạ này không nhiều, vì nó tỉ lệ với số phân tử có ở mức B, mà số phân tử ở trang thái B bao giờ cũng ít hơn số phân tử ở trạng thái ổn định A. Các photon bức xạ này phát ra theo mọi hướng một cách tự do nên còn gọi nó là bức xạ tự do.   Khi ta làm cho các photon tương tác bởi các phân tử ở mức cao B, bắt nó trở về A sớm hơn và phát sinh ra photon, các photon có đồng mức năng lượng và đúng bằng mức năng lượng các photon của nguồn chiếu đã truyền cho nó thì đó là bức xạ kích hoạt.   Khi tạo ra bức xạ kích hoạt ở mức độ cao cho các photon bức xạ phát ra liên tục ở mức cao nhất, rồi được chọn lọc và khuyếch đại để chúng phát về cùng một hướng với những tính chất giống nhau ta sẽ thu được chùm sáng laser. Như vậy nguyên lý của máy phát laser chính là làm sao cho nguồn sáng chiếu vào môi trường hoạt chất laser không bị yếu đi để có thể kích hoạt liên tục các phần tử vật chất cho số phân tử ở mức B luôn nhiều hơn ở mức A, như vậy số photon bức xạ sẽ được phát sinh nhiều đến mức tối đa. Khi đó, bằng các thiết bị đặc biệt, nguồn sáng bức xạ này sẽ được chọn lọc và khuyếnh đại để phát ra một chùm ánh sáng đơn sắc, gồm những tia sáng có cùng hướng, có bước sóng gần tương đương và có độ tập trung cao. Đó chính là laser. 2. Cấu tạo máy phát laser, bao gồm các bộ phận chính: - Hoạt chất laser: Là môi trường chứa các hoạt chất có khả năng phát ra bức xạ laser khi được kích hoạt bằng một nguồn năng lượng. - Nguồn nuôi: Là nguồn năng lượng để duy trì hoạt động của môi trường hoạt chất laser, giữ cho hoạt chất luôn luôn ở trạng thái có số phần tử ởø mức B nhiều hơn ở mức A. - Buồng cộng hưởng: Bao gồm 1 gương phản xạ toàn phần và 1 gương bán mờ (độ phản xạ từ 70% đến 99%) Buồng cộng hưởng cho phép nguồn sáng kích thích chất nhiều lần và chùm tia sáng bức xạ sẽ được khuyếch đại và chọn lọc qua gương phản xạ toàn phần và gương mờ cho đến khi ổn định để phát ra chùm sáng laser. Cấu tạo cơ bản và cơ chế hoạt động của laser. 1) Buồng cộng hưởng (vùng bị kích thích) 2) Nguồn nuôi (năng lượng bơm vào vùng bị kích thích) 3) gương phản xạ toàn phần 4) gương bán mạ 5) tia laser III. Cơ chế Một ví dụ về cơ chế hoạt động của laser có thể được miêu tả cho laser thạch anh. Dưới sự tác động của hiệu điện thế cao, các electron của thạch anh di chuyển từ mức năng lượng thấp lên mức năng lương cao tạo nên trạng thái đảo nghịch mật độ của electron. Ở mức năng lượng cao, một số electron sẽ rơi ngẫu nhiên xuống mức năng lượng thấp, giải phóng hạt ánh sáng được gọi là photon. Các hạt photon này sẽ toả ra nhiều hướng khác nhau từ một nguyên tử, va phải các nguyên tử khác, kích thích eletron ở các nguyên tử này rơi xuống tiếp, sinh thêm các photon cùng tần số, cùng pha và cùng hướng bay, tạo nên một phản ứng dây chuyền khuyếch đại dòng ánh sáng. Các hạt photon bị phản xạ qua lại nhiều lần trong vật liệu, nhờ các gương để tăng hiệu suất khuếch đại ánh sáng. Một số photon ra ngoài nhờ có gương bán mạ tại một đầu của vật liệu. Tia sáng đi ra chính là tia laser. IV. Phân loại laser:   Tùy theo loại hoạt chất laser ta sẽ thu được các tia laser với tên gọi khác nhau: Laser chất rắn Có khoảng 200 chất rắn có khả năng dùng làm môi trường hoạt chất laser. Một số loại laser chất rắn thông dụng: YAG-Neodym: hoạt chất là Yttrium Aluminium Garnet (YAG) cộng thêm 2-5% Neodym, có bước sóng 1060nm thuộc phổ hồng ngoại gần. Có thể phát liên tục tới 100W hoặc phát xung với tần số 1000-10000Hz. Hồng ngọc (Rubi): hoạt chất là tinh thể Alluminium có gắn những ion chrom, có bước sóng 694,3nm thuộc vùng đỏ của ánh sáng trắng. Bán dẫn: loại thông dụng nhất là diot Gallium Arsen có bước sóng 890nm thuộc phổ hồng ngoại gần. Laser chất khí He-Ne: hoạt chất là khí Heli và Neon, có bước sóng 632,8nm thuộc phổ ánh sáng đỏ trong vùng nhìn thấy, công suất nhỏ từ một đến vài chục mW. Argon: hoạt chất là khí argon, bước sóng 488 và 514,5nm. CO2: bước sóng 10.600nm thuộc phổ hồng ngoại xa, công suất phát xạ có thể tới megawatt (MW). Trong y học ứng dụng làm dao mổ. LASER chất lỏng Môi trường hoạt chất là chất lỏng, thông dụng nhất là laser màu. V. Các tính chất của tia Laser : - Độ đơn sắc cao Laser là chùm ánh sáng mà các tia sáng của nó có mức chênh lệch bước sóng nhỏ nhất, so với các chùm sáng đơn sắc khác. Sự chênh lệch bước sóng này còn gọi là phổ ánh sáng của chùm ánh sáng. Và dĩ nhiên là phổ càng hẹp thì độ đơn sắc của chùm sáng càng cao. Trước khi có laser các nhà vật lý đã tạo được các chùm ánh sáng đơn sắc có chênh lệch bước sóng từ 1Ao đến 10nm, nhưng để sử dụng trong nghiên cứu khoa học. Trong khi đó mức chênh lệch bước sóng của chùm ánh sáng laser có thể tới 0,1 Ao. Tính chất này rất quan trọng vì hiệu quả  tác dụng của laser khi tương tác với vật chất, với các tổ chức sinh học phụ thuộc vào độ đơn sắc này.  - Độ định hướng cao  Khác với các nguồn sáng khác, các tia sáng Laser được chọn lọc chỉ phát ra những tia vuông góc với gương, nên hầu như song song với nhau (hay nói theo ngôn ngữ vật lý là góc mở giữa các tia là rất nhỏ). Nhờ vậy, laser có độ định hướng lý tưởng, có thể chiếu đi rất xa, đến mức người ta có thể dùng laser để đo những khoảng cách trong vũ trụ.    - Mật độ phổ (độ chói) rất cao Độ chói của nguồn sáng được tính bằng cách chia công suất của chùm sáng cho độ rộng của phổ. Vì độ rộng của phổ Laser rất nhỏ nên laser có độ tập trung các tia sáng rất cao, hay nói cách khác là độ chói rất cao so với các nguồi sáng khác. Ví dụ: laser có công suất thấp là laser He-Ne cũng có độ chói gấp hàng vạn lần độ chói của ánh sáng mặt trời. Những laser có công suất lớn có độ chói cao gấp hàng triệu lần mặt trời. -  Công suất của laser Tùy loại laser mà có nguồi sáng công suất khác nhau. Có những loại laser công suất mạnh tương đương công suất 1 vạn  nhà máy điện 1 triệu KW. Nhựng nguồn laser công suất mạnh có thể sử dụng trong công nghiệp nạêng như khoan cắt vật liệu, hay chế tạo các loại vũ khí, khí tài quân sự. Các loại laser sử dụng trong y học là những laser có công suất thấp như laser He – Ne công suất chỉ khoảng từ 2MW đến 10MW. 5. Những công dụng của laser:   Ngày nay, người ta đã chế tạo ra được gần 500 loại laser khác nhau, ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực: - Đo đạc những khoảng cách cực lớn, như trong nghành thiên văn (đo khoảng cach từ trái đất đến các hành tinh và khoảng cách giữa các hành tinh trong vũ trụ). - Thiết lập dẫn đường như các loại bom, tên lửa được dẫn đường bằng laser. - Thông tin liên lạc - Công nghiệp nặng: hàn cắt kim loại - Công  nghiệp chế tạo vũ khí. - Cải tạo giống - Trong y học (chuẩn đoán và điều trị bệnh, săn sóc thẩm mỹ) VI : Các ứng dụng của tia lazer 1. Ứng dụng của laser trong nghiên cứu khoa học: a. Nghiên cứu về Quang học phi tuyến: Như chúng ta đã biết trong quang học cổ điển các nguồn sáng phát sóng là những nguồn không kết hợp và có cường độ nhỏ. Khi tương tác của ánh sáng với các môi trường vật chất, độ phân cực của môi trường chỉ là hàm tuyến tính của cường độ điện trường của sóng tới. P = ở đây, P là độ phân cực của môi trường. là độ cảm điện của môi trường. E là cường độ điện trường Khi cường độ sóng lớn như cỡ bức xạ laser thì ta có thể biểu diễn lại độ phân cực như sau: P = Khi E càng lớn thì số hạng bậc cao của E càng trở nên có tác dụng lớn và chúng dẫn đến những hiệu ứng mới trước đây không quan sát được, đó là các hiệu ứng quang phi tuyến. Ngày nay người ta đã nghiên cứu kĩ lưỡng cả trên phương diện lí thuyết lẫn thực nghiệm về các hiệu ứng quang phi tuyến, mở ra một ngành khoa học mới là ngành Quang học phi tuyến với nhiều hướng nghiên cứu khác nhau và ứng dụng khác nhau ở lĩnh vực này. b. Holography: Holography là tên thường gọi của chụp ảnh khối. Nguyên lí của holography được đề xuất năm 1948 nhưng do nguồn sáng để chụp không đủ mạnh nên không thu được kết quả. Chỉ từ khi có laser, người ta đã sử dụng nguồn sáng này để thu được ảnh khối của vật và nghiên cứu về holography được phát triển rất nhanh và trở thành một ngành khoa học riêng trong vật lí và quang học kĩ thuật. + Holography là một phương pháp ghi hình như phương pháp chụp ảnh nhờ máy ảnh. Tuy nhiên nó có những ưu điểm nổi bật hơn phương pháp chụp ảnh thông thường. Phương pháp này chụp ảnh không cần thấu kính. Nó cho hình ảnh khối của vật, nghĩa là cho hình ảnh 3 chiều. Holography ghi lại các sóng tán xạ từ vật bao gồm cả biên độ và pha của sóng và ở bất cứ điểm nào của Holography cũng có các tín hiệu từ toàn vật chụp . Do vậy, nếu như ta bẻ gãy Holography tanh nhiều phần thì mỗi mảnh nhỏ đó cũng vẫn có đủ những thông tin của sóng tán xạ từ vật và cho ta hình ảnh cả vật khi phục hồi. Đây là một đặc tính quan trọng của Holography để có thể có được nhiều bản sao chép của vật , dễ bảo quản và nhân lên. Do holography có hình khối nên nó có thể ghi lại tín hiệu từ các vật khác nhau trên các vùng khác nhau, nghĩa là có thể cùng một lúc giữ lại nhiều thông tin. + Với những ưu điểm như vừa nêu trên thì hiện tại người ta đang và sẽ mở ra nhiều ứng dụng thú vị và quan trọng như sau: Nếu người ta ghi lại một lượng thông tin lớn ở một yếu tố thể tích của holography thì nó có thể trở thành bộ nhớ tốt nhất cho máy tính. Vì nó được ghi lại và phục hồi bằng ánh sáng nên dẫn tới việc xây dựng các máy tính điện tử quang học. Đối với loại máy tính này thì tốc độ xử lý thông tin nhanh gấp nhiều lần máy tính hiện có do trong máy tính quang học tốc độ lan truyền tín hiệu là vận tốc ánh sáng trong môi trường. Khi sử dụng các loại ánh sáng khác nhau để ghi lại Holoraphy thì khi phục hồi bằng ánh sáng trắng ta có thể thấy được hình ảnh màu của vật. Đay chính là nguyên tắc chụp ảnh màu và video màu. Và trong tương lai thì kỹ thuật chụp ảnh, truyền hình nổi và màu rất có triển