Tiểu luận Lịch sử hệ thống ngân hàng thế giới

Trong suốt thế kỷ 13, các nhà ngân hàng ở bắc Italy, được biết tới tên gọi chung ''những người Lombards''. Lombard, tiếng Latinh viết là Langobardi, còn được gọi biết tới với tên Langobards hay Longobards, là nhóm người có nguồn gốc chủng tộc German, đến từ phía bắc châu Âu và định cư tại vùng lưu vực sông Danube. Họ dần thay thế vai trò của người Do Thái trong hoạt động truyền thống: cung cấp tiền bạc cho những người giàu có và quyền lực, các hoàng gia châu Âu. Kỹ năng kinh doanh của ngân hàng được phát triển với phát kiến : + Nghiệp vụ ghi sổ kép + Cách thức bù trừ nghĩa vụ tín dụng của khách hàng trên ghi chép sổ sách giữa các ngân hàng trong hệ thống, vốn được các ngân hàng ở Genoa áp dụng từ thế kỷ 12. Cách thức kế toán sáng tạo này giúp họ tránh được “tội lỗi” cho vay nặng lãi được qui định trong giáo lý Cơ đốc. Lợi nhuận của khoản vay được ghi trong các tài khoản dưới dạng quà tặng tự nguyện của người vay hoặc phần thưởng cho những rủi ro mà nhà ngân hàng đã trải qua. Hẳn nhiên, những món quà và phần thưởng của các hoàng tộc đứng đầu châu Âu không bao giờ có giá trị nhỏ. Hệ thống ngân hàng Florence thống lĩnh hệ thống tài chính quốc tế nhờ đồng tiền vàng florin nổi tiếng. Được đúc lần đầu tiên vào năm 1252, đồng florin nhanh chóng nhận được sự tín nhiệm và công nhận rộng rãi, thực sự trở thành đồng tiền mạnh (hard currency) vào thời đó.

doc26 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1834 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lịch sử hệ thống ngân hàng thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong kho đủ để bảo đảm cho lượng tiền giấy họ phát hành thì việc mọi ngân hàng đều có quyền phát hành tiền sẽ làm cho lượng tiền trong lưu thông có lúc quá thừa, có lúc quá thiếu, không ổn định và không thống nhất, dẫn đến kết quả là nên sản xuất, thương mại và giá cả thay đổi bấp bênh. Đến năm 1819, sau ảnh hưởng từ sự sụp đổ của Ngân hàng Amsterdam (Hà Lan), chính quyền các nước và ngay cả giới ngân hàng đều ý thức được rằng việc giới hạn quyền phát hành rõ ràng là một việc làm cần thiết. Chính phủ nhiều nước đã ban hành các đạo luật để hạn chế số lượng ngân hàng được phép phát hành giấy bạc và dần dần giữ cho các ngân hàng trung tâm độc quyền phát hành tiền, quyền kiểm soát dự trữ vàng, kiểm soát tín dụng và thực hiện việc điều hòa thanh toán cho cả hệ thống ngân hàng trong nước. Lúc này, hệ thống ngân hàng được chia ra thành 2 nhóm ngân hàng với các nghiệp vụ khác nhau: - Thứ nhất, nhóm các ngân hàng được phép phát hành tiền gọi là ngân hàng phát hành. - Thứ hai, nhóm các ngân hàng không được phép phát hành tiền và chỉ thực hiện các nghiệp vụ cho vay chiết khấu nhận tiền gửi, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, gọi là ngân hàng trung gian. Không phải bỗng nhiên người ta đi đến việc thành lập ngay một ngân hàng phát hành. Thật ra, ngân hàng phát hành thường thoát thai từ một ngân hàng thương mại. Khởi đầu, một ngân hàng thương mại nào đó chiếm một địa vị quan trọng trong hệ thống ngân hàng, được Nhà nước giao cho nhiệm vụ phát hành tiền tệ. Mô hình ngân hàng quốc gia lần đầu xuất hiện tại Venice đầu thế kỷ 17. Trong lịch sử, ngân hàng đầu tiên phát hành tiền theo nghĩa hiện đại là ngân hàng Riskbank của Thụy Điển thiết lập từ năm 1656 và được cải tổ vào năm 1670 được phát hành tiền. Mặc dầu vậy, các nhà ngân hàng vẫn xem Ngân hàng Anh Quốc (Bank of England) là ngân hàng phát hành đầu tiên vì đã áp dụng những kỹ thuật và thi hành những nghiệp vụ được coi như là những nguyên tắc cơ bản của một ngân hàng ương hiện đại, là ngân hàng phát hành kiểu mẫu, có ảnh hưởng sâu rộng đến các ngân hàng phát hành sau này. Ngân hàng Anh quốc (Bank of England) được thiết lập vào năm 1694 nhằm mục đích ứng tiền cho chính phủ. Lúc khởi đầu nó là một công ty do các tư nhân góp vốn lên tới 1.200.000 bảng Anh. Tổng số tiền này đều cho chính phủ Anh vay để được đổi lại đặc quyền phát hành tiền tệ trong một giới hạn nhất định do chính phủ Anh ban cho. Lúc bấy giờ nhiều ngân hàng khác của Anh cũng được đặc quyền phát hành tiền tệ. Tuy nhiên, đặc quyền của các ngân hàng này lần lượt bị giảm bớt trong khi đặc quyền của Ngân hàng Anh quốc lần lần được nới rộng. Năm 1826, ngân hàng cổ phần tư nhân Anh quốc (BOE) được độc quyền phát hành tiền trong phạm vi Luân Đôn với bán kính 65 dặm (miles). Những ngân hàng khác muốn được quyền phát hành phải nằm ngoài khu vực nói trên. Năm 1833, ngân hàng Anh quốc được độc quyền phát hành tiền pháp định trên toàn xứ Anh (chính quốc nước Anh lúc ấy có 4 vùng England, Scotland, Wales, Irelands), trong khi các ngân hàng khác không được phát hành thêm nữa ngoài số lượng đã phát hành. Năm 1844, Luật ngân hàng (đạo luật Peel) bắt đầu áp đặt mức giới hạn tối đa cho quyền phát hành tiền của các ngân hàng khác. Theo đó, ngân hàng Anh quốc có thể phát hành tiền tệ vô giới hạn, miễn là số tiền đó được đảm bảo 100% bằng vàng. Tuy nhiên, với tính cách ngoại lệ, ngân hàng có thể phát hành một số lượng tiền tệ không đảm bảo như vậy lên tới mức tối đa là 14 triệu Anh kim. Chính đạo luật Peel đã dọn đường độc quyền phát hành cho Ngân hàng Anh quốc sau này. Trong những cuộc khủng hoảng tài chính năm 1847, 1857 và 1866, chính quyền đã cho phép ngân hàng Anh quốc phát hành số lượng tiền vượt quá mức tối đa do đạo luật Peel ấn định. Ngày 1/8/1914, ngân hàng này lại một lần nữa được phép phát hành quá mức tối đa ấn định. Đến năm 1923, ngân hàng Anh quốc được độc quyền phát hành tiền hoàn toàn. Lúc bấy giờ có khoảng 300 ngân hàng phát hành, nhưng ở vào địa vị thứ yếu so với Ngân hàng Anh quốc. Khi bắt đầu thế chiến thứ 1, 300 ngân hàng này rút xuống còn khoảng 30. Với việc được độc quyền phát hành, Ngân hàng Anh đã trở thành nơi cung cấp tài chính cho các hoạt động của chính phủ hoàng gia và là nơi gửi tiền thuế của chính phủ. Một cách tự phát, Ngân hàng Anh tiến thêm bước nữa, làm đại lý cho chính phủ Anh trong các giao dịch với nước ngoài. Từ năm 1854, Ngân hàng Anh bắt đầu trở thành trung tâm thanh toán của các ngân hàng, đưa ra các quy định về lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng cường kiểm soát hoạt động các ngân hàng còn lại. Ngân hàng Anh trở thành thủ lĩnh của mọi ngân hàng. Theo kinh nghiệm của nước Anh, trong cùng khoảng thời gian nói trên, nhiều nước lần lượt giao cho các ngân hàng độc quyền phát hành các quyền kiểm soát dự trữ vàng, kiểm soát tín dụng và thực hiện điều hòa thanh toán cho cả hệ thống ngân hàng trong nước. Đây là bước chuyển tiếp từ ngân hàng phát hành trở thành ngân hàng trung ương. Hệ thống ngân hàng Mỹ Ngân hàng thương mại đầu tiên ở nước Mỹ cũng được thiết kế trở thành ngân hàng trung ương đầu tiên. Ngân hàng Bắc Mỹ (Bank of North America) được Robert Morris lập ra vào mùa xuân 1781. Morris là một thương nhân giàu có tại Philadenphia và Nghị sĩ Quốc hội, rất có thế lực trong cuộc chiến giành độc lập của Hoa Kỳ. Bằng ảnh hưởng cá nhân, Morris nhanh chóng thuyết phục được Quốc hội thông qua điều lệ Ngân hàng Bắc Mỹ theo mô hình Ngân hàng Anh. Nước Mỹ có ngân hàng trung ương đầu tiên. Nhưng một năm sau, vai trò chính trị của Morris sụt giảm nhanh chóng nên Ngân hàng Bắc Mỹ nhanh chóng chuyển sang hoạt động như một ngân hàng thương mại thuần túy. Đến năm 1783, các loại chứng khoán chính phủ, chiếm khoảng 5/8 nguồn vốn của ngân hàng, được bán cho các cá nhân và mọi khoản nợ của chính phủ với Ngân hàng Bắc Mỹ được thanh toán hết. Thử nghiệm ngân hàng trung ương đầu tiên tại Hoa Kỳ kết thúc. Đến năm 1791, Alexander Hamilton (Theo Hitchcock, A. Hamilton là người đại diện cho quyền lợi của gia tộc Rothschild) trình lên quốc hội phương án thành lập First Bank of the United States để giải quyết tình trạng “thiếu tiền”. Chính quyền liên bang nắm quyền sở hữu 1/5 ngân hàng trung ương này, 80% cổ phần còn lại, lẽ dĩ nhiên, thuộc về các đại gia tộc ngân hàng. Ngân hàng mới sẽ có quyền phát hành tiền và đầu tư vào các khoản nợ công và tài trợ tín dụng giá rẻ cho các nhà công nghiệp. Chính quyền liên bang cũng trao cho ngân hàng quyền được lưu ký quĩ và tài sản của chính phủ. Thời gian hoạt động được qui định là 20 năm. First Bank of the United States, BUS được vận hành theo đúng mô hình của Ngân hàng Bắc Mỹ. Thomas Willing, chủ tịch Ngân hàng Bắc Mỹ được mời giữ chức chủ tịch ngân hàng mới. BUS nhanh chóng phát hành nhiều triệu đô-la tiền giấy và khoảng 2 triệu đôla tiền đúc. Tới năm 1796, BUS đã cho chính phủ vay một lượng lớn tiền, 8,2 triệu đô-la. Kết quả là chỉ số giá cả chung tăng gần 72%, từ 85 (1791) lên 146 (1796). Theo sau hoạt động của BUS là làn sóng thành lập các ngân hàng thương mại. Trước khi Hiến pháp được công bố, nước Mỹ có 3 ngân hàng thương mại. Đến thời gian thành lập BUS, số ngân hàng thương mại là 4. Nhưng có tới 8 ngân hàng thương mại nhanh chóng được thành lập trong 2 năm 1791 và 1792, và thêm 10 ngân hàng nữa vào năm 1796. Bản điều lệ thành lập ngân hàng đã được cả hai đảng Dân chủ và Cộng Hòa thông qua và hoạt động của BUS tiếp tục cho tới năm 1811. Số ngân hàng và tổ chức tín dụng tiếp tục tăng lên trong 20 năm này. Năm 1800, nước Mỹ có 28 ngân hàng. Số này tăng gấp 4 lần vào năm 1811: 117 ngân hàng. Khi hết kỳ hạn hoạt động, bản đệ trình xin gia hạn của BUS đã bị bác bỏ do Hạ viện có 65 chiếu chống và 64 phiếu thuận. Nước Mỹ một lần nữa không có ngân hàng trung ương. Hamilton lập ra Ngân hàng New York (Bank of New York) năm 1792, sau này trở thành Ngân hàng Chase Manhattan và sáp nhập với J.P. Morgan thành J.P. Morgan, Chase & Co. Khi các tài sản của BUS được đem bán để giải thể ngân hàng, người ta biết được rằng 18.000 trong tổng số 25.000 cổ phần của ngân hàng thuộc về các nhà ngân hàng Anh và Hà Lan. Thời gian nền kinh tế Mỹ không có ngân hàng trung ương không dài. Năm 1812, cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Anh quốc nổ ra. Theo nghiên cứu của Hitchcock thì với tiền của gia tộc Rothschild và mệnh lệnh trực tiếp từ Nathan Rothschild, quân đội Anh đã được điều động đến nước Mỹ. Chính phủ Hoa Kỳ phải phát hành rất nhiều nợ để tài trợ cho các hoạt động quân sự cực kỳ tốn kém. Đây là cơ hội thuận lợi cho ngành kinh doanh ngân hàng phát triển. Từ 1811 đến 1815, số ngân hàng đã tăng 117 lên 246. Tổng số tiền kim loại các ngân hàng đã phát hành rơi vào khoảng từ 14,9 triệu đô-la (1811) đến 13,5 triệu đô-la (1815). Trong khi đó, tổng lượng tiền giấy và tiền gửi là 42,2 triệu đô-la (1811) đã tăng gần 90% sau 4 năm, đạt con số 79 triệu đô-la (1815). Việc phát hành quá nhiều tiền và tài trợ các khoản chi phí chiến tranh không lồ đẩy các ngân hàng vào tình trạng khó khăn và mất khả năng thanh toán. Chính quyền Hoa Kỳ đã có một quyết định rất khó hiểu là cho phép các ngân hàng có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ thanh toán bằng tiền đúc thay vì chấp nhận phá sản khi không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán. Hiển nhiên, việc này không thể kéo dài mãi. Để giải quyết vấn đề trên, cuối cùng nước Mỹ một lần nữa lại lựa chọn việc thành lập ngân hàng trung ương. Mô hình lần này cũng giống như First Bank of the United States, chỉ khác một chữ trong tên gọi: Second Bank of the United States. Cuộc chiến Anh-Pháp kết thúc cùng năm 1816. Và 80% sở hữu của ngân hàng trung ương Hoa Kỳ ``mới'' thuộc về gia đình Rothschild và những người đại diện. Ngân hàng này có thời hạn 20 năm để thực hiện các chức năng tạo ra một đồng tiền giấy thống nhất trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ, mua phần lớn nợ của chính phủ, và nhận tiền gửi của Bộ Tài chính. Kể từ khi ra đời, BUS2 không ngừng mở rộng lạm phát tiền tệ và tín dụng. Không tuân thủ chặt chẽ yêu cầu đảm bảo thanh toán bằng tiền đúc, ngân hàng đã không huy động đủ 7 triệu đôla tiền đúc để đảm bảo theo luật định. Trong hai năm 1817 và 1818, ngân hàng chưa bao giờ có quá 2,5 triệu đôla tiền đúc mặc dù theo qui định với lượng tiền đã phát hành, BUS2 phải có lượng tiền đúc đảm bảo là 21,8 triệu đôla. Như vậy, trong một năm rưỡi, BUS2 đã bổ sung vào nguồn cung tiền tệ một lượng tiền nhỏ giọt là 19,3 triệu đôla! BUS2 cũng nỗ lực tạo ra một đồng tiền giấy thống nhất giữa các ngân hàng trên toàn quốc. Năm 1832, BUS2 yêu cầu quốc hội thông qua đề xuất gia hạn thời gian hoạt động 4 năm trước khi hết hạn theo giấy phép đã cấp năm 1816. Quốc