Tiểu luận Lịch sử truyền hình

MỞ ĐẦU Trong sự vận động lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí ra đời khá muộn. Phải đến cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, những tờ báo đầu tiên mới xuất hiện ở một số nước châu Âu. Ở nước ta, báo in bằng chữ quốc ngữ xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX, khởi đầu là tờ Gia Định báo (ra số đầu tiên ngày 1-4-1865). Trong báo chí, có các thể loại báo chí như : báo in, báo phát thanh, báo truyền hình, báo mạng điện tử. Truyền hình tuy ra đời sau so với báo in hay phát thanh nhưng với thế mạnh về sự tích hợp các loại hình truyền thông và sử dụng hình ảnh sống động, âm thanh, ngôn từ, tác động đến hàng triệu người cùng một lúc đã làm cho truyền hình nhanh chóng trở thành một loại hình truyền thông có sức nặng và sự “công phá” rất lớn trong các vấn đề mà báo chí đề cập. Đặc biệt, trong thời đại công nghệ số ngày nay, với sự biến chuyển nhanh chóng của xã hội, nhiều vấn đề được đặt ra cần sự vào cuộc của báo chí mà trong đó cần những bước đi tiên phong của truyền hình. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều công nghệ mới được ứng dụng vào trong truyền hình nh ư truy ền h ình Với hình ảnh và âm thanh sinh động cùng với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ, truyền hình ngày càng khẳng định vị thế cũng như sức mạnh to lớn của mình trong đời sống xã hội. Luận văn gồm 3 chương, dài 46 trang

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1728 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lịch sử truyền hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n quyền hàng nghìn phim nước ngoài ăn khách chất lượng đẹp hiện nay để chiếu trên VTC HD. Những gia đình có tivi LCD hoặc Plasma full HD màn hình lớn sẽ có thể thưởng thức phim chất lượng đẹp gần như phim nhựa chiếu ở rạp” – Ông Lê Đoàn Quân khẳng định. Năm kênh HDTV nước ngoài bên cạnh ba kênh tiếng Việt phát trên sóng VTC gồm kênh thể thao ESPN HD, kênh địa lý quốc gia National Geographic HD, Truyền hình Trung ương Trung Quốc CCTV-HD, kênh thời trang Fashion TV HD, kênh Luxe TVHD. Ông Quân cho hay, VTC sẽ phát sóng các kênh truyền hình HDTV qua vệ tinh. Với dung lượng yêu cầu để phát sóng HDTV rất lớn nên VTC đã phải mua tới hai bộ phát đáp trong tổng dung lượng 20 bộ phát đáp (bộ thu – nhận tín hiệu) của vệ tinh VINASAT-1. Để xem được truyền hình HDTV, người sở hữu tivi LCD hoặc Plasma phải mua bộ thu tích hợp giải mã truyền hình số vệ tinh độ nét cao chuẩn HD bao gồm chảo thu có đường kính 60 – 80 cm và đầu giải mã tín hiệu. Theo công bố của VTC, bộ thu có giá 3.530.000 đồng này ngoài thu được tám kênh truyền hình HDTV còn thu được 30 kênh truyền hình chuẩn SDTV thông thường mà các đài truyền hình đang phát hiện nay. Nhà nào cũng được xem HDTV. HDTV là một công nghệ truyền hình ảnh với độ nét cao. Hình ảnh phát từ đài truyền hình được chia làm các ô nhỏ (hay có thể gọi là điểm ảnh) rồi truyền đến tivi của người xem. Số lượng điểm ảnh trong HDTV cao hơn đến năm lần trong truyền hình tiêu chuẩn SDTV hiện nay mà VTV các đài truyền hình địa phương đang phát sóng. Đài truyền hình Việt Nam - VTV cũng đang triển khai thực hiện hai dự án phát truyền hình HDTV, một dự án phát mặt đất (tín hiệu thu qua antena bình thường rồi được giải mã qua đầu thu trước khi hình ảnh phát qua tivi) và một phát qua cáp quang. Ông Ngô Thế Trị - Giám đốc Trung tâm Tin học và Đo lường VTV, đơn vị thực hiện dự án phát HDTV mặt đất - cho biết ngoài mua các kênh truyền hình HDTV của nước ngoài, VTV sẽ tự sản xuất các chương trình truyền hình độ phân giải cao. Ông Trị nhận định, HDTV sẽ thay thế hoàn toàn truyền hình truyền thống hiện nay. “Chậm nhất là năm năm nữa, truyền hình HDTV sẽ thay thế hoàn toàn chuẩn SDTV truyền thống hiện nay” – Ông Trị khẳng định. Giám đốc VTC Mobile Lê Đoàn Quân cũng cho rằng xu thế HDTV là tất yếu trong thời gian rất ngắn và nhà nhà sẽ xem truyền hình HDTV. Theo ông Quân, có hai lý do cho thấy truyền hình HDTV sẽ phổ biến. Trước hết là tivi LCD và Plasma ngày càng rẻ. Hiện đã có thể mua tivi LCD 32 inch với giá năm triệu đồng. Các hãng sản xuất đang chuyển hướng sang sản xuất tivi bóng hình CRT thông thường sang tivi LCD với kích cỡ nhỏ nhất là 32 inch. Sony mới đây đã tuyên bố ngừng sản xuất tivi bóng hình CRT kích cỡ 4:3. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ khuôn hình 16:9 của HDTV phù hợp hơn cho mắt của người xem và cũng mang lại nhiều thông tin hơn so với khuôn hình 4:3 của SDTV. Bên cạnh đó, các đài truyền hình lớn đang vào cuộc ráo riết để phát truyền hình HDTV nên thiết bị thu ngày càng rẻ, nội dung chương trình phong phú hơn. “Với công nghệ được cập nhật liên tục hiện nay, vấn đề dung lượng quá lớn của HDTV sẽ được giải quyết triệt để. Vấn đề hiện nay đầu tư mua máy thu hình HDTV từ phía người xem” - Ông Ngô Thế Trị nói. Theo ông Trị, VTV sẽ phát sóng theo chuẩn HDTV ở cả truyền hình quảng bá (không mất tiền) và truyền hình trả tiền (cáp, mặt đất). Theo Tienphong IPTV 'đua' với truyền hình truyền thống tại Việt Nam Internet qua cáp truyền hình Nếu như trước đây, khách hàng thuê bao các kênh truyền hình qua cáp chỉ có được một dịch vụ duy nhất thì nay mọi chuyện đã khác... Ngoài xem truyền hình với số kênh ngày càng phong phú, họ có thể lướt web với tốc độ truy cập lên tới 10 Mbps. Ngay tại Mỹ, quốc gia đi đầu thế giới về công nghệ thông tin, trong tổng số 90 triệu thuê bao truyền hình cáp thì cũng mới có hơn 30 triệu thuê bao truy cập Internet qua mạng truyền hình cáp (cable modem). Nhưng xu hướng tương lai cho thấy một thanh niên ghiền Internet sẽ bỏ bớt thời