vọng. Vì holography cho ta hình ảnh khối vật nên người ta có thể sả dụng mẫu để kiểm tra sản phẩm như lốp ô tô khi so sánh với một lốp chuẩn xem có sai hỏng gì không…. Nhờ phương pháp này người ta dễ dàng ghi lại hình ảnh khối của các sinh vật nhỏ khi chúng đang chuyển động hoặc ngay cả tên lửa, máy bay khi chúng đang chuyển động để có thể nghiên cứu sự thay đổi theo thời gian của các vât trên theo những mục đích nghiên cứu khác nhau. c. Nghiên cứu plasma nóng và các phản ứng nhiệt hạch: Do tia laser có tính chất là công suất cao, ở chế độ phát xung có thể đạt được công suất cỡ 1012 – 1015 W nên khi bắn tia laser vào vật chất có thể tạo ra được plasma ở nhiệt độ cao. Và ở nhiệt độ cao này sẽ có các phản ứng nhiệt hạch, từ đây mở ra khả năng nghiên cứu phản ứng nhiệt hạch có điều khiển được trong phòng thí nghiệm. d. Nghiên cứu sinh hóa hiện đại: Trong các phản ứng hóa học khi có dự tham gia của nhiều đồng vị hóa học thường gặp khó khăn khi ta muốn loại trừ ảnh hưởng của đồng vị nào đó trong liên kết. Tuy nhiên, do các đồng vị có năng lượng liên kết hóa học sai khác nhau ít nên chỉ có nhờ tia laser có độ đơn sắc cao mới dễ dàng phá hủy liên kết nào đó khi có sự tương tác cộng hưởng. Năng lượng bức xạ laser hf sẽ phá hủy chỉ liên kết nào tương ứng với năng lượng này mà không ảnh hưởng đến các loại dao động với tần số f1, f2, f3,…khác rất ít f. Người ta nói rằng đay chính là sự phá hủy hay kích thích chọn lọc phản ứng hóa học. Chính điều này mở ra khả năng nghiên cứu các sản phẩm trung gian của hóa học, nghiên cứu quá trình diễn biến theo thời gian của phản ứng, đây là điều mà khoa học đã mơ ước từ bấy lâu nay. Cũng chính nhờ có laser mà các nhà khoa học còn có thể nghiên cứu được phản ứng ở trạng thái kích thích. 2. Ứng dụng của laser trong khoa học kĩ thuật: Có thể nói đây là lĩnh vực rộng rãi của sự áp dụng laser và đang có nhiều kết quả lí thú. Trong thông tin liên lạc: Vì laser có tính chất là độ đơn sắc cao và tính kết hợp cao nên laser được sử dụng rộng rãi và nhanh nhất trong ngành thông tin liên lạc. Sử dụng tia laser có những ưu điểm sau: So với sóng vô tuyến dải sóng truyền tin của tia laser lớn gấp bội ví dụ với sóng vô tuyến tần số sử dụng là 104 – 3.1011Hz nên dải sóng truyền tăng lên đến 5.104 lần. Do đó, các bức xạ laser nằm trong khoảng 0,4 – 0,8 và với mỗi kênh truyền tin là 6,5 MHz thì sử dụng laser ta có thể có gần 80.105 kênh truyền cùng một lúc và gấp 105 lần kênh truyền khi sử dụng sóng cực ngắn. Ngoài ra, do tia laser có tính chất là mang năng lượng lớn nên nó có thể đi xa hơn các sóng vô tuyến. Do nếu sử dụng tia laser thì giảm được hang tỷ lần năng lượng cần dung. Vì vậy, tia laser được sử dụng trong truyền tin trong vũ trụ. Và nếu sử dụng các bước sóng thích hợp có thể truyền tin ở các môi trường khác nhau như trong sương mù, ở dưới biển… b. Trong nghiên cứu vũ trụ: Tia laser được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu vũ trụ, ví dụ như: Tia laser được sử dụng để xác định vị trí các vật thể trong vũ trụ. Theo dõi các tàu vũ trụ và liên lạc với chúng. Điều khiển các tàu vũ trụ. 3. Trong các ngành khoa học khác: a. Trong công nghệ gia công kim loại: Dựa vào tính chất tia laser có cường độ lớn nên có thể khoan, hàn, cắt, gọt kim loại. Tia laser có đường kính nhỏ nên có thể thu được các lỗ khoan có đường kính cỡ bước sóng khoan được những kim loại cứng như bạch kim, hồng ngọc…Với các laser xung công suất lớn việc gia công kim loại đợc tiến hành nhanh và hiệu suất cao nên ngày nay nó được sử dụng rộng rãi trong các công đoạn khác nhau. b.Trong đo lường tiêu chuẩn: Tia laser có độ ổn định về tần số đã trở thành thước đo chiều dài chuẩn. Các bức xạ của laser Cd để làm tần số chuẩn, bức xạ của laser He - Ne để đo tốc độ của ánh sáng… c. Trong khí tượng: Dùng tia laser có thể đo được nồng độ các hạt hơi nước trong các đám mây để dự đoán thời tiết. Bằng cách thả các bóng thám không trước đây, việc xác định thời tiết thường lâu và tốn kém. d.Ứng dụng của lazer trong y học Khi chiếu tia sáng laser vào một hệ sinh vật như cơ thể con người, sẽ có những hiệu ứng sinh học xảy ra trong cơ thể. Những hiệu ứng sinh học này là cơ sở để sử dụng laser trong y học phục vụ con người. Khi sử dụng laser để điều trị thì yếu tố quyết định hiệu quả là liều chiếu, bao gồm các tham số: - Công suất - Độ hội tụ (mật độ công suất ) - Thời gian chiếu - Số lần chiếu - Khoảng cach giữa các lần chiếu   Bên cạnh đó đặc điểm của tổ chức cơ thể nơi chiếu cũng là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên kết quả tốt trong điều trị.   