hội đã thông qua nhưng Tổng thống Jackson cương quyết không chấp thuận. Năm 1936, Second Bank of United States giải tán sau khi điều lệ của ngân hàng không được gia hạn. Tại các quốc gia khác, các Chính phủ cũng lần lượt giao quyền độc quyền phát hành cho các ngân hàng quan trọng. Ở Pháp, năm 1848, với sự rút quyền phát hành của 9 ngân hàng tư nhân lớn khác về các chi nhánh của Ngân hàng Pháp (Banque de France), Ngân hàng Pháp được độc quyền phát hành tiền trên toàn lãnh thổ nước Pháp. Năm 1882, chính phủ Nhật Bản chính thức giao cho Ngân hàng Nhật Bản độc quyền này. Năm 1870, Ngân hành Nga (Bank of Russia) cũng được chính phủ Nga Hoàng giao cho độc quyền phát hành. Năm 1875, Reichsbank và các chi nhánh của nó là ngân hàng duy nhất được quyền tạo tiền trên toàn lãnh thổ nước Đức. Sau đấy một thời gian, chính phủ Hoàng gia Thụy Điển cũng giới hạn quyền phát hành về duy nhất cho Ngân hàng Thụy Điển năm 1897. Đến năm 1913, Quốc hội Hoa Kỳ chính thức nhập 12 ngân hàng lớn nhất của Mỹ thành Hệ thống dự trữ liên bang (FED) và giao cho nó được độc quyền phát hành. Với việc hạn chế quyền phát hành tiền về một ngân hàng duy nhất, những ngân hàng còn lại chỉ còn được hưởng một quyền đó là vay và cho vay tiền tệ. Thế nhưng, cho đến lúc ấy một vài ngân hàng được hưởng quyền độc quyền phát hành vẫn còn tiếp tục tham gia vào hoạt động cho vay và vay trực tiếp với nhân dân như các ngân hàng còn lại. Điều này dẫn đến xung đột và một số mâu thuẫn giữa các ngân hàng phát hành và các ngân hàng còn lại. Do vậy, để sắp xếp một cách tốt hơn cho hệ thống ngân hàng, đầu thế kỷ XX, các chình phủ tiến thêm một bước, không cho các ngân hàng phát hành tiền tiếp xúc với công chúng nữa. Ngân hàng này trở thành ngân hàng trung tâm của các ngân hàng còn lại. Đấy là sự bắt đầu của việc tách rời các bộ phận quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng, báo hiệu cho sự phát triển sang giai đoạn mới của hoạt động này, Giai đoạn hiện đại. V. Thế kỷ XX đến nay(giai đoạn hiện đại): Hai trận chiến tranh thế giới (1914-1918 và 1939-1945), cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) đã cung cấp nhiều bài học về phát hành tiền, việc quản lý tài chính và tác động của chính sách tiền tệ đến các động thái của nền kinh tế vĩ mô như tăng trưởng và suy thoái, thất nghiệp và toàn dụng, ổn định giá cả vá lạm phát Tiền mỗi ngày trở nên quan trọng, khiến cho các chính phủ đều nhận thấy cần phải nắm chắc nó và nắm quyền kiêm soát các ngân hàng trung tâm, cơ quan phát hành tiền. Nhiều nước lần lượt giao cho các ngân hàng trung tâm độc quyền phát hành tiền, quyền kiểm soát dự trữ vàng, kiểm soát tín dụng và điều hoà thanh toán cho cả hệ thống ngân hàng trong nước. Quan niệm về ngân hàng trung ương đã manh nha từ cuối thế ki 19, mãi cho tới gần thế kỉ 20 mới trở nên rõ rệt.Quan niệm đó bắt đầu ra đời từ quan niệm ngân hàng phát hành, rồi những bước phát triển tiếp theo dựa trên nhu cầu điếu hoà khối lượng tiền tệ, điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng, nhu cầu kiểm soát hệ thống ngân hàng. Tiến trình hình thành ngân hàng trung ương trải qua hai giai đoạn: giai đoạn ngân hàng phát hành và giai đoạn ngân hành phát hành biến thành ngân hàng trung ương. ` Cho đến năm 1945, hầu như tất cả các ngân hàng trung ương vẫn là ngân hàng cổ phần tư nhân. Như vậy có thể hiểu là quyền phát hành tiền, điều tiết cung ứng tiền, quản lý lưu thông tiền tệ, đại diện về tài chính cho chính phủ ở trong nước và nước ngoaì vẫn nằm trong tay tư nhân. Lẽ thường, nhiều khi quyền lợi của cơ quan tư nhân tương phản với quyền lợi quốc gia và họ thường hành động vì quyền lơi cá nhân. Chỉ có chính phủ mới phải nghĩ đến toàn cục, cả nước, đến nhân dân. Các ngân hàng phát hành chỉ có chức năng phát hành tiền mà thôi không thể giúp nhà nước điều hoà thị trường tiền tệ, kiểm soát hoạt động của các ngân hàng trung gian, can thiệp trên thị trường tín dụng, điều khiển hoạt động kinh tế hữu hiệu. Do vậy, phải cải biến ngân hàng phát hành thành ngân hàng trung ương để được giao phó những nhiệm vụ và quyền hạn mới như: Điều hoà thị trường tiền tệ. Thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho chính phủ. Lưu giữ các dự trữ tiền tệ của các ngận hàng. Cung cấp tín dụng cho các ngân hàng khác hoặc các tổ chức tài chính. Kiêm soát số lượng tín dung ngân hàng sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế nền kinh tế. v.v... Các nhiệm vụ quan trong đó không thể giao cho một ngân hàng tư hay nhiều ngân hàng tư, vì lẽ đó là điều nguy hiểm, nó làm cho chính phủ không thể điều tiết cung tiền hoàn toàn theo ý mình và hậu quả khó điều tiết nền kinh tế vận động và phát triển đúng hướng. Chính vì vậy sau chiến tranh thế giới thứ hai các chính phủ lần lượt quốc hữu hoá các ngân hàng phát hành, các ngân hàng trung ương, đưa bộ phận đầu não của các ngân hàng này về sở hữu công cộng. Từ nay các ngân hàng trung ương là một định chế công cộng, có nhiêm vụ in và phát hành tiền giấy pháp định, là ngân hàng của chính phủ và ngân hàng của các ngân hàng,quản lý và điều tiêt những vấn đề liên quan đến cung tiền và cùng với chính phủ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngân hàng trung ương không giao dịch trực tiếp với nhân dân về các nghiệp vụ ngân hàng. Ngày nay, ở các nước đều có hệ thống ngân hàng gồm nhiều loại với chức năng và hoạt động khác nhau, Phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hàng ở mỗi nước khác nhau, nhưng có thể chia các ngân hàng trong hệ thống thành hai loại chính: ngân hàng trung ương và các ngân hàng trung gian, ở một số nước ngân hàng trung gian còn được gọi là ngân hàng thành viên. Thế kỷ 20 mở ra bước ngoặt lớn trong lich sử ngân hàng: hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, các ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ, mà đã tạo nên một hệ thống, trong đó ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiển tệ, tin dụng, là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại chuyên kinh doanh tiển tệ, làm những nghiệp vụ một mặt trực tiếp với công chúng, một mặt trực tiếp với ngân hàng trung ương. Ngày nay hệ thống ngân hàng ngày càng được tổ chức thành hệ thống chặt chẽ hơn với sự ra đời của các ngân hàng trung ương độc lập hơn với hoạt động hành chính của chính phù mà còn hình thành các tổ chức quốc tế để giúp hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động lành mạnh hơn. Trong các tổ chức này quan trọng nhất là Ngân Hàng Thế Giới(World Bank) và tổ chức Tiền Tệ Quốc Tế(IMF) chúng ta cũng không thể không nhắc tới Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ, nơi tập trung hầu hết lượng vàng trên thế giới. Ngân hàng thế giới(WB) Nhóm Ngân hàng Thế giới bao gồm năm tổ chức tài chính thành viên, đó là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, Hội Phát triển Quốc tế, Công ty Tài chính Quốc tế, Trung tâm Quốc tế Giải quyết Mâu thuẫn Đầu tư, và Cơ quan Đảm bảo Đa phương. • Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD): được chính thức thành lập ngày 27/12/1945 với trách nhiệm chính là cấp tài chính cho các nước Tây Âu để họ tái thiết kinh tế sau Chiến tranh thế giới II và sau này là cho phát triển kinh tế ở các nước nghèo. Sau khi các nước này khôi phục được nền kinh tế, IBRD cấp tài chính cho các nước đang phát triển không nghèo. • Hội Phát triển Quốc tế (IDA): được thành lập năm 1960 chuyên cấp tài chính cho các nước nghèo. • Công ty Tài chính Quốc tế (IFC): thành lập năm 1956 chuyên thúc đẩy đầu tư tư nhân ở các nước nghèo. • Trung tâm Quốc tế giải quyết mâu thuẫn đầu tư (ICSID): thành lập năm 1966 như một diễn đàn phân xử hoặc trung gian hòa giải các mâu thuẫn giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước nhận đầu tư. • Cơ quan bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA): thành lập năm 1988 nhằm thúc đẩy FDI vào các nước đang phát triển. Chức năng của WB được phân công cho các tổ chức thành viên thực hiện. IBRD và IDA đi vay (phát hành trái phiếu) và cho các nước thành viên vay lại (hiện WB có 184 nước thành viên). Không phải nước thành viên nào cũng được vay WB. - Cá nhân và công ty không được WB cho vay. - Chính phủ của những nước đang phát triển nhưng có thu nhập quốc dân trên đầu người trên 1305 USD/năm được vay của IBRD. Các khoản vay này có lãi suất chỉ cao hơn lãi suất mà WB đã đi vay một chút. - Chính phủ của các nước nghèo, có thu nhập quốc dân trên đầu người dưới 1305 USD/năm (trong thực tế là dưới 805USD/năm) được vay của IDA.Các khoản vay sẽ không đòi lãi suất và có thời hạn lên tới 35-40 năm. Trong hai thập kỳ đầu kể từ khi được thành lập, IBRD đã dành hơn 2/3 tổng giá trị các khoản cho vay của mình cho các dự án phát triển năng lượng và giao thông vận tải. Trong hai thập niên 1960 và 1970, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng vẫn quan trọng nhất, song hoạt động của IBRD và IDA đã rất đa dạng, từ hỗ trợ giáo dục, y tế, dinh dưỡng, kế hoạch hóa gia đình, đến hỗ trợ phát triển nông thôn và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ. Các hoạt động của IBRD và IDA đều trực tiếp liên quan đến giúp đỡ người nghèo và mang hình thức hỗ trợ tài chính lẫn kỹ thuật. Từ thập niên 1980, ngoài đầu tư vào vốn vật chất và vốn con người, IBRD và IDA bắt đầu cho vay để cải cách cơ cấu kinh tế và điều chỉnh chính sách ở các nước đang phát triển.Phản ứng nhạy bén và chú trọng xóa nghèo là các mục tiêu hiện này của IBRD và IDA. IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị trường nhưng là vay dài hạn hoặc cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một sự bảo đảm đối với các nhà đầu tư khác quan tâm tới dự án và khuyến khích họ đầu tư vào dự án. MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi thương mại) để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Cuối chiến tranh thế giới thứ hai, các nước đồng minh bắt đầu nghiên cứu việc trợ giúp các nước phục hồi kinh tế sau chiến tranh, 44 nước (trong đó có Liên xô cũ) đã tham dự Hội nghị tài chính và tiền tệ của Hội quốc liên tổ chức tại Bretton Woods (Mỹ) từ 1-22/7/1944 để soạn thảo điều lệ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Ngày 27/12/1945, điều lệ thành lập IMF đã được 29 nước ký kết. Ngày 1/3/1947 IMF bắt đầu hoạt động và tiến hành cho vay khoản đầu tiên ngày 8/5/1947. Tổng số nước hội viên của IMF cho tới nay là 184 nước, Cộng hòa Đông Timor là nước mới được chấp nhận là thành viên của IMF.         Tôn chỉ hoạt động: Thúc đẩy sự hợp tác tiền tệ quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và tăng trưởng thương mại quốc tế một cách cân đối; tăng cường ổn định tỷ giá; hỗ trợ cho việc thành lập hệ thống thanh toán đa phương; cho các nước hội viên tạm thời sử dụng các nguồn vốn chung của Quỹ với những đảm bảo thích hợp; và rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ mất cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế của các nước hội viên. Nguồn vốn của IMF: chủ yếu là vốn cổ phần của các nước thành viên và tích luỹ của IMF. Ban đầu, mức cổ phần đóng góp phụ thuộc vào tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước đó so với kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, IMF cũng có thể vay vốn trên thị trường tài chính quốc tế để phục vụ cho các hoạt động của mình. Đến ngày 31/8/2004, tổng vốn cổ phần của IMF là 311 tỷ USD . Cổ phần: Các nước thành viên có cổ phần lớn trong IMF là Mỹ (17,46%), Đức (6,11%), Nhật bản (6,26%), Anh (5,05%) và Pháp (5,05%). Cơ cấu tổ chức Cơ cấu hiện hành của IMF gồm có Hội đồng Thống đốc, Ban Giám đốc Điều hành, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và các cán bộ Quỹ.  -  Hội đồng Thống đốc: Bộ phận ra quyết định cao nhất tại IMF. Hội đồng Thống đốc bao gồm các Thống đốc (thường là Thống đốc Ngân hàng Trung ương hoặc Bộ trưởng Tài chính) và một Thống đốc phụ khuyết do từng nước hội viên IMF bổ nhiệm. Hội đồng thống đốc có một số các quyền hạn cụ thể, chẳng hạn như kết nạp hội viên mới, quyết định cổ phần, và phân bổ đồng SDR cũng như các quyền hạn khác không phân cấp cho Ban Giám đốc Điều hành hoặc Tổng Giám đốc. Hội đồng Thống đốc IMF họp Hội nghị thường niên kết hợp với Hội nghị thường niên của Hội đồng Thống đốc Ngân hàng Thế giới. -  Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế: Trước đây gọi là Ủy ban Lâm thời, do Hội đồng Thống đốc IMF thành lập vào tháng 10/1974 với chức năng là để tư vấn cho các Thống đốc về các vấn đề tiền tệ quốc tế. Mỗi thành viên trong số 24 thành viên của Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế cũng là Thống đốc tại IMF, một Bộ trưởng hay một quan chức có chức vụ tương đương. -  Ban Giám đốc Điều hành: gồm 1 Tổng Giám đốc điều hành và 24 Giám đốc điều hành, trong đó 5 Giám đốc điều hành đại diện cho 5 nước có cổ phần lớn nhất tại Quỹ (Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp) và 19 Giám đốc điều hành đại diện cho các nhóm nước có đặc điểm giống nhau về kinh tế địa lý, văn hóa, trừ Nga và Trung quốc có Giám đốc điều hành riêng. -  Tổng Giám đốc: do Ban Giám đốc Điều hành lựa chọn, với nhiệm kỳ đầu tiên là 5 năm. Tổng Giám đốc tham gia vào các buổi họp của Hội đồng Thống đốc, Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế và Ủy ban Phát triển. Ngoài ra, Tổng Giám đốc còn phụ trách các cán bộ IMF. Mỗi Phó Tổng Giám đốc, phụ trách một bộ phận dưới sự chỉ đạo của Tổng Giám đốc, có nhiệm vụ chủ trì các buổi họp của Ban Giám đốc Điều hành và duy trì các mối liên hệ với các quan chức chính phủ của nước hội viên, với các Giám đốc Điều hành, với các cơ quan thông tin và các tổ chức khác. - Cán bộ Quỹ: có khoảng 2700 cán bộ từ hơn 191 nước, được tổ chức thành 5 Vụ khu vực (Vụ Châu Phi, Vụ Châu Âu, Vụ Trung đông và Trung Á, Vụ Châu Á Thái Bình Dương và Vụ Tây Bán cầu); 9 Vụ chức năng và nghiệp vụ đặc biệt (Vụ Tài chính, Vụ Các vấn đề ngân sách, Học viện IMF (bao gồm các học viện tại Washington D.C, học viện Viên, học viện Châu Phi và học viện Singapore), Vụ Các Thị trường vốn quốc tế, Vụ Pháp luật, Vụ các Hệ thống Tài chính Tiền tệ, Vụ  Xây dựng và  Kiểm điểm  Chính sách, Vụ Nghiên cứu, Vụ Thống kê); 3 Vụ về thông tin liên lạc (Vụ Đối ngoại, Văn phòng thông tin liên lạc khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Văn phòng Quỹ tại Liên Hợp Quốc); 3 Bộ phận giúp việc (Vụ thư ký, Vụ Nguồn nhân lực, và Vụ Dịch vụ Tổng hợp và Công nghệ). Ngoài ra, IMF có hơn 60 Văn phòng đại diện tại nhiều nước thế giới có trách nhiệm báo cáo cho các Vụ khu vực tương ứng. Chức năng căn bản của IMF -Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành viên - Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán -Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của các nước thành viên Hoạt động Bất kỳ một nước thành viên nào, khi gia nhập IMF đều phải cho các thành viên khác trong quỹ biết dự định về chuẩn giá trị đồng tiền của nước mình so với đồng tiền của các nước khác để tự kiềm chế và hạn chế việc đổi đồng tiền của họ lấy ngoại tệ, và để theo đuổi những cơ sở kinh tế sẽ làm tăng của cải của nước thành viên đó và của cả cộng đồng các nước thành viên bằng con đường hòa hợp và có lợi Khi gia nhập IMF, mỗi nước thành viên đều phải đóng một khoản tiền nhất định được coi là một khoản lệ phí hội viên.. Số tiền này được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: + Thứ nhất, nó tạo thành một khoản vốn IMF có thể trích ra cho các thành viên vay mỗi khi họ gặp khó khăn về tài chính. + Thứ hai, nó là căn cứ để quyết định số lượng tiền mà nước thành viên được vay và là cơ sở để phân bổ rút vốn lớn đặc biệt (SDR) theo từng thời kỳ cho các nước thành viên. Dĩ nhiên, nước thành viên nào càng đóng góp nhiều thì khi cần nó càng được vay nhiều. + Thứ ba, số tiền ký quỹ này còn có vai trò quyết định quyền bỏ phiếu của nước thành viên. Bản thân IMF là người quyết định số tiền mỗi nước thành viên phải nộp vào quỹ sau khi phân tích đánh giá mức độ giàu có và tình hình kinh tế của nước đó.. Năm 1985, Mỹ đóng 20,l%, khối EEC đóng 27,9%, còn các nước đang phát triển đóng 32,4%. Mức lệ phí này cứ 5 năm lại được xem xét lại, có thể tăng lên hoặc giảm đi tùy theo nhu cầu của IMF và mức độ phát đạt của nước thành viên. Tuy nhiên từ l/4/1978, với sự sửa đổi điều lệ lần thứ hai, việc xem xét và điều chỉnh phần đóng góp của mỗi nước thành viên được quy định 3 năm một lần. Năm 1945, 35 thành viên khi đó đóng góp vào IMF 7,6 tỷ USD, năm 1977 con số đó khoảng 200 tỷ USD. Ngày 6/2/1998 Hội đồng quản trị của IMF đã phê chuẩn kế hoạch tăng 45% ngân quỹ của tổ chức này, từ 199 tỷ USD lên 288 tỷ USD. Cho đến nay, Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, đóng góp nhiều nhất cho IMF, chiếm khoảng 19% tổng số (40 tỷ USD); Marshall Island, một nước cộng hoà đảo ở Thái Bình Dương đóng ít nhất khoảng 3,6 triệu USD. Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) Cục dự trữ liên bang (tiếng Anh: Federal Reserve System – Fed) là ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ. Bắt đầu hoạt động năm 1915 theo "Đạo luật Dự trữ Liên bang" của Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1913. Trong khoảng thời gian từ 1862 đến 1913, hệ thống ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ được hình thành theo Đạo luật Ngân hàng quốc gia 1863. Một loạt các biến động trong lĩnh vực ngân hàng ở Hoa Kỳ vào các năm 1873, 1893 và 1907 cho thấy một hệ thống ngân hàng trung ương là cần thiết để điều phối thị trường. Sau cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng năm 1907, Quốc hội Hoa Kỳ thành lập "Ủy ban tiền tệ quốc gia" với nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cải cách hệ thống ngân hàng. Nelson Aldrich – người đứng đầu đảng Cộng hòa ở quốc hội đồng thời là chuyên gia tài chính, được chỉ định là Chủ tịch Ủy ban. Ông chỉ đạo một cuộc khảo sát tường tận các ngân hàng trung ương Châu Âu và nhận thấy rằng Anh và Đức là hai nước có các ngân hàng trung ương ưu việt hơn hẳn. Năm 1910, Nelson Aldrich tìm kiếm sự giúp đỡ từ các ngân hàng hàng đầu của Hoa Kỳ với mong muốn dự thảo một kế hoạch hoàn chỉnh, xây dựng cho Hoa Kỳ một hệ thống tài chính tiên tiến như của Anh và Đức. Ông cùng các chuyên viên đại diện của các định chế tài chính lớn khi đó là J.P. Morgan, Rockefeller, và Kuhn, Loeb và Công ty, dành riêng một tuần thảo luận tại đảo Jekyll (ngoài khơi bang Georgia). Đại diện của Kuhn, Loeb và Công ty là Paul Warburg (chuyên gia tài chính gốc Đức) chủ trì việc xác lập những ý cơ bản của Đạo luật Dự trữ liên bang. Aldrich sau đó giới thiệu kế hoạch của ông về ngân hàng trung ương với tên “dự luật Aldrich”, đề xuất thành lập "Tổ chức Dự trữ liên bang" (Federal Reserve Association). Dự luật này trở thành một phần trong chính sách của đảng Cộng hòa ở Quốc hội nhưng không được phê chuẩn năm 1911 khi đa số quốc hội thuộc về đảng Dân chủ. Năm 1913, Tổng thống đảng Dân chủ Woodrow Wilson phải tác động để kế hoạch của Aldrich được thông qua dưới sự đỡ đầu của thế lực đảng Dân chủ với tên mới là "Đạo luật Dự trữ liên bang". Frank Vanderlip, người đã tham gia hội nghị ở đảo Jekyll và là chủ tịch National City Bank viết trong tự truyện của mình rằng “mặc dù kế hoạch về Quỹ dự trữ liên bang của Aldrich đã không được thông qua với cái tên của chính ông, nhưng những điểm cơ bản của nó đều nằm trong dự luật sau này được thông qua”. Tổng thống Wilson đã giành ưu thế trước William Jennings Bryan, người đứng đầu phe ủng hộ nông nghiệp trong đảng. Những người thuộc phe này muốn có ngân hàng trung ương của chính phủ mang đặc quyền in ấn và phát hành giấy bạc mỗi khi Quốc hội cần. Woodrow Wilson thuyết phục rằng giấy bạc của Cục dự trữ liên bang chính là nghĩa vụ của chính phủ, do đó chương trình này phù hợp mong muốn của họ. Những nghị sỹ đại diện miền nam và miền tây được tổng thống thuyết phục rằng hệ thống mới ra đời sẽ phân tán ở 12 vùng và sẽ giảm quền lực của New York, tăng quyền lực cho các vùng nội địa. (Trên thực tế, Ngân hàng dự trữ liên bang chi nhánh New York trở thành “số một” trong các Ngân hàng dự trữ liên bang. Ví dụ, nó có đặc quyền tiến hành các hoạt động trên thị trường (phát hành trái phiếu, v.v..) dưới sư chỉ đạo của Ủy ban thị trường của Fed). Carter Glass, nghị sĩ đảng Dân chủ ủng hộ nhiệt liệt dự luật và mang về cho Richmond, Virginia quê ông một Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Bang Missouri có tới hai Ngân hàng nhờ James A. Reed (đảng Dân chủ). Quốc hội thông qua "Đạo luật Dự trữ liên bang" cuối năm 1913. Paul Warburg và các chuyên gia xuất sắc khác được chỉ định điều hành hệ thống non trẻ. the Fed đi vào hoạt động năm 1915 và đóng vai trò chủ chốt tài trợ các nỗ lực chiến tranh của Mỹ và phe liên minh trong Thế chiến thứ nhất. Tháng 07 năm 1979, Paul Volcker được tổng thống Jimmy Carter chỉ định là Chủ tịch Hội đồng thống đốc của Cục dự trữ liên bang khi lạm phát đang gia tăng trầm trọng. Dưới sự lãnh đạo của Paul Volcker, các biện pháp kiểm soát lạm phát đã có hiệu quả và tỷ lệ lạm phát đã giảm nhanh chóng trước năm 1986. Tháng 01 năm 1987, khi chỉ số lạm phát hàng tiêu dùng chỉ là 1%, Fed tuyên bố không còn sử dụng tổng cung tiền tệ M2 làm định hướng kiểm soát lạm phát nữa mặc dù phương pháp này đã rất thành công từ 1979. Trước 1980, lãi suất được sử dụng làm định hướng và lạm phát khi đó rất cao. Việc sử dụng chỉ số tổng cung tiền tệ M2 thay thế lãi suất làm định hướng rất thành công, nhưng Paul Volcker cho rằng nó dễ gây nhầm lẫn. Tháng 08 năm 1987, 07 tháng sau khi thay đổi chính sách tổng cung tiền tệ, Alan Greenspan thay thế Volcker trên cương vị Chủ tịch Hội đồng thống đốc. Và rồi sau 19 năm lãnh đạo Fed rất thành công, huyền thoại của ngành tài chính thế giới, Alan Greenspan nghỉ hưu và chỉ định người kế tục mình, Ben Bernanke. Tính pháp lý và vị trí trong chính quyền Các bộ phận của Cục dự trữ liên bang (Fed) có tư cách pháp lý khác nhau. Hội đồng Thống đốc của Fed là cơ quan độc lập của chính phủ liên bang. Hội đồng không nhận tài trợ của Quốc hội và bảy thành viên của Hội đồng theo cơ chế dân chủ. Thành viên của Hội đồng là độc lập và không phải chấp hành yêu cầu của hệ thống lập pháp cũng như hành pháp. Tuy nhiên, Hội đồng phải gửi báo cáo tới Quốc hội theo định kỳ. Theo luật, thành viên của Hội đồng này chỉ rời chức vụ khi mãn hạn. Hội đồng Thống đốc chịu trách nhiệm việc hình thành và cụ thể hóa chính sách tiền tệ. Nó cũng giám sát và quy định hoạt động của 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ nói chung. Các Ngân hàng dự trữ liên bang (Federal Reserve Banks) về danh nghĩa sở hữu bởi các ngân hàng thành viên (mỗi ngân hàng thành viên giữ cổ phần không có khả năng chuyển nhượng). Theo Tòa án tối cao Mỹ, các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực không phải là công cụ của chính quyền liên bang, chúng là các ngân hàng độc lập, sở hữu tư nhân và hoạt động theo luật pháp ở địa phương. Phán quyết trên cũng cho rằng, các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực có thể được coi là công cụ của chính quyền liên bang theo một số mục đích nhất định. Trong một phán quyết khác ở tòa án cấp bang, sự khác biệt giữa Hội đồng thống đốc và các Ngân hàng được quy định rõ ràng. Các ngân hàng sở hữu Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực là của tư nhân và rất nhiều trong số đó có cổ phiếu phát hành trên thị trường. Giấy bạc do Fed phát hành là nguồn cung tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông qua các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Vai trò và nhiệm vụ Theo Hội đồng thống đốc, Fed có các nhiệm vụ sau: Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia bằng cách tác động các điều kiện tiền tệ và tín dụng với mục đích tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều hòa lãi suất dài hạn Giám sát và quy định các tổ chức ngân hàng đảm bảo hệ thống tài chính và ngân hàng quốc gia an toàn, vững vàng và bảo đảm quyền tín dụng của người tiêu dùng Duy trì sự ổn định của nền kinh tế và kiềm chế các rủi ro hệ thống có thể phát sinh trên thị trường tài chính Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức quản lý tài sản có giá trị, các tổ chức chính thức nước ngoài, và chính phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò chủ chốt trong vận hành hệ thống chi trả quốc gia. Tổ chức Cấu trúc cơ bản gồm Hội đồng thống đốc Ủy ban thị trường các Ngân hàng của Fed các ngân hàng thành viên (có cổ phần tại các chi nhánh) Mỗi ngân hàng Fed khu vực và ngân hàng thành viên của Cục dự trữ liên bang tuân thủ sự giám sát của Hội đồng thống đốc. Bảy thành viên của Hội đồng thống đốc được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ và phê chuẩn bởi Quốc hội. Các thành viên được lựa chọn cho nhiệm kỳ 14 năm (trừ khi bị phế truất bởi Tổng