gian giải trí với truyền hình mỗi ngày một hoặc hai tiếng đồng hồ để lướt web, nơi anh ta tìm thấy những dịch vụ giải trí đa dạng, hấp dẫn và hoàn toàn mang tính chất riêng tư. Ngoài ra, cable modem tăng tốc lướt web cho người sử dụng lên đến hàng chục megabit mỗi giây và nó trở thành hạ tầng lý tưởng để cung cấp dịch vụ truyền hình theo yêu cầu (video-on-demand) trên Internet. Sức quyến rũ của Internet càng lớn khi nó có khả năng thay thế được các kênh truyền hình truyền thống, khi khán giả được thưởng thức những kỹ xảo điện ảnh, truyền hình với âm thanh, màu sắc và hình ảnh hoành tráng sống động. Người ta đang chứng kiến sự xuất hiện của hàng loạt đài truyền hình trên Internet và thậm chí có thể xuất hiện loại tivi mới, thay vì nối với ăngten hay cáp đồng trục, chiếc tivi này có cổng vào là một card mạng LAN để nối với những đài truyền hình trên Internet! Lướt web sẽ không chỉ còn đơn thuần là đọc chữ, xem ảnh nữa, mà giờ đây nó bao hàm cả việc xem truyền hình và chơi game trực tuyến. Tốc độ, giá rẻ khuyến mãi thêm truyền hình Tại Việt Nam, dịch vụ truy cập Internet trên mạng truyền hình cáp (cable modem) đã bắt đầu xuất hiện. Đi tiên phong trong lĩnh vực này là dịch vụ Cable Home và BizNet Cable của Trung tâm viễn thông Thế hệ mới Việt Nam (VNGT) (//cable.vngt.vn) triển khai trên mạng truyền hình cáp của công ty truyền hình cáp Hà Nội (BTS). Do vừa thử nghiệm vừa phát triển nên số thuê bao của sử dụng dịch vụ này còn rất ít, chưa tới 1.000 thuê bao và tập trung chủ yếu ở các quận trung tâm Hà Nội. Hiện dịch vụ "cable modem" của VNGT được chia thành hai gói dịch vụ chính: - Cable Home - dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao dành cho đối tượng khách hàng là hộ gia đình với mức giá cước được điều chỉnh để phù hợp với thu nhập của khách hàng tại VN: mức cước thuê bao tháng khởi điểm từ 100.000 đồng/tháng kèm theo tám tiếng miễn cước download mỗi ngày. - BizNet Cable - dịch vụ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trọn gói cho phép các cơ quan doanh nghiệp truy cập Internet với tốc độ download tối đa 10 Mbps, upload tối đa 2 Mbps (cao hơn tốc độ tối đa 8 Mbps download và 600 kbps upload của ADSL), ngoài ra thuê bao BizNet Cable còn được sử dụng không hạn chế 10 hộp thư điện tử email, một tên miền cấp ba và 5 MB web hosting kèm theo, với mức chi phí ước lượng từ 230.000 - 1.300.000 đồng/tháng. Trong khi đó, tuy ra đời sau nhưng với lợi thế có sẵn khách hàng, Công ty truyền hình cáp Saigontourist (SCTV) cho biết khả năng đáp ứng của SCTV là 10.000 khách hàng/tháng. Dự kiến ngày 15/8 tới đây, SCTV sẽ chính thức khai trương dịch vụ MediaNet. Khách hàng hiện đang sử dụng dịch vụ truyền hình cáp của SCTV chỉ cần khai báo sử dụng thêm dịch vụ MediaNet và mua thêm một cable modem là có thể sử dụng Internet. Mức giá dịch vụ MediaNet trên cáp truyền hình dự kiến sẽ rẻ hơn hoặc bằng với thuê bao ADSL được cung cấp hiện nay. Truyền hình trực tuyến (IPTV) đang chiếm thị phần ngày một lớn ở các nước có hạ tầng ADSL và cáp quang phát triển như Mỹ và châu Âu nhưng vẫn còn là khái niệm tương đối mới ở Việt Nam. IPTV (Internet Protocol Television) là hình thức sử dụng những tiến bộ công nghệ mới nhất, cho phép các chương trình truyền hình được phát trên Internet và người xem chỉ cần một máy tính kết nối mạng, hoặc bộ giải mã tín hiệu (set-top box) để thưởng thức nội dung họ mong muốn. Tại châu Á, mô hình này đang bắt đầu phá vỡ thế độc quyền của các kênh truyền hình truyền thống. Trong năm 2008, thị trường IPTV tại Trung Quốc đạt 36,3 triệu USD và giới phân tích ước đoán con số này sẽ tăng trưởng gấp 6 lần lên 201 triệu USD trong năm nay. Ở Việt Nam, các kênh truyền hình cáp và analog chỉ có thể phủ sóng trong nước còn truyền hình kỹ thuật số qua vệ tinh (DTH) cần có khoản đầu tư lớn mới có thể phát triển ra thế giới. Do đó, lợi thế của IPTV là tận dụng hạ tầng mạng Internet sẵn có và khả năng kết nối toàn cầu. Người dùng còn có thể xem lại mọi chương trình họ thích mà không bị lệ thuộc vào thời gian phát sóng của Đài. Một số kênh truyền hình trực tuyến đang tìm lối đi riêng khi mà những dịch vụ tiện ích của truyền hình truyền thống chưa đủ thỏa mãn nhu cầu của thời đại công nghệ số. Song song với sự phát triển về dịch vụ ADSL, nhà nước cũng đã có chính sách mở hơn, cho phép tư nhân tham gia vào lĩnh vực sản xuất chương trình và sở hữu các kênh truyền hình riêng. Hiện nay, iTV là dịch vụ truyền hình theo yêu cầu duy nhất tại Việt Nam do FPT cung cấp. Tín hiệu được truyền qua hạ tầng mạng ADSL và thông qua bộ giải mã truyền thẳng lên TV. Ngoài những tiện ích thông thường, iTV còn cho phép xem lại các chương trình đã phát trong vòng 48 giờ của nhiều kênh nổi tiếng. Trong khi đó, chỉ có NetTV.vn, do công ty DINIL và Tổng công ty truyền thông đa phương tiện Việt Nam (VTC) phát triển, là kênh truyền hình trực tuyến thời gian thực trong nước đầu tiên. Những chuyên mục như Công nghệ và cuộc sống, Thị trường tiêu dùng, Mua sắm, Ẩm thực... đều được NetTV tự dàn dựng và sản xuất độc lập chứ không mượn lại chương trình của các kênh khác. Theo bà Nguyễn Mai Anh, Giám đốc truyền thông của NetTV, một trong những trở ngại cho sự phát triển IPTV tại Việt Nam là yêu cầu đường truyền ADSL phải đạt trên 300 Kb/giây trong khi các hộ gia đình thường chọn gói dịch vụ giá rẻ với tốc độ chỉ bằng 1/3. Tuy nhiên, Việt Nam nằm trong số những quốc gia châu Á có mức tăng trưởng Internet cao, là cơ sở để giới truyền thông tin tưởng vào tương lai của mô hình truyền hình này trong khoảng 5 năm tới. Hơn nữa, hãng nghiên cứu thị trường Infonetics (Mỹ) dự đoán doanh thu IPTV sẽ đạt 44 tỷ USD trong năm 2009 còn công ty ABI Research cho rằng sẽ có khoảng 120 triệu thuê bao vào 2010 với tốc độ phát triển mạnh nhất ở châu Âu, Trung Đông và châu Á. Truyền hình tương tác – Tăng tính chủ động của khán giả Năm 2007 có hơn 1 tỉ chiếc điện thoại di động mới đã được bán ra, nâng tổng số điện thoại di động của người sử dụng hiện nay lên gần 3 tỷ chiếc – tương đương gần nửa số dân thế giới. Đây là một trong những phương tiện góp phần không nhỏ gia tăng sự tương tác của khán giả với truyền hình. Nhờ sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, sự tiếp nhận thông tin, mức độ tương tác của khán giả với chương trình truyền hình ngày càng chủ động và phong phú. Một số mức độ tương tác giữa khán giả với truyền hình Thứ nhất: tương tác đơn giản – có thể hiểu là sự tương tác với chiếc tivi. Người xem hoàn toàn chủ động trong việc tiếp nhận, lựa chọn nội dung thông tin. Chương trình phù hợp thoả mãn với nhu cầu của khán giả, họ tiếp tục theo dõi còn không thì người xem sẽ nhanh chóng chuyển kênh. Việc tương tác - chuyển đổi thường được thực hiện thông qua chiếc điều khiển (remote). Hình thức tương tác này thể hiện sự quan tâm, tán thành hoặc không tán thành; yêu thích hoặc không của khán giả đối với chương trình. Chẳng hạn, khán giả đang theo dõi chương trình tin tức thời sự nhưng một số thông tin trong bản tin chậm hơn so với các loại hình báo chí khác đồng thời hình thức thể hiện lại không có gì sinh động, không hấp dẫn được người xem, để không mất thời gian họ có thể chuyển kênh và vô số chương trình, chuyên mục hấp dẫn khác đang chờ đón họ. Thứ hai: Tương tác phức hợp - tương tác để mở rộng thông tin. So với mức độ thứ nhất thì ở đây hình thức tiếp cận thông tin của khán giả phức tạp hơn. Ngoài thông tin được cung cấp từ truyền hình, người xem có thể mở rộng thông tin về vấn đề đó bằng việc tìm kiếm, trao đổi, thảo luận với bạn bè, với những người làm chương trình qua mạng internet hay điện thoại di động. Với mức độ này thông tin mà khán giả nhận được không còn bị bó hẹp ở việc nhà đài cho “ăn” món gì được thưởng thức món đó nữa mà thông tin của đài chỉ là những chấm phá, gợi mở từ đó khán giả chủ động khám phá tận cùng của vấn đề. Với hình thức này khán giả thực sự hiểu rất sâu vấn đề. Tuy nhiên để hình thức tương tác này có thể thực hiện được thì khán giả phải có trong tay ít nhất một phương tiện công nghệ đó có thể là một chiếc điện thoại di động hoặc một máy vi tính nối mạng. Thực tế điều kiện này đặt ra cũng không phải là khó đối với đối với đông đảo bạn xem truyền hình sống trong thời đại công nghệ cao như hiện nay. Theo thống kê của hãng IDC (Công ty chuyên nghiên cứu thị trường điện thoại toàn cầu), năm 2007 có hơn 1 tỉ chiếc điện thoại di động mới đã được bán ra, nâng số điện thoại di động của người sử dụng hiện nay lên gần 3 tỷ chiếc – tương đương số dân nửa thế giới. Đây là một trong những phương tiện góp phần tăng sự tương tác của khán giả với truyền hình. Tin nhắn SMS đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Trung bình mỗi tháng trong năm vừa qua có hơn 5 tỷ tin nhắn đã được gửi đi trên toàn thế giới so với con số gần 2,8 tỷ so với năm ngoái. Và việc số lượng máy tính nối mạng toàn cầu để truy cập thông tin ở các trang web hay xem phim, nghe nhạc xem tin tức truyền hình cũng ngày một gia tăng. Như vậy, với sự hỗ trợ của công nghệ việc tham gia một cách chủ động của khán giả vào chương trình là hoàn toàn có thể chỉ có điều mỗi đài truyền hình tận dụng và phát huy những ưu thế của hình thức truyền hình mới này như thế nào mà thôi. Hiện nay, để tăng khả năng tương tác ở mức độ này, nhiều chương trình, đài truyền hình đã cung cấp số điện thoại, địa chỉ emai, trang web…để khán giả có thể vào đó trao đổi, thảo luận làm rõ hoặc mở rộng thông tin. Ở Việt Nam thời điểm này có rất nhiều chương trình đang sử dụng thường xuyên hình thức này. Chẳng hạn, kênh HTV9 có chương trình Nói và làm, Trung tâm truyền hình Việt Nam ở Cần Thơ có Toàn cảnh đồng bằng sông Cứu Long…và rất nhiều chương trình của các đài địa phương được phát sóng trực tiếp. Trong quá trình thực hiện liên tục số điện thoại được thông báo để khán giả cần trao đổi có thể kết nối được ngay với những người tham gia chương trình. Chương trình Sức sống mới, Làm giàu không khó phát sóng trên VTV1 ngoài số điện thoại, email còn cung cấp trang web, tại đây khán giả xem truyền hình có thể xem lại chương trình nếu chưa có điều kiện xem trên tivi và cập nhật mở rộng thêm những thông tin về chương trình. Mới đây, Đài truyền hình Việt Nam có thêm kênh VTV6 - kênh truyền hình tương tác dành cho thanh thiếu niên, ngoài được theo dõi những chương trình trẻ trung, hấp dẫn trên truyền hình, các khán giả đặc biệt là lứa tuổi “teen” còn  có thể đăng nhập vào các diễn đàn để trao đổi, trình bày quan điểm về một vấn đề. Thứ ba: Tương tác hợp tác – tương tác với nội dung chưong trình. Hình thức tương tác này có thể hiểu giữa nguồn phát và người xem truyền hình cùng hợp tác, có sự trao đổi để tạo ra một chương trình hợp lý, hấp dẫn. Ở hình thức này mức độ tương tác là rất cao. Nó mang tính bản chất nhất của hình thức tương tác truyền hình. Ở đây thông tin trao đổi hai chiều rất rõ nét. Khán giả ngoài việc được bình luận, bày tỏ quan điểm còn có thể được trực tiếp tham gia vào diễn biến của chương trình, tham gia sáng tạo làm chương trình. Có thể kể ra một số ví dụ cho mức độ tương tác này đã được thực hiện ở Việt Nam chẳng hạn như VietnamIdol, Nhật ký Vàng Anh hay trong các chương trình trò chơi truyền hình. Sức hấp dẫn của  truyền hình tương tác Năm 2006, Nhật ký Vàng Anh phát sóng trên