Các ứng dụng cơ bản của laser trong y học: 1. Trong chuẩn đoán, có nhiều thiết bị chuẩn đoán sử dụng laser như : - Máy Dopler Laser thăm dò, đo dòng máu trong cơ thể. - Máy chụp cắt lớp laser. - Các máy dò tìm, đo đạc, dẫn đường trong chuẩn đoán. 2. Trong điều trị: Ứng dụng của laser trong điều trị rất phong phú: Da liễu: tẩy xóa các u, mụn, các đốm sắc tố như nốt ruồi tàn nhang, các bớt bẩm sinh vv… - Nhãn khoa: rất nhiều ứng dụng như điều trị hàn gắn các tổn thương võng mạc, điều trị các tổn thương giác mạc, trong các phẩu thuật sửa chữa các tật khúc xạ của mắt và phẩu thuật điều trị các bệnh lý khác của mắt. - Hệ thống tiêu hóa: tán sỏi ống mật chủ, trong các thủ thuật ngoại khoa điều trị các khối u đựng tiêu hóa, trong tạo hình thực quản, trong việc hàn gắn các tổn thương mạch máu nội tạng như trong các trường hợp ung thư, viêm loét đường tiêu hóa, v..v... - Sản phụ khoa: điều trị các tổn thương bệnh lý cổ tử cung để tránh nguy cơ ung thư hóa. - Tai – Mũi – Họng: điều trị các tổn thương của dây thanh êm, các bệnh lý và tổn thương vùng họng hầu. - Thần kinh: điều trị các tổn thương dạng u do hệ thống thần kinh. - Hô hấp: điều trị các khối u phổi, các tổn thương bệnh ly không phải do u, và hàn gắn cả các tổn thương khí quản do đặt ống nội khí quản khi gây mê hay do thủ thuật mở khí quản cấp cứu. - Tim mạch: phá hủy các mảng xơ vữa ở thành động mạch.   A. Dao mổ laser: Người ta sử dụng các laser nhiệt để phẫu thuật như một dao mổ bằng tia sáng laser. Điển hình là dao mổ bằng laser CO2. Khi chiếu tia laser, tổ chức cơ thể nơi tia đi qua sẽ bay hơi rất nhanh tạo nên một đường cắt sắt như dao. Do tác dụng của nhiệt, hai bên đường cắt sẽ sẽ hình thành cột hàng rào sinh học bảo vệ vết mổ nên vết mổ rất vô trùng và không bị chảy máu. Vì chùm tia laser CO2 không nhìn thấy nên trong máy phát laser phải gắn thêm laser He –Ne  công suất 1-2 mw phát tia màu đỏ dẫn đường. Những ưu điểm của dao mổ laser: Độ vô khuẩn cao vì laser tạo nhiệt độ cao tại đường rạch và không có sự tiếp xúc giữa dụng cụ và cơ thể.      Laser CO2 có khả năng vùa rạch đường mổ vửa cầm máu.      Tạo ra hàng rào sinh học bảo vệ chung quanh đường rạch.   Ít gây tổn thương cho các tổ chức lân cận vết mổ. - Thời gian mổ ngắn hơn. - Săn sóc hậu phẩu thuận lợi hơn. - Aùp dụng thuận lợi trong những trường hợp madao mổ thường ít hiệu quả.    Đặc biệt, dao mổ laser được sử dụng để phẩu thuật những bộ phận ở sâu trong cơ thể mà không làm tổn thương những phần cơ thể nó đi qua. Nó chỉ tác dụng chọn lọc trên phần mô tổ chức định sẵn. Như là phẩu thuật các tổn thương, các khối u sọ não, tủy sống, phẩu thuật mắt vv…. B. Laser là phương tiện điều trị ít xâm lấn: Khi chiếu laser vào tổ chứa cơ thể ở một nhiệt độ nhất định, laser sẽ làm đông protein của tổ chức. Hiệu ứng này được áp dụng để can thiệp điều trị ít xâm lấn các tổn thương của cơ thể kể cả can thiệp sâu vào bên trong cơ thể.   Do mỗi loại laser có độ hội tụ khác nhau và mỗi loại tổ chứa mô cơ thể có khả năng hấp thu khác nhau nên người ta dựa vào đó để tính toán liều chiếu và cách chiếu sao cho laser chỉ tác dụng chọn lọc tại một nơi theo ý đồ sử dụng.   Khả năng này được ứng dụng trong nhiều chuyên khoa y học như  Mắt, Tai - Mũi - Họng, phẫu thuật thần kinh sọ não, phẫu thuật phá hủy các khối u trong cơ thể. Kể cả tổn thương bên ngoài cơ thể như u máu, việc sử dụng laser để phá hủy khối u là phương pháp điều trị tối ưu. C. Tác dụng kích thích sinh học:   Có rất nhiều loại laser công suất thấp được sử dụng để khai thác khả năng kích thích các quá trình sinh học.   Nhiều công trình nghiên cứu cũng như thực tế ứng dụng lâm sàng cho thấy hiệu ứng kích thích sinh học khi chiếu laser có rất nhiều ứng dụng mang lại hiệu quả cao trong công việc phòng bệnh và chữa bệnh, duy trì sức khỏe con người.      ° Chiếu điều trị vết thương:     + Sát trùng vết thương     + Tiêu hủy các tế bào mô chết     + Tăng cường chống viêm, giảm đau     + Tăng sinh các mô lành     + Kích thích tổ chức hạt ở vết thương phát triển nhanh     + Thúc đẩy nhanh quá trình lành sẹo và hồi phục chức năng    ° Chiếu kích thích tổ chức lành:     + Để hồi phục và tăng cường sức khỏe    + Để duy trì và tăng cường hoạt động sinh lý bình thường của các cơ quan trong cơ thể     + Điều chỉnh các rối loạn và tăng cường hoạt động của hệ tim mạch     + Duy trì chức năng bình thường của các hoạt động tâm thần kinh     + Châm cứu bằng laser     + Tăng lưu lượng máu đến những vùng được chiếu e. Ứng dụng của lazer trong thẩm mỹ Cũng trên cơ sở những hiệu ứng sinh học của laser và những ứng dụng của laser trong y học, chúng ta nhấn mạnh thêm những ứng dụng của laser trong thẩm mỹ.    Trong thẩm mỹ sử dụng laser theo 2 hướng: Giải phẫu thẩm mỹ và săn sóc thẩm mỹ (Nội khoa thẩm mỹ). Được sử dụng phổ biến và hiệu quả cao như  LASER CO2, ND- YAG, Erbium,Q-Nd, Fraxel, V-beam, Ruby, laser kết hợp CO2 – erbium/YAG, vv… 1. Trong giải phẩu thẩm mỹ: thường sử dụng laser nhiệt như một con dao mổ, phổ biến nhất là laser CO2, laser Argon và laser YAG.  - Trong giải phẩu dùng laser để cắt như một con dao mổ với sự dẫn đường của laser He – Ne có rất nhiều ưu điểm như đã nói ở phần trên.  - Điều trị sẹo mụn trứng cá  - Điều trị các u máu  - Điều trị các u sắc tố  - Đốt, tẩy các nốt ruồi xấu  - Đốt mụn thịt  - Tẩy tàn nhang  - Tẩy vết nám  - Bớt bẩm sinh  - Lột da mặt ở các mức độ khác nhau  - Tẩy lông  - Điều trị sẹo lồi, sẹo phì đại  - Các vết tham sắc tố sau phẩu thuật 2. Trong săn sóc thẩm mỹ: Như đã nói ở phần trên, những ứng dụng của laser trong săn sóc thẩm mỹ cũng dựa trên những hiệu ứng sinh học mà chủ yếu là hiệu ứng kích thích sinh học của laser khi chiếu vào tổ chức mô cơ thể người.    Laser sử dụng trong săn sóc thẩm mỹ chủ yếu là laser lạnh, công suất thấp.    Đặc biệt, laser được sử dụng ngày càng phổ biến trong các kỹ thuật chăm sóc da trong quá trình trẻ hóa da (Rejuvenation).    Các kỹ thuật trẻ hóa da thuộc 3 nhóm theo cơ thể khác nhau là: - Cơ học (các dụng cụ mài da) - Hóa học (dùng các loại hóa chất) - Nhiệt (dùng các loại ánh sáng có năng lượng cao như laser) Hay còn gọi là phương pháp chăm sóc thẩm mỹ da bằng ánh sáng đang rất được tin dùng và ngày càng phổ biến trên thế giới.   Tất nhiên như đã nói ở trên, việc sử dụng laser đòi hỏi phải nắm vững kỹ thuật và thành thạo để có chỉ định chính xác về liều chiếu, nơi chiếu và phương pháp chiếu, nhằm đạt hiệu quả cao nhất với sự an toàn tuyệt đối.   Có nhiều loại laser được dử dụng và chúng có những đặc tính khác nhau (bước sóng, công suất, mật độ công suất… ) vì vậy , mỗi loại laser sử dụng cho những phần da khác nhau (tác dụng chọn lọc) với liều chiếu khác nhau. Ngoài các công dụng như đã nói ở phần ứng dụng trong giải phẩu thẩm mỹ, laser còn dùng để săn sóc da thuần túy với các kỹ thuật: - Tẩy tế bào chết trên da - Chiếu để kích thích các tế bào da phát triển và thay mới - Kích thích tăng cường tuần hoàn dưới da để tăng nuôi dưỡng da và làm hồng hào da - Kích thíc tăng sinh, tái tạo collagene và mô đệm để da căng đầy và mềm mại - Làm tăng độ đàn hồi của da để xóa các vết nhăn - Chống lão hóa da - Giữ gìn sắc diện tươi trẻ cho da - Làm tan mỡ ở những vùng ứ đọng mỡ khơng mong muốn - Làm săn chắc những bộ phận bị nhão, xệ - Hồi phục và duy trì vóc dáng trẻ trung của cơ thể Cần lưu ý: Laser có nhiều ứng dụng hiệu qua trong y học nói chung và thẩm mỹ nói riêng, nhưng việc sử dụng laser trong thực tế đòi hỏi sự hiểu biết đầy đủ và tuân thủ nghiêm ngặt các qui định về chế độ an toàn cho cả bac sĩ và bệnh nhân.   Ngày nay, ở các nước tiên tiến người ta đã chế tạo ra nhiều máy phát nhiều loại laser khác nhau dùng trong thẩm mỹ.Các máy laser hiện đại đều được chương trình (computerized) nên rất tiện lợi cho việc sử dụng.   Ở Việt Nam, từ hàng chục năm qua, laser đã được ứng dụng trong y học nói chung và trong giải phẫu thẩm mỹ cũng như săn sóc thẩm mỹ nói riêng, những người hành nghề trong lĩnh vực thẩm mỹ cũng đã luôn cập nhật những tiến bộ của thế giới và tiếp thu nhanh chóng công  nghệ mới để sử dụng có hiệu quả trong thực tế. Tuy nhiên, laser là công nghệ tiên tiến nên giá thành các thiết bị laser còn cao và đó cũng là một rào cản cho việc ứng dụng laser phục vụ con người.   Dù vậy, nhiều loại máy laser thẩm mỹ tiên tiến đã có mặt tại việt nam để phục vụ kịp thời nhu cầu làm đẹp của người Việt Nam. Hy vọng cùng với sự hội nhập của đất nước và sự phát triển nhanh chong của nền kinh tế toàn cầu, người Việt Nam chúng ta sẽ nhanh chóng được được hưởng kịp thời những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong cuộc sống nói chung cũng như trong lĩnh vực chăm sóc sắc đẹp nói riêng. 4.Ứng dụng mới của laser. a. Ứng dụng laser để tạo ra vũ khí hạt nhân: Vũ khí laser khi được bắn ra, tuy không có đạn như súng pháo thường nhưng lại phát ra chùm tia laser năng lượng cao với tốc độ 300.000 km/giây. Năng lượng này tập trung rất mạnh, khi chiếu vào vật thể kim loại, trong nháy mắt sẽ làm cho kim loại nóng chảy, bốc hơi, thậm chí biến thành ion. Tác dụng đó gọi là “hiệu ứng lan chảy nhiệt”. Vũ khí laser phá hoại mục tiêu chủ yếu nhờ vào hiệu ứng đó. Chùm tia laser gây tác dụng lan chảy càng lớn hơn đối với cơ thể sống, thậm chí gây tử vong. Cho nên tia laser từng được mệnh danh là tia chết chóc. Nếu bạn đưa kính hội tụ ra trước ánh nắng để lấy tiêu điểm sáng. Tiêu điểm này có thể làm cháy giấy. Vậy mà độ sáng của tia laser còn cao gấp vài trăm triệu, thậm chí vài tỷ lần so với ánh nắng Mặt trời. Năng lượng của nó dĩ nhiên là rất lớn. Do đó, người ta đã sử dụng vũ khí tia laser để bắn máy bay, tên lửa của đối phương. Ngoài ra, khi bắn vào mục tiêu dạng kim loại, tia laser còn sinh ra tác dụng phá hoại phụ. Đó là dạng ion hình thành dưới nhiệt độ cao của tia laser khi phát ra khỏi bề mặt kim loại, lực phản tác dụng sẽ gây phụ tải xung kích trên bề mặt kim loại, làm biến dạng, phá huỷ nhanh chóng vật thể. Đồng thời dạng ion còn phát ra bức xạ X, làm cho các linh kiện điện tử gần mục tiêu bị vô hiệu hoá. Một điều cần phải nói thêm là, chùm tia laser còn làm cho người ta bị mù mắt hoặc tạm thời không nhìn thấy gì. Đó là vì mắt người giống như một thấu kính hội tụ, khi bị chùm laser chiếu vào qua hội tụ của thuỷ tinh thể sẽ hình thành tiêu điểm trong võng mạc, làm cho năng lượng laser càng tập trung hơn. Tổ chức võng mạc cực mỏng bị hấp thụ năng lượng lớn của tiêu điểm ánh sáng, sẽ nhanh chóng chuyển thành nhiệt năng làm cháy bỏng võng mạc, dẫn đến mù mắt. b.Tia laser phóng tàu vũ trụ Khi rung động, tia laser đốt nóng không khí cho đến khi cháy. Mỗi lần không khí cháy lại tạo ra một tia sáng loé lên. Để thoát khỏi sức hút trái đất, lâu nay, loài người vẫn sử dụng tàu con thoi, loại tàu phải mang theo hàng tấn nhiên liệu và hai tên lửa đẩy lớn. Nhưng không lâu nữa, các con tàu vũ trụ sẽ lướt vào không gian trên một chùm tia laser, cần rất ít hoặc không cần chất nổ đẩy và không hề gây ô nhiễm. Ý tưởng cơ bản đằng sau kỹ thuật đẩy bằng ánh sáng là sử dụng các tia laser từ mặt đất để đốt nóng không khí đến mức làm không khí nổ tung, đẩy con tàu tiến lên phía trước. Nếu thành công, kỹ thuật đẩy bằng ánh sáng sẽ làm con tàu nhẹ hơn hàng nghìn lần, hiệu quả hơn so với các động cơ tên lửa sử dụng chất hoá học và không gây ô nhiễm. Chúng ta sẽ xem xét hai kiểu hệ thống đẩy tiên tiến: một kiểu có thể đưa chúng ta từ trái đất lên mặt trăng chỉ trong vòng 5 giờ rưỡi và kiểu kia có thể đưa chúng ta du lịch hệ mặt trời trên các “xa lộ ánh sáng”. Ánh sáng rực rỡ là không khí đang cháy dưới vành tàu. Tàu vũ trụ nhẹ được đẩy bằng laser. Nguyên lý rất đơn giản: con tàu sử dụng các tấm gương để thu nhận và hội tụ chùm laser chiếu vào, rồi đốt nóng không khí đến độ không khí nổ tung, đẩy con tàu đi. Dưới đây là các thành phần của hệ thống đẩy mang tính cách mạng này. - Tia laser carbon dioxit: Tia laser xung 10 kW đang được sử dụng để thử nghiệm con tàu nhẹ này là một trong số những tia mạnh nhất thế giới. - Gương parabole: Phần đáy của tàu vũ trụ là một gương để hội tụ chùm laser vào khoang chứa không khí hay chất nổ đẩy trên tàu. Vật truyền thứ hai, nằm trên mặt đất, là một gương giống như kính viễn vọng được dùng để hướng chùm tia laser lên con tàu. - Khoang hút thu: Không khí được hướng vào trong khoang này; tại đây không khí bị đốt nóng lên bởi chùm laser, giãn nở ra và đẩy con tàu đi. - Hydro trên tàu: Một lượng nhỏ chất nổ đẩy hydro được sử dụng để đẩy tên lửa khi khí quyển quá loãng không thể cung cấp đủ không khí. Trước khi bay lên khỏi mặt đất, một luồng không khí nén sẽ đẩy nhẹ con tàu lên đến vận tốc khoảng 10.000 vòng/phút. Khi nó đang lượn xoáy với một tốc độ tối ưu, tia laser sẽ được bật lên, thổi con tàu lên không trung. Tia laser 10 kW này rung động ở mức từ 25-28 lần/giây. Bằng cách rung động, nó liên tục đẩy con tàu lên phía trên. Chùm tia sáng được hội tụ bởi gương parabole ở đáy của con tàu đốt nóng không khí lên tới khoảng từ 10.000-30.000 độ C, nóng hơn bề mặt của mặt trời vài lần. Khi không khí bị đốt nóng đến nhiệt độ cao như vậy, nó sẽ biến đổi sang thể plasma (loại khí có số lượng các hạt mang điện âm, dương, tương đương nhau trên mặt trời và phần lớn các vì sao) – thể plasma này sau đó nổ tung để đẩy con tàu lên phía trên. Ngoài ra, người ta cũng sẽ đặt các gương bên trong con tàu để chiếu một số chùm năng lượng về phía trước. Sức nóng từ chùm laser sẽ tạo ra một cụm khí làm chệch hướng đi của một phần luồng không khí đi qua con tàu, từ đó giúp giảm bớt ma sát và giảm lượng khí nóng mà con tàu hấp thụ. c. Thiết bị điều khiển bằng laser giúp người tàn tật đi lại Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Virginia (Mỹ) đang thử nghiệm một mẫu thiết bị dành cho những người lớn tuổi không có khả năng đi lại. Thiết bị này có hình dáng tương tự như xe đẩy tay của trẻ con, có cần lái và phanh xe bằng điện được điều khiển bằng tia laze. Thông qua động cơ gắn kèm, các tia laser giúp nhận biết quang cảnh xung quanh người điều khiển, dự đoán hướng di chuyển của họ để kịp thời bẻ lái bánh xe trước đồng thời kẹp chặt bánh xe sau. Nếu phát hiện có vật cản, xe sẽ tự động bẻ lái tránh sang một bên. Người điều khiển xe sẽ không sợ ngã vì đã có phanh xe tự động. Các nhà nghiên cứu hy vọng sắp tới họ sẽ thiết kế thêm cho xe chức năng nhận biết giọng nói con người. d. Chiếc đồng hồ chính xác nhất thế giới: Sử dụng công nghệ laser phức tạp và một đơn nguyên tử thuỷ ngân, các nhà khoa học Mỹ đã tạo ra chiếc máy đo thời gian chính xác gần như tuyệt đối, với sai số 1 giây trong cả cuộc đời của vũ trụ - khoảng 15 tỷ năm. Các nhà khoa học tại Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ quốc gia ở Boulder, Colorado, đã phát triển một loại đồng hồ nguyên tử mới có thể “tíc tắc” một triệu tỷ lần trong mỗi giây, chính xác gấp 100-1.000 lần so với các đồng hồ vi sóng – xezi hiện nay. Chiếc đồng hồ này được gọi là đồng hồ nguyên tử quang học, vì nó áp dụng công nghệ laser, đo những khoảng thời gian ngắn nhất từng được ghi nhận tới nay. Nguyên lý làm việc tương tự như các loại đồng hồ nguyên tử ra đời từ thập kỷ 50, nhưng thay vì vi sóng, nó sử dụng ánh sáng quang học có tần số cao hơn, cung cấp thời gian chính xác hơn. Tương lai, loại đồng hồ này sẽ đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực cần độ chính xác cao như các thiết bị vệ tinh, Internet, phân phối điện, nhà băng… e. Máy laser lớn nhất thế giới Trong khoảng thời gian bằng 1/10 tỷ giây, máy siêu laser Jena sẽ phóng ra một nguồn năng lượng bằng tổng năng lượng của tất cả các nhà máy điện trên thế giới cộng lại. Đây sẽ là một bước tiến lớn nhất trong lịch sử ứng dụng laser. Máy được xây dựng theo mô hình hiện đại, gồm 4.500 điôt laser mắc song song với nhau. Trong đó mỗi điôt sẽ có công suất tương đương với 100.000 lần công suất của máy quét laser dùng trong ổ đĩa CD hiện nay. Khi ra mắt máy laser Jena sẽ có công suất 1.000 tỷ Watt! Khi nghiên cứu sản xuất máy laser Jena, Sauerbrey còn đạt được một “kỳ tích không gian” khác. Trong khi các máy phóng laser có công suất lớn hiện nay phải cần một diện tích tương đương với cả một sân vận động, thì máy siêu laser Jena của ông được đặt trong một phòng thí nghiệm vỏn vẹn có 200 m2! Máy siêu laser Jena sẽ đóng góp lớn cho việc sản xuất đồng vị phóng xạ dùng cho chẩn đoán y học và trị liệu bằng tia X. Mặt khác, với cường độ siêu mạnh, máy có thể giúp khử xạ chất thải nguy hiểm. Hiện nay, chất thải loại này được xử lý bằng cách bọc trong vỏ chì, sau đó chôn sâu xuống lòng đất hoặc thả xuống đáy biển. f. Cầu nối laser giữa các vệ tinh Lần đầu tiên, hai vệ tinh ở khoảng cách trên 30.000 km đã trao đổi thông tin được với nhau thông qua một chùm laser. Kỹ thuật này cho phép các vệ tinh ở quỹ đạo thấp gửi thông tin nhanh chóng và ổn định xuống trạm xử lý dưới mặt đất thông qua một vệ tinh địa tĩnh ở quỹ đạo cao hơn. Trong thử nghiệm lần này, cầu nối laser (laser link, là một chùm laser có đường kính vài mét) đã có thể truyền các dữ liệu và hình ảnh với tốc độ 5 megabits trong một giây. Hiện các nhà khoa học đang phát triển một đường truyền mới có dung lượng lớn hơn nhiều, cho phép truyền cả âm thanh và hình ảnh. Các nhà khoa học đã sử dụng hệ thống laser có tên là SILEX (do Cơ quan Vũ trụ châu Âu ESA và Cơ quan Vũ trụ Pháp CNES triển khai) để nối vệ tinh Artemis với vệ tinh thiên văn SPOT 4. Chùm laser này được điều chỉnh tinh vi, cho phép SPOT 4 chuyển lượng dữ liệu lớn với tốc độ nhanh tới Artemis. Artemis bay ở quỹ đạo địa tĩnh, cách trái đất 31.000 km, trong khi SPOT 4 di chuyển với tốc độ 7.000 m/s ở độ cao 832 km. Bởi vậy, cầu nối laser phải được “thiết lập” rất chính xác. Theo ông Oppenhaeuser, đường truyền laser gọn hơn, chắc chắn hơn và cần ít năng lượng hơn hệ thống thu – phát sóng vô tuyến. Việc gửi thông tin từ các vệ tinh quan trắc như SPOT 4 về trái đất hiện kéo dài cả tiếng đồng hồ, bởi vì thông tin phải đi qua nhiều trạm: Trước hết, vệ tinh cần lưu giữ thông tin khi nó chuyển động trên quỹ đạo. Sau đó, nó gửi dữ liệu xuống một trạm trên mặt đất. Ở trạm này, thông tin lại được sắp xếp lại một lần nữa trước khi được gửi qua sóng radio tới trung tâm xử lý. Nay, sử dụng cầu nối laser, các nhà khoa học đã có thể rút ngắn thời gian truyền tin từ các vệ tinh ở quỹ đạo thấp xuống mặt đất. Đồng thời, đường truyền bằng laser cũng tỏ ra ổn định hơn rất nhiều. g. Nam châm hoạt động bằng ánh sáng: Chiếc nam châm dẻo (plastic magnet) nhạy cảm với ánh sáng này có thể sẽ mở ra hướng ứng dụng mới cho việc lưu giữ và đọc thông tin: Bộ chứa quang trường (magneto – optic) dùng tia laser sẽ có những ưu điểm như dung dượng lớn, rẻ và nhanh Chiếc nam châm dẻo, chạy bằng ánh sáng (laser) là loại đầu tiên được làm từ các phân tử hữu cơ (carbon). Tác giả, ông Arthur Epstein, Đại học Quốc gia Ohio ở Columbus, và ông Joel Miller thuộc ĐH Utah ở Salt Lake (Mỹ), cho rằng, có thể sử dụng phương pháp hóa học để vi chỉnh những đặc tính của vật liệu. Việc đầu tiên là tăng nhiệt độ hoạt động của nó. Hiện nay, vật liệu này chỉ hoạt động ở nhiệt độ cực lạnh (-198 độ C). Vật liệu gồm các nguyên tử mangan, đan xen với các phân tử hữu cơ nhỏ xíu. Khi nó hấp thụ ánh sáng laser, các phân tử hữu cơ bị kích thích, tạo ra một từ trường. Qua đó, một hệ thống quang từ (magneto – optic) được xác lập, làm nền tảng cho ổ chứa từ tính.  Bình thường, trong ổ chứa điện từ, chiều của từ trường phụ thuộc vào dòng điện, nhưng ở hệ thống quang từ, chiều từ trường phụ thuộc vào ánh sáng.  Với ổ cứng tương lai, thông tin có thể được đọc, ghi hoặc xóa nhờ các tia laser, thông qua hiệu ứng quang từ. Tuy nhiên, Epstein thừa nhận rằng việc sử dụng hiệu ứng này hiện còn rất hạn chế. h. Dùng laser di chuyển xung sáng trong khí lạnh  Người ta có thể điều khiển đường đi của xung sáng cũng như tần số của nó bằng 3 chùm laser, giữa các nguyên tử khí lạnh. Kĩ thuật này được ứng dụng trong việc chế tạo các mạch quang điện và bộ nhớ của máy tính lượng tử. Người ta đã gắn 3 thiết bị phóng laser trong môi trường khí nitơ cực lạnh. Máy laser thứ nhất (còn gọi là máy phát tín hiệu) phóng ra một xung sáng vào môi trường khí nitơ. Sau đó, một thiết bị khác, gọi là thiết bị giữ laser, phóng ra một tia, hãm xung sáng lại trong khí lạnh. Tiếp theo, một thiết bị phóng laser thứ 3 đẩy xung sáng tới một vị trí cách vị trí ban đầu 6 milimét. Như vậy, xung sáng này đã được giữ và "vận chuyển" giữa môi trường của các nguyên tử khí lạnh. Các nhà khoa học cho biết, trong thí nghiệm này, họ đã thay đổi tần số của xung sáng bằng cách thay đổi tần số của thiết bị giữ laser. Đây là lần đầu tiên người ta có thể giữ một xung sáng, điều chỉnh tần số và di chuyển nó giữa các nguyên tử khí lạnh. Về nguyên tắc, các nhà khoa học có thể mã hóa thông tin trong xung sáng để lưu giữ và sử dụng. Vì thế, thí nghiệm lần này là một bước tiến mới trên đường tìm kiếm Đây là lần đầu tiên người ta có thể giữ một xung sáng, điều chỉnh tần số và di chuyển nó giữa các nguyên tử khí lạnh. Về nguyên tắc, các nhà khoa học có thể mã hóa thông tin trong xung sáng để lưu giữ và sử dụng. Vì thế, thí nghiệm lần này là một bước tiến mới trên đường tìm kiếm bộ nhớ lý tưởng cho máy tính lượng tử. i. Động cơ lượng tử biến khí thải thành laser Luồng khí thải nóng hổi thoát ra từ ống xả không hẳn là đồ thừa vô dụng. Người ta có thể lợi dụng nguyên lý cơ học lượng tử để chuyển chúng thành  năng lượng có lợi dưới dạng bức xạ  laser. Nhà vật lý Marlan Scully, Đại học Texas A&M (Mỹ), thông báo. Scully nói rằng, để sử dụng khí thải từ ống xả của động cơ bốn kỳ, người ta cần một động cơ lượng tử phụ (quantum afterburner). Động cơ phụ này hoạt động theo nguyên lý cơ học lượng tử, tái sử dụng nhiệt lượng thừa của khí thải để chuyển thành năng lượng hữu ích dưới dạng bức xạ laser, nhằm nâng cao hiệu suất của toàn bộ hệ thống. Động cơ lượng tử phụ của Scully gồm hai thiết bị: một để tạo ra laser và một tạo ra maser (tia maser là một loại tia laser với bước sóng siêu ngắn, ngắn hơn bước sóng ánh sáng thường). Bình thường, trong khí thải nóng, số lượng hạt tỷ lệ nghịch với mức năng lượng của chúng. Nghĩa là, hạt có mức năng lượng càng cao thì mật độ của chúng càng nhỏ. Tuy nhiên, khi đi vào thiết bị laser, các hạt trong khí thải bị kích thích, làm số lượng hạt ở cấp năng lượng cao tăng vọt. Động cơ lượng tử sử dụng các hạt khí thải ở ba trạng thái khác nhau (3 cấp năng lượng). Thiết bị maser đẩy các hạt bị kích thích ở cấp năng lượng thứ hai lên cấp cao nhất. Quá trình này làm tăng mật độ các hạt năng lượng cao giữa bậc hai và bậc một. Chính các hạt này tạo ra bức xạ laser. Tóm lại, với việc gắn thêm một động cơ lượng tử phụ, nhiệt lượng  của khí thải được chuyển thành bức xạ laser, góp phần nâng cao hiệu suất của toàn bộ hệ thống. Ngược lại, trong một động cơ bốn kỳ bình thường, nhiệt lượng của khí thải không dùng được nữa. Scully và cộng sự đang thử lắp đặt một động cơ lượng tử thực sự để kiểm nghiệm ý tưởng này. k. Trạng thái thứ tư của vật chất: Vật chất, ngoài ba trạng thái thường gặp là thể rắn, lỏng, khí, còn tồn tại ở một dạng đặc biệt khác, được gọi là "trạng thái plasma", hay là thể khí ion hoá. Hãy lấy nước làm ví dụ: Đun nóng một cục băng đến mức độ nhất định, nó (ở thể rắn) sẽ biến thành nước (thể lỏng), nhiệt độ tăng lên nữa nước sẽ bốc hơi (thể khí). Nếu tiếp tục tăng nhiệt độ nước lên cao nữa, kết quả sẽ là gì? Khi nhiệt độ chất khí cao hơn vài ngàn độ, các electron mang điện âm bắt đầu bứt khỏi nguyên tử và chuyển động tự do, nguyên tử trở thành các ion mang điện dương. Nhiệt độ càng cao thì số electron bứt ra khỏi nguyên tử chất khí càng nhiều, hiện tượng này được gọi là sự ion hoá của chất khí. Các nhà khoa học gọi thể khí ion hóa là “trạng thái plasma”. Ngoài nhiệt độ cao, người ta có thể dùng các tia tử ngoại, tia X, tia bêta cực mạnh chiếu vào chất khí cũng làm cho nó biến thành plasma. Không phải là xa lạ Có thể bạn cảm thấy trạng thái plasma rất hiếm gặp. Nhưng thực ra đó là một trạng thái rất phổ biến trong vũ trụ. Trong lòng phần lớn những vì sao phát sáng đều có nhiệt độ và áp suất cực cao, vật chất ở đây đều ở trạng thái plasma. Chỉ có ở một số hành tinh tối và vật chất phân tán trong thiên hà mới có thể tìm thấy chất rắn, chất lỏng và chất khí. Ngay xung quanh chúng ta cũng thường gặp vật chất ở trạng thái plasma. Như ở trong ống đèn huỳnh quang, đèn neon hay trong hồ quang điện sáng chói. Hơn nữa, trong tầng ion xung quanh trái đất, trong hiện tượng cực quang, trong khí phóng điện sáng chói ở khí quyển và trong đuôi của các sao chổi đều có thể thấy trạng thái kỳ diệu này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuong Thi Ha.doc