thống) và không phục vụ quá một nhiệm kỳ. Tuy nhiên, một thành viên nếu được chỉ định để phục vụ nốt phần chưa hoàn tất của thành viên khác có thể phục vụ tiếp một nhiệm kỳ 14 năm nữa, ví dụ cựu chủ tịch Hội đồng là Alan Greenspan đã phục vụ 19 năm từ 1987 đến 2006. Ủy ban thị trường gồm 7 thành viên của Hội đồng thống đốc và 5 đại diện từ các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Luôn có một đại diện của ngân hàng Fed tại Quận 2, thành phố New York (hiện tại là Timonthy Geithner) là thành viên trong Ủy ban này. Thành viên từ các ngân hàng khác được luân phiên theo thời gian 2 hoặc 3 năm. Ngành ngân hàng thế giới hiện nay đang rơi vào tình trạng khó khăn bắt nguồn từ tỉ lệ nợ xấu tại các ngân hàng Mỹ tăng cao làm giảm khả năng thanh khoản và tạo ra hiệu ứng lên thị trường tài chính toàn cầu. Trước hết phải kể đến sự biến mất của mô hình đầu tư độc lập (investment bank) của phố Wall.Cả 5 ngân hàng đầu tư độc lập của con phố này đều trải qua một bước ngoặt số phận trong năm 2008:Lehman Brother phá sản,Bear Stearns và Merill Lynch bị thâu tóm, Morgan Stanley và Goldman Sachs phải chuyển đổi sang mô hình ngân hàng tổng hợp Kế đến là hàng loạt vụ giải thể trong lĩnh vực ngân hàng thương mại của Mỹ.Tính đến ngày 15/12/2008,số ngân hàng thương mại của Mỹ phải đóng cửa lên đến con số 25,so với con số 3 ngân hàng bị ngưng hoạt động trong năm 2007 Và Iceland được coi là nạn nhân cấp quốc gia đầu tiên của cuộc khủng hoảng lần này với việc đóng cửa thị trường tài chính của nước này sau khi quốc hữu hóa các ngân hàng nước này Cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng mạnh đến tâm lý của người dân các nước B.LỊCH SỬ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM: Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển của từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng Đất nước. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng  ngân hàng được thiết lập và bảo hộ bởi thực dân Pháp thông qua Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương vừa đóng vai trò là ngân hàng Trung ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), vừa là ngân hàng thương mại. Ngân hàng này là công cụ phục vụ đắc lực chính sách thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho tư bản Pháp. Ngoài ra còn có Hương cảng ngân hàng(1865) và Chi nhánh Charter Bank(1904) Sau chiến tranh thế giới lấn thứ 1,thực dân Pháp thành lập thêm ngân hàng thương mại Pháp(1922) và Ngân hàng Đông Á(1921).Trong giai đoạn này,nhóm tài chính tư bản Việt Nam bắt đầu hình thành,họ góp vốn cho ra đời An Nam Ngân hàng(1927) sau đó đổi thành Việt Nam Ngân hàng Khi bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp ngày một tiến triển mạnh mẽ với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường và mở rộng vùng giải phóng. Sự chuyển biến của cục diện cách mạng cũng đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng cố và phát triển theo yêu cầu mới. Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký  sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam - Ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Nhiệm vụ của Nha Ngân khố quốc gia và Nha Tín dụng sản xuất thuộc Bộ Tài chính được chuyển giao cho Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đảm nhận. Ngay sau khi thành lập, ngày 1- 6- 1951, đã phát hành giấy bạc Ngân hàng để có tiền phục vụ kháng chiến và cải thiện đời sống nhân dân, thu hồi dần các loại tiền do Bộ Tài chính phát hành trước đây. Đồng thời ban hành Điều lệ tạm thời về quản lý ngoại hối giữa vùng tự do và vùng bị địch tạm chiếm. Năm 1952 Quyết định thành lập Ngân hàng quốc gia Liên khu V để triển khai hoạt động và lo ngân khố cho Cách mạng ở Khu V và miền Nam. Năm 1953: Phát hành loại giấy bạc Ngân hàng 5000đ; lấy đồng bạc Ngân hàng quốc gia Việt Nam làm đơn vị tiền tệ. Năm 1954, Sau Hiệp nghị Giơ- ne- vơ, ta gấp rút chuẩn bị tiếp quản vùng bị địch tạm chiếm, và thực hiện việc tập kết ra miền Bắc.Ta đã tiến hành: + Giải thể các chi nhánh Ngân hàng của ta ở miền Nam +Thu hồi tiền và tín phiếu do ta phát hành ở miền Nam +Thu đổi tiền Đông dương và tiền Liên bang. +Thu gọn cấp Ngân hàng khu; +Chuyển hệ thống Ngân hàng xuất nhập khẩu thành Ngân hàng nội địa. Ngày 10- 10- 1954, tiếp quản Nhà băng Đông Dương ở Hà Nội; đặt trụ sở làm việc của Ngân hàng quốc gia Trung ương; tiếp nhận gần 100 viên chức của Ngân hàng và kho bạc dưới chế độ cũ. Ngày 31/12/1954 Bảo Đại ký quyết định số 48 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ở Miền Nam,được tổ chức theo mô hình ngân hàng Tư bản chủ nghĩa. Tại Thông tư số 20/VP - TH ngày 21/1/1960 của Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia ký thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính phủ, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Những năm sau khi Miền Nam giải phóng 1975, việc tiếp quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cộng hoà và các Ngân hàng tư bản tư nhân dưới chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn đã mở đầu cho quá trình nhất thể hoá hoạt động ngân hàng toàn quốc theo cơ chế hoạt động ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tháng 7 năm 1976, đất nước được thống nhất về phương diện Nhà nước, nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất vào NHNN Việt Nam, tạo thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của cả nước. Hệ thống tổ chức thống nhất của NHNN bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và các chi điếm ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước. Căn cứ vào những biến đổi quan trọng về tình hình và nhiệm vụ cách mạng cũng như về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được chia làm 4 thời kỳ như sau: 1.Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch. 2.Thời kỳ  1955 - 1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc xây dựng và chiến đấu, vừa ra sức chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam; mọi hoạt động kinh tế xã hội phải chuyển hướng theo yêu cầu mới. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau; - Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế. - Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và giải phóng Miền Nam. 3. Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam cộng hoà (ở miền Nam)  đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất  tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay. 4. Thời kỳ 1986  đến nay: Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng Việt Nam thể hiện qua một số "cột môc" có tính đột phá sau đây: + Từ năm 1986 đến năm 1990: -Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng đã được hình thành và hoàn thiện dần - Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp. - Trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi: + Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương: + Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình sở hữu khác nhau gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín dụng, QTDND, công ty tài chính... Trong thời gian này,  4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã được  thành lập  gồm: Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam (Agribank); Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV); Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietin Bank); Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcom Bank). + Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng Việt Nam không ngừng đổi mới và  lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng trách của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước trong thiên niên kỷ mới. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá trình đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng - Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB) - Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo. - Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết định số 769/TTg, ngày 18/9/1997). - Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999). - Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMCP. - Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng - Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra. -Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập NHCSXH trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch  tín dụng chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; tiến hành sửa bước 1 Luật NHNNVN. Trải qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, Hệ thống ngân hàng ở nước ta đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu của cuộc cách mạng Việt Nam qua những chặng đường chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thắng lợi vẻ vang, góp phần củng cố nền độc lập, tự chủ, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.Để ghi nhận những cống hiến to lớn của toàn ngành Ngân hàng trong hai cuộc kháng chiến với những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã phong tặng và thưởng nhiều danh hiệu cao quý cho nhiều tập thể, cá nhân của ngành. Trong đó, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập, năm 1996 ngành NH đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, 94 đồng chí được trao tặng các Huân chương công trạng bậc cao từ Huân chương Hồ Chí Minh đến các Huân chương độc lập hạng nhất, hạng nhì, hạng ba. Tại Đại Hội thi đua yêu nước ngành Ngân hàng lần thứ IV tháng 9/2000, Đảng Nhà nước và ngành Ngân hàng đã trao tặng danh hiệu anh hùng lao động và hàng ngàn Huân, Huy chương, Bằng khen các cấp cho các tập thể và cá nhân của ngành về những thành tích trong thời kỳ đổi mới.Cho đến ngày hôm nay, hệ thống ngân hàng vẫn là nhân tố nòng cốt, tích cực  trong công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vận hành bằng cơ chế kinh tế thị trường có sự  quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền văn minh tiền tệ Việt Nam đã từng bước được khẳng định thông qua tính ổn định giá trị, tính đa dạng về phương tiện thanh toán thay tiền mặt và không ngừng hoàn thiện các công nghệ điều hành cũng như công nghệ kinh doanh hiện đại hướng về các nhu cầu tiện ích đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân. Sự lớn mạnh và thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng ngày càng hiện đại phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế cùng với sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của ngành trong hơn nửa thế kỷ qua chắc chắn Ngân hàng Việt Nam cũng sẽ không phụ lòng tin của Đảng, của nhân dân và của bạn bè quốc tế. Với nhiệm vụ quan trọng là "một người chiến sỹ xung kích" trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trước những thách thức và thời cơ của xu thế hội nhập và toàn cầu hoá trong giai đoạn phát triển mới. C/TỔNG KẾT Ngành ngân hàng ngày càng có vai trò to lớn trong nền kinh tế hiện đại.Với việc ứng dụng hệ thống ngân hàng điện tử vào cuộc sống,việc thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên quen thuộc với mọi người dân thì vai trò của ngành ngân hàng ngày càng được nâng cao và ảnh hưởng của nó đến kinh tế thế giới ngày càng sâu sắc. Có lẽ đến khi nào xã hội không còn dùng tiền và không còn tín dụng, cho vay thì tương lai của ngành ngân hàng mới hết xán lạn Hiện nay là thời kỳ khó khăn của ngành ngân hàng nhưng cũng chính là cơ hội để ngành này nhìn lại cơ cấu quản lý cũng như hoạt động của mình để có thể làm tốt hơn nhiệm vụ của mình trong tương lai Sau đây là một số thông tin bổ sung về cac ngân hàng trên thế giới cho các bạn tham khảo Ngân hàng tư nhân lâu đời nhất Ngân hàng Barclays, do John Freame và Thomas Gould thành lập năm in 1690, đổi tên thành Barclays vào năm 1736. Ngân hàng Hope \& Co., thành lập năm 1762. Ngân hàng Barings thành lập năm 1806. Ngân hàng Rothschild, do gia đình Rothschild vận hành từ những năm 1700 đến nay. Ngân hàng quốc gia lâu đời nhất Ngân hàng Quốc gia Thụy Điển, 1668 — khởi đầu cho làn sóng hình thành các Ngân hàng Quốc gia. Ngân hàng Quốc gia Anh, 1694 - Bắt đầu cuộc cách mạng hình thành các chính sách về Ngân Hàng Trung Ương hiện đại. Ngân hàng Quốc gia Mỹ, 1874 - Sự ra đời của công nghệ séc và thanh toán trung ương. Ngân hàng Pennsylvannia Land, 1723 với sự ủng hộ của Benjamin Franklin. Ngân hàng Vương Quốc Persia (Iran), 1889 — Bắt đầu lịch sử ngân hàng Trung Đông

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8000.doc
Tài liệu liên quan