VTV3 gần như là chương trình đầu tiên đưa đến một hình thức xem phim mới. Đó là việc đưa ra các phương án giải quyết tình huống phim, từ đó đạo diễn, biên kịch sẽ dựa vào ý kiến khán giả để xây dựng những tập tiếp theo của bộ phim. Không ít tập phim trở nên phong phú, khán giả là người quyết định số phận nhân vật. Trong những chương trình trò chơi truyền hình tương tác, vai trò của khán giả cũng rất lớn. Người thực hiện chương trình không thể quyết định được ai thắng, đội nào thua. Khán giả, người chơi có vai trò quan trọng gần như định hướng, quyết định diễn biến của trò chơi. Chương trình Vui cùng Hugô (Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội); Ai là triệu phú, Đấu trường 100 (Đài truyền hình Việt Nam), Thử thách (HTV7)… là ví dụ. Hay trong chương trình Vietnam Idol - một cuộc thi chọn giọng ca trẻ tài năng của Việt Nam, thông qua hệ thống bình chọn tin nhắn SMS trực tiếp khán giả là người tham gia tích cực vào việc bình chọn, góp phần quyết định thứ bậc của giải. Gần đây nhất, Như chưa hề có cuộc chia ly được phát sóng trên kênh VTV1, Kết nối trẻ của VTV6 - Đài truyền hình Việt Nam, Đấu giá cuối tuần của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội, … là những minh chứng cho sự phong phú của hình thức, mức độ tương tác truyền hình, đặc biệt là mức độ thứ ba – tương tác với nội dung. Từ kết quả phân tích, lựa chọn của khán giả những người làm chương trình lấy đó làm cơ sở để xây dựng nội dung tập tiếp theo của chương trình. Như vậy có thể thấy rằng ý kiến của khán giả có ảnh hưởng rất lớn tới chương trình, thậm chí thay đổi hẳn nội dung, hướng giải quyết của chương trình ở những số phát sóng sau. Có chương trình số lượng khán giả tham gia bình chọn đã lên tới hàng vạn người. Những con số đó không những phản ánh mức độ quan tâm của khán giả đối với chương trình mà nó còn thể hiện mức độ thích thú cuả người xem đối với một hình thức tiếp nhận, cung cấp thông tin mới. Nắm bắt những thế mạnh này của truyền hình tương tác mà nhiều kênh truyền hình, đài truyền hình trên thế giới đã đạt được những thành tựu đáng kể. Mới đây vào ngày 16/10/2007, kênh truyền hình Current TV (Mỹ) có sự tham gia của cựu Phó Tổng thống Mỹ Algore đã được trao giải thưởng Emmy – 1 giải thưởng danh giá cho những kênh truyền thông xuất sắc. Giật được giải thưởng lớn này bởi trong bối cảnh cạnh tranh thông tin gay gắt nhưng Current TV đã biết tìm ra một hướng đi trong cách xây dựng thông tin, hình ảnh luôn mang phong cách riêng, kênh đã biết tận dụng tối đa ý kiến, ý tưởng của khán giả (30% chương trình của Current TV là do khán giả quan tâm, yêu thích chương trình sản xuất gửi tới). Currente TV đã tạo nên 1 kênh thông tin rộng rãi, 1 diễn đàn chủ động trong khán giả. Tất cả điều đó là cốt lõi của truyền hình tương tác. Hiện  nay, cùng với Currente TV nhiều kênh truyền hình của Mỹ và các nước có nền truyền hình phát triển trên thế giới cũng đang tìm thị trường ở hướng đi này đó là truyền hình tương tác. Công ty nghiên cứu thị trường Isuppli (Mỹ) dự đoán đến năm 2010, 63 triệu khách hàng toàn cầu sẽ thích thú và thành thạo với dạng truyền hình này và doanh thu đạt tới 27 tỷ đô so với thu nhập khiêm tốn hiện nay là 2 triệu. Truyền hình tương tác - một hướng đi mới của truyền hình hiện đại. Tương tác trong truyền hình phản ánh sự kết hợp giữa sự tác động to lớn của truyền hình trong đời sống xã hội với những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin đang đem lại cho truyền hình những khả năng mới, sức hấp dẫn mới. Những tiến bộ của công nghệ đã, đang cho phép tăng cường tương tác nhiều hơn, tạo điều kiện thuận lợi để khán giả và những người sản xuất chương trình sát cánh bên những chương trình truyền hình hấp dẫn và thiết thực hơn. Sức hấp dẫn của truyền hình tương tác với nhà đài, với công chúng ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội của hình thức truyền hình mới này đem lại thì không ít những thách thức cũng đang đặt ra cần giải quyết. Để truyền hình tương tác phát triển lành mạnh, để sự tham gia của công chúng ngày càng chủ động, tích cực thì cần tới nhiều yếu tố. Trong đó cần tính tới trang bị, tích hợp công nghệ hiện đại để có thể phát huy tối đa ưu việt của hình thức tương tác. Nhưng hơn thế nữa, như đã phân tích ở trên, truyền hình tương tác góp phần tăng tính chủ động của người xem, thúc đẩy sự tham gia của khán giả với chương trình. Song điều cần hướng tới là làm sao để sự tham gia của công chúng truyền hình thật sự tích cực, hiệu quả. Để giải quyết tốt điều này cần phải tính tới cơ chế quản lý, cách thức phân tích, tổng hợp, thẩm định, sàng lọc ý kiến, phản hồi ngược từ công chúng để từ đó không chỉ xây dựng những chương trình gần gũi, thân thiện, phù hợp nhu cầu chính đáng của khán giả, mà còn hướng người xem tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Có như vậy truyền hình tương tác mới phát triển một cách lành mạnh và đó mới thực sự là hướng đi tích cực của truyền hình hiện đại. Với hình ảnh và âm thanh sinh động cùng với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ, truyền hình ngày càng khẳng định vị thế cũng như sức mạnh to lớn của mình trong đời sống xã hội. Nhưng để phát huy hơn nữa thế mạnh đó và có thể cạnh tranh với sự phát triển không ngừng của các loại hình truyền thông khác trong xã hội hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công chúng, truyền hình cần có nhiều sự đổi mới về cả nội dung, hình thức lẫn cách thức truyền tải thông tin. Một trong những “chiêu” góp phần thu hút, hấp dẫn khán giả  đó là tăng cường sự tham gia, sự tương tác của người xem với các chương trình truyền hình. Các bạn thích ca khúc và cách biểu diễn của ca sĩ nào trong “show” diễn đêm nay hãy soạn tin nhắn theo mẫu…và gửi đến số…. ý kiến của bạn sẽ hiện ngay phía dưới màn hình tivi đồng thời đó cũng là một đóng góp quan trọng trong việc xếp thứ hạng của các ca sĩ trong cuộc thi này. Hay, quý vị đồng ý với phương án nào trong bộ phim vừa rồi hãy bình chọn tìm ra phương án xử lý, ngay trong tập phim sau phương án được nhiều khán giả bình chọn nhất sẽ được thể hiện. Hãy suy nghĩ sau đó gọi điện thoại hoặc nhắn tin ngay cho chúng tôi… Hình thức này không chỉ xuất hiện như nấm sau mưa trên kênh truyền hình của những nước có ngành truyền hình phát triển mà hiện nay đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam. Có thể dễ dàng nhận thấy hình thức này ở một số chương trình truyền như: chương trình Vietnam Idol, Sao Mai điểm hẹn, Nhật ký Vàng Anh, Như chưa hề có cuộc chia ly hay những chương trình trò chơi giải trí, chương trình thể thao…đang phát trên sóng truyền hình Quốc gia và một số đài truyền hình địa phương. Hình thức này đã trở thành “cơn sốt” trong khán giả, đặc biệt là giới trẻ - những người năng động, thích thể hiện chính kiến của mình. Với hình thức này họ có thể dễ dàng gửi lời yêu thương tới người mình yêu quý hay bình chọn, góp ý, tham gia thảo luận về một vấn đề với bạn bè hoặc với những người làm truyền hình. Truyền hình tương tác- truyền hình hai chiều Cách thức xem truyền hình kể trên được các nhà nghiên cứu, những người làm truyền hình gọi là truyền hình tương tác hay truyền hình hai chiều, truyền hình mở. Trong tiếng Anh, truyền hình tương tác được dùng với thuật ngữ “Interactive television” với tên viết tắt là ITV. Truyền hình tương tác có thể hiểu là hình thức tiếp nhận và trao đổi thông tin tích cực, đa chiều ở đó người xem và nguồn phát có thể trao đổi thông tin với nhau thường xuyên trong quá trình chương trình thực hiện. Thông tin không chỉ được chuyển đi từ nguồn phát tới người xem mà còn được thực hiện với chiều ngược lại từ người xem tới nguồn phát. Với truyền hình truyền thống, người xem thoả sức để cho chương trình, những người làm chương trình dẫn dắt đi đến nơi nào nhà Đài muốn và sự suy ngẫm gần như bị phong toả tuyệt đối thì với truyền hình tương tác một thói quen đã bị tác động và làm đảo lộn. Thói quen xem bị động, xem cho vui mắt, vui tai dần bị thay thế bởi một cách xem truyền hình mới - xem chủ động. Ở đây người xem hoàn toàn được quyền chủ động lựa chọn và tham gia vào chương trình truyền hình.  Sự tham gia của khán giả ở nhiều cung bậc nhưng đơn giản nhất có thể kể tới như viết thư tay bày tỏ thái độ, tình cảm, mong muốn, ý tưởng của mình về chương trình và gửi tới “nhà Đài”. Hoặc hiện đại hơn, khi có sự tích hợp, hội tụ công nghệ trong lĩnh vực truyền thông người xem truyền hình có thể gửi thư điện tử (email), tin nhắn, tự chọn hoặc yêu cầu được xem chương trình mình quan tâm thậm chí biên tập, sắp xếp một chương trình theo cách mình muốn. Ngoài ra, khả năng tương tác của truyền hình đã tạo điều kiện cho khán giả trong việc chủ động thời gian, thể loại chương trình cần xem và tham gia vào  những diễn đàn lớn, trao đổi thông tin để làm sâu thêm những chương trình đã phát sóng.  Một sự kiện, một chương trình truyền hình thực sự có giá trị và ý nghĩa khi nó kết nối được với khán giả. Thực tế truyền hình tương tác đã góp phần tạo nên chất xúc tác rút ngắn khoảng  cách giữa chương trình, giữa đài truyền hình với công chúng hơn. Quá trình tương tác – trao đổi giúp nhà đài hiểu hơn tình cảm, nhu cầu của khán giả; xác định rõ hơn hiệu qủa của thông tin. Tương tác tạo khả năng đa dạng hoá nguồn thông tin. Với nguồn thông tin ngược từ khán giả, đài truyền hình cùng các phóng viên đã có thêm mạng lưới thông tin rộng rãi với những nguồn tin nóng hổi, sinh động. Không ít ý kiến phản hồi, những thông tin cập nhật bằng hình ảnh và âm thanh của công chúng gửi tới đài là dữ liệu quan trọng, sát thực tiễn, gợi mở để các phóng viên triển khai những chương trình mới chất lượng, thiết thực. Tương tác giúp cho chương trình bớt khô khan bởi thông tin được nhìn nhận trao đổi hai chiều, khách quan. Tương tác tạo ra hiệu ứng xã hội mạnh mẽ. Xét cho cùng tương tác góp phần thu hút ngày càng nhiều khán giả, tăng tính cạnh tranh cho một chương trình truyền hình, một kênh truyền hình, một đài truyền hình.  Truyền hình tương tác xuất hiện trên thế giới cũng đã lâu, để thúc đẩy tiến trình này phát triển nhanh, mạnh phải kể tới sự hỗ trợ vô cùng lớn của công nghệ, với sự bắt tay, hợp lực không ngừng của 3 lĩnh vực cơ bản đó là viễn thông, công nghệ thông tin và truyền thông. Công nghệ tạo ra các cơ hội để các phương tiện truyền thông đại chúng tận dụng các ưu việt của nó để phát triển. Đồng thời, công nghệ cũng tạo ra cơ hội cho cá nhân tìm kiếm và cung cấp thông tin. Công nghệ không chỉ có ý nghĩa đối với nhà đài và phóng viên trong việc sản xuất chương trình nó còn có ý nghĩa rất lớn với công chúng, cho phép công chúng có thể tham gia tương tác nhiều hơn với cơ quan truyền thông. Các kiểu tương tác giữa khán giả với truyền hình Sự tương tác, tham gia của khán giả với truyền hình hiện nay là không phủ nhận và dự báo trong tương lai càng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, chỉ với một chiếc tivi cùng một chiếc điều khiển truyền thống khó có thể phát huy được hết ưu thế của truyền hình tương tác mà điều này cần có sự hỗ trợ của công nghệ. Có ba kiểu tương tác cơ bản để khán giả và nhà đài có thể trao đổi với nhau. Thứ nhất, tương tác một màn hình. Kiểu này được dựa trên nền tảng của công nghệ truyền hình truyền thống nhưng để tương tác được, cần có tivi, bộ giải mã, thiết bị điều khiển từ xa có sự tích hợp nhiều chức năng và sự hỗ trợ của Internet. Và khi đó với chiếc điều khiển thông minh với đa chức năng người xem có thể dễ dàng lựa chọn, yêu cầu được xem bất cứ chương trình nào mình thích. Thứ hai, tương tác hai màn hình. Chỉ cần một tivi và một điện thoại di động hoặc một máy vi tính nối mạng khán giả có thể dễ dàng tiến hành trao đổi thông tin hai chiều. Phổ biến cho kiểu tương tác này là loại dịch vụ nhắn tin SMS đến chương trình truyền hình hoặc lướt web để tìm thêm thông tin hoặc gửi thư điện tử (email) phản hồi đến chương trình. Thứ ba, truyền hình internet. Thông qua chiếc máy vi tính nối mạng khán giả có thể dễ dàng xem được các chương trình truyền hình mà mình yêu thích. Hình thức này đem lại khả năng tương tác tuyệt vời nhất. Khán giả có thể chủ động thời gian xem, chủ động lựa chọn nội dung, thể loại và dễ dàng xem lại những chương trình đã phát sóng hay tải những tác phẩm, những bộ phim mình quan tâm. Đồng thời trong quá trình xem khán giả có thể viết thư phản hồi (mail), chat, tìm kiếm, mở rộng thông tin… Như vậy có thể thấy có rất nhiều cách thức để có thể thực hiện quá trình tương tác. Tương tác đang là một hướng phát triển của truyền hình hiện đại trong cuộc cách mạng của công nghệ cũng như trong thời đại bùng nổ thông tin. Tương tác tăng tính cạnh tranh, sức hấp dẫn của chương trình, đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho đài thông qua các dịch vụ nhưng điều không thể phủ nhận là tương tác góp phần tạo nên một cơn gió mới trong tiếp nhận và trao đổi thông tin, ở đó khán giả xem truyền hình được hoàn toàn chủ động trong tiếp nhận thông tin Ths. Xuân Hoà Khoa Phát thanh - Truyền hình Truyền hình di động Truyền hình di động đã và đang trở thành điểm nóng trong sự phát triển của ngành truyền thông của cả thế giới. Chỉ cần trong chiếc máy di động nhỏ bé có lắp đặt thiết bị tiếp nhận tín hiệu truyền hình là có thể xem các chương trình truyền hình bằng di động. Tại Trung Quốc loại hình truyền hình di động cũng vô cùng được yêu thích. Theo thống kê của tập đoàn iResearch trong thị trường di động lên tới hơn 5 tỷ thuê bao (theo thống kê tháng 2/2008) của Trung Quốc có tới ít nhất 80 triệu khách hàng sử dụng máy di động có tính năng vượt trội và những khách hàng này cũng rất quan tâm đến truyền hình di động. Ước tính đến năm 2010 quy mô thuê bao truyền hình di động có thể đạt tới con số 22,19 triệu. Nếu so sánh với những chương trình do các công ty truyền thông Âu Mỹ cung cấp cho truyền hình di động của họ thì truyền hình di động của Trung Quốc có ít nội dung hơn, không có sức thu hút khách hàng cũng như phát triển thị trường. Đặc biệt những chương trình truyền hình di động, trò chơi trên di động, tải chương trình trên mạng về cũng không có sự sáng tạo. Rất nhiều chương trình truyền hình di động đều chỉ là những chương trình truyền hình đơn điệu được truyền đến di động, kết nối mạng trực tuyến cho di động cũng tương đối lạc hậu. Nguyên nhân một phần là do việc phát triển công nghệ đi sau, một phần là do yếu tố con người. Truyền hình di động cần những nhân tài không chỉ hiểu về kỹ thuật vi tính và mạng Internet mà còn phải có kiến thức về truyền thông và những đặc tính của di động có những tính năng truyền thông mới. Mọi người mong muốn đón nhận không phải là hệ thống hữu tuyến, không phải là đài truyền hình mà là ở chính nội dung chương trình, truyền hình di động cũng không ngoại lệ Không gian và tiềm năng cho sự phát triển thị trương truyền hình di động là rất lớn. Tuy nhiên do bối cảnh thị trường của Trung Quốc có những đặc thù riêng nên những vấn đề vấp phải của sự phát triển truyền hình di động của Trung Quốc cũng không giống các quốc gia khác. Một là những công nghệ hỗ trợ truyền hình di động muôn màu muôn vẻ khiến những nhà đầu tư và doanh nghiệp cảm thấy bối rối. Hai là khách hàng thường nhạy cảm với giá cả của dịch vụ truyền hình di động vì họ đã quen với tâm lý được dùng miễn phí rồi vì thế viễn cảnh thị trường trong thời gian trước mắt cũng không lạc quan lắm. Ba là những chương trình truyền hình di động còn tương đối đơn điệu. Bốn là truyền hình di động liên quan đến truyền hình và ngành thông tin vì thế những vấn đề quản lý lại càng trở nên nghiêm ngặt, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và quy mô thị trường. Trong triển lãm giao dịch chương trình truyền hình NATPE 2008, một triển lãm có quy mô và ảnh hưởng lớn nhất thế giới diễn ra hàng năm tại Mỹ, phó chủ tịch công ty SK Telecom, ông Joe Jason trong bài phát biểu của mình đã nhấn mạnh đến từ "điểm bộc phá". Mọi người đều nhận định điểm bộc phá trong truyền hình di động của Trung Quốc chính là Olympic Bắc Kinh 2008. Tuy nhiên Olympic đã kết thúc nhưng truyền hình di động của Trung Quốc vẫn chưa bộc phá. Nguyên nhân không gì khác chính là thể chế quản lý của cơ quan chủ quản ngành truyền hình và thông tin. Chúng ta đều biết truyền hình di động của Trung Quốc đã chậm chân trên trường quốc tế mà nguyên nhân không phải ở vấn đề công nghệ mà ở sự tranh chấp lợi ích giữa hai bên truyền hình và thông tin. Trong thời đại toàn cầu hóa khoa học kỹ thuật và quốc tế hóa tiêu chuẩn những người nào nắm trong tay công nghệ và những phát minh sáng chế sẽ là những người có được lợi ích. Vậy thì ngành truyền hình với những ưu thế về việc sản xuất và quản lý nội dung chương trình nếu kết hợp với bên thông tin, nơi đã sẵn có một lượng đông đảo khách hàng sử dụng di động sẽ tạo ra một thị trường vô cùng tiềm năng. Tuy nhiên dưới thể chế quản lý hiện hành của đôi bên, trong quá trình hợp tác dễ dẫn đến việc tổn hại đến lợi ích đối phương. Vậy vấn đề hiện nay là đôi bên nên nghĩ đến lợi ích chung của quốc gia mà hợp tác trên phương diện tận dụng tất cả những ưu thế sẵn có của nhau. Có như vậy thì mới tạo ra được điểm bộc phá trong truyền hình di động của Trung Quốc và ngành truyền hình di động mới có thể phát triển ổn định và lâu dài đồng thời tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tạp chí truyền hình Xu hướng xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay Nhu cầu của công chúng hiện đại đòi hỏi truyền hình không chỉ là nhà cung cấp thông tin mà còn phải tích cực hơn trong xã hội hóa các loại hình chương trình, phục vụ nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của nhiều tầng lớp trong xã hội. Vậy trong tương lai truyền hình sẽ phát triển theo xu hướng nào để khẳng định vị trí của mình trong dòng chảy mạnh mẽ của các loại hình truyền thông hiện đại? Chúng ta đang sống trong một thế giới có đặc điểm nổi bật là sự bùng nổ thông tin trên phạm vi toàn cầu. Thông tin đã xen vào mọi lĩnh vực, chi phối và làm thay đổi phương thức vận hành, quản lý một số hoạt động xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng trong đó có truyền hình đều đã và đang phát triển nhanh chóng, vượt xa sự hình dung của nhiều người. Ở Việt Nam, cách đây khoảng 10 năm, ít người thấy trước được rằng, sau đổi mới một bước cơ chế quản lý, báo chí lại có bước lớn mạnh như vừa qua, và những năm tới chắc chắn còn có sự tăng trưởng nữa. Bởi vì, tính bình quân sự tiêu dùng báo chí của nhân dân ta vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Dư địa vẫn còn khá rộng để cho báo chí phát triển. Đấy là chưa tính đến sự xã hội của Internet, và báo mạng điện tử, hệ quả tất yếu của cuộc cách mạng tin học đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Trong chúng ta không phải ai cũng có thể hình dung rõ rệt diện mạo và nhất là cơ chế hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng trong thời gian tới như thế nào. Nhưng có một điều chắc chắn là mỗi người đều phải tự mình nhìn lại và tự mình điều chỉnh các suy nghĩ truyền thống quen thuộc từ trước đến nay. Tình hình ấy đặt ra nhiều thách thức lớn cho truyền hình - một phương tiện thông tin hùng mạnh. Tuy hiện tại, chiếc ti vi vẫn gần như chiếm giữ độc quyền cung cấp thông tin nhanh nhậy, rẻ tiền chọn. Nhưng ưu thế này trong thời gian tới có còn nguyên vẹn khi mà ở mỗi gia đình đều có không chỉ một, mà là hai, ba hoặc nhiều hơn nữa những chiếc máy vi tính nối mạng, và khi báo in được hệ thống bán lẻ phát hành miễn phí đến tận nhà theo yêu cầu của người đọc? Trong cuộc bùng nổ về thông tin, giữa lòng cuộc cạnh tranh gay gắt để tranh giành công chúng, điều cần thiết với những người làm truyền hình không chỉ là sự cố gắng nhiều hơn, sáng tạo nhiều hơn, mà điều quan trọng là phải nhận thứ rõ những thách thức và thời cơ, thấy được xu thế vận động làm cơ sở để xây dựng chiến lược hành động phù hợp cho sự phát triển của ngành. Vậy, trong tương lai truyền hình sẽ phát triển theo xu hướng nào để tồn tại và phát triển, để tìm được chỗ đứng trong dòng chảy phát triển của các cơ quan báo chí đang tích cực tham gia mạnh mẽ vào tiền trình xã hội hóa các hoạt động của mình? Trong xu thế đó, là một ngành mang tính báo chí kinh tế kỹ thuật cao, truyền hình càng không thể đứng ngoài cuộc. 1. Trước hết xin được tiếp cận vấn đề dưới góc độ kinh tế. Dù muốn hay không thì báo chí nói chung và truyền hình nói riêng có thể phát triển được vấn đề đầu tiên cần được giải quyết đó là nguồn kinh hí. Truyền hình là một loại truyền thông rất tốn kém nên vấn đề trên lại càng trở nên quan trọng. Nhưng ai sẽ là người cung cấp tài chính cho truyền hình? Phải tham gia vào tiến trình xã hội hóa, trước hết là xã hội hóa về nguồn kinh phí đầu tư cho sản xuất các chương trình, truyền hình mới có điều kiện phát triển. Quá trình này đã diễn ra và chắc chắn sẽ diễn ra rất nhanh trong thời gian tới. Trước đây nguồn kinh phí đầu tư cho truyền hình chủ yếu là từ ngân sách. Đó là điều kiện cần thiết cho giai đoạn đầu của truyền hình. Nhưng chỉ trông vào nguồn kinh phí từ ngân sách sẽ là rất khó khăn cho sự phát triển của truyền hình trong điều kiện hiện tại và những năm sau này. Trong 3 năm 1996 đến 1998 thời lượng phát sóng qua vệ tinh gấp đôi nhưng kinh phí từ ngân sách gần như không thay đổi. Đây là một nghịch lý trong tiến tình phát triển. Tình hình trên chỉ thực sự được cải thiện khi truyền hình Việt Nam được phép thực hiện cơ chế khoán thu chi để có điều kiện thu hút các nguồn kinh phí trong xã hội vào việc sản xuất các chương trình. Đến nay, nguồn thu từ quảng cáo đã tăng gấp nhiều lần so với trước, đạt được hàng trăm tỷ mỗi năm. Theo con số thống kê gần đây, riêng thu từ quảng cáo, truyền hình Việt Nam và truyền hình thành phố Hồ Chí Minh mỗi năm đã thu được trên 1.300 tỷ đồng. Và trên 20% số đó đã được dùng trở lại để đầu tư cho sản xuất chương trình. Nếu tính con số tuyệt đối thì tiền thu từ quảng cáo đến nay vượt kinh phí chi thường xuyên, bước đầu cải thiện nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động sản xuất chương trình. Ngoài nguồn thu từ quảng cáo, truyền hình Việt Nam cũng đang quan tâm phát triển mạng truyền hình trả tiền và khuyến khích nhiều nguồn đầu tư khác trong xã hội cho hoạt động sản xuất chương trình. Đã có nhiều khâu, nhiều công đoạn của truyền hình có sự tham gia của các thành phần trong xã hội để tổ chức, dàn dựng bối cảnh. Ví dụ: Chương trình Nhà nông đua tài: Tiền tổ chức thực hiện là do các cấp hội nông dân Việt Nam huy động.Truyền hình chỉ trả chi phí cho kíp sản xuất. Các chương trình "Chiếc nón kỳ diệu", "Hãy chọn giá đúng", "Đường lên đỉnh Olimpia" và ngay cả các chương trình tuyên truyền chính trị như: "Người đương thời", "Vì người nghèo"… đều được sản xuất từ một phần kinh phí của các doanh nghiệp tài trợ… Điều này, đã trở nên rất có tác dụng trong khi tiềm lực của truyền hình còn nhiều hạn chế. Tất cả những điều đó đều đã và đang tích cực tạo nên một diện mạo của Truyền hình Việt Nam hôm nay. Tuy điều kiện về tài chính đã cải thiện nhiều so với trước, nhưng nhìn chung, các nguồn thu này còn quá khiêm tốn so với hàng nghìn tỷ đồng cần phải có đầu tư xây dựng trung tâm truyền hình Việt Nam. Để có đủ điều kiện đầu tư cho phát triển, đa dạng hóa các nguồn thu, xã hội hóa về mặt kinh phí là một xu thế tất yếu đối với truyền hình Việt Nam trong những năm tới. 2. Xã hội hóa về sản xuất và quảng cáo các chương trình truyền hình, đây cũng là một xu thế mang tính tất yếu. Xu hướng này đã xuất hiện ngay từ những ngày đầu truyền hình ra đời. Sau này sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Bởi một điều hiển nhiên là không ai sản xuất chương trình truyền hình để chỉ cho mình xem cả. Phải sản xuất để cho công chúng xem và phục vụ nhu cầu xem của công chúng. Nhu cầu của công chúng đòi hỏi càng cao, càng đa dạng, thì truyền hình cần phải nỗ lực nhiều hơn để thoả mãn điều ấy. Sau gần 20 năm đổi mới, tiềm lực kinh tế đất nước đã có sự phát triển mạnh so với trước. sản xuất đã cho ra đời nhiều loại hàng hóa hơn. Từ một quốc gia không đủ ăn, sống chủ yếu nguồn viện trợ ở bên ngoài, chúng ta đã vươn lên trở thành một cường quốc trong xuất khẩu lương thực… điều kiện sống của người Việt Nam được nâng lên. Cùng với đó là những thay đổi trong nhận thức, tư duy. Công chúng giờ đây không chỉ muốn ăn ngon mặc đẹp mà còn còn nhu cầu giải trí khác. Điều này làm xuất hiện thị trường vui chơi, giải trí. Trong lĩnh vực này, truyền hình đã tỏ ra lợi thế cạnh tranh của mình. Khả năng quảng bá của màn ảnh nhỏ làm cho truyền hình trở thành là người tổ chức các cuộc thi, vui chơi giải trí mang tính toàn quốc. Các chương trình Chiếc nón kỳ diệu, Sao Mai điểm hẹn, Hãy chọn giá đúng… xuất hiện trên VTV đã trở thành những sân chơi hấp dẫn, bổ ích, với khả năng thu hút rất đông đảo khán giả. Có thể nói, với hình ảnh và âm thanh sống động, truyền hình đã can thiệp vào thị trường giải trí và chi phối thị trường này. Chúng ta đã thấy giới bầu sô âm nhạc đã từng bị lép vế trong các cuộc chơi lớn từ khi Sao mai điểm hẹnra đời. Và chúng ta cũng đã thấy, phải nhờ có truyền hình mà một số loại hình sân khấu truyền thống như Kịch nói, Chèo tuồng, Cải lương… lại có thêm điều kiện đến với công chúng.Truyền hình đã và đang trở thành một rạp hát khổng lồ, đa năng, giúp cho công chúng có thể tìm thấy gần như tất cả những loại hình sân khấu, giải trí phù hợp với nhu cầu của mình; để rồi, thay vì đến các địa điểm vui chơi giải trí, công chúng có thể lựa chọn hình thức ở nhà để thực sự thư giãn đầu óc với vòng quay "Chiếc nón kỳ diệu" hay cùng hồi hộp với những người chơi trong chương trình "Hãy chọn giá đúng"… Nhu cầu của công chúng hiện đại đã khiến cho truyền hình không chỉ là nhà cung cấp thông tin thời sự chính trị mang đậm dấu ấn của báo chí nữa, mà còn đòi hỏi truyền hình phải tích cực hơn trong xã hội hóa các loại hình chương trình phục vụ nhu cầu ngày một đa dạng, phong phú của công chúng. Tất nhiên nhu cầu của công chúng ở đây không phải là phép cộng thuần tuý nhu cầu của các cá nhân. Bởi theo nhu cầu của tất cả công chúng truyền hình dễ sa vào thoả mãn cả những nhu cầu phi văn hóa. Trên phương diện kỹ thuật cũng đang dần thể hiện rõ xu thế hóa của truyền hình. Nhờ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật,mà các loại thiết bị phục vụ cho sản xuất các chương trình truyền hình cũng trở nên ngày một hiện đại, tiện nghi và đặc biệt là rẻ hơn rất nhiều so với trước. Cách đây không lâu đ có một thiết bị sản xuất chương trình đúng quy chuẩn người ta phải bỏ ra ít nhất hàng trăm ngàn USD. Điều đó khiến cho khả năng được tham gia vào các hoạt động của truyền hình trở nên xa sỉ với tất cả mọi người dân. Nhưng nay nhờ có công nghệ số hóa Digital, giá thành của những chiếc máy ghi hình đã giảm hàng trăm lần so với trước. chỉ với 1.000 USD là công chúng có thể mua được một chiếc máy quay kỹ thuật số hóa và có thể bắt tay vào công đoạn đầu tiên sản xuất chương trình truyền hình. Điều này mở ra một khả năng hợp tác vô cùng rộng lớn cho cả truyền hình và công chúng. Về phía công chúng, có thể tham gia trực tiếp vào thực hiện các chương trình truyền hình. Và cũng chính điều ấy mà nội dung, hình thức thông tin của truyền hình sẽ ngày một đa dạng và mới hơn. Trong cuộc đua thông tin luôn không có chỗ đứng cho người đến sau, Thì sự tham gia ngày một nhiều hơn của công chúng vào hoạt động cung cấp hình ảnh và các sự kiện mới nhất đang diễn ra trong cuộc sống cho truyền hình là hết sức quan trọng và cần thiết. Dù muốn hay không thì đây là xu hướng tất yếu trong tương lai của truyền hình. Cũng trên phương diện kỹ thuật, nhưng dưới một góc nhìn khác cũng có thể ghi nhận được điều tương tự. Trong tương lai, gianh giới giữa truyền hình và các loại báo điện tử chắc chắn sẽ không còn. Cuộc cách mạng của công nghệ thông tin đã cho phép các tờ báo mạng cũng có thể tham gia vào quá trình thông tin bằng hình ảnh. Hiện nay, tuy chưa thực sự phổ biến nhưng công chúng cũng có thể xem phim truyện, theo dõi các cuộc phỏng vấn, hay bình luận, phân tích, các phóng sự bằng hình ảnh trên mạng Internet. Vị trí "mặt tiền" của truyền hình đang bị đe doạ và chắc chắn sẽ không còn ở thế độc tôn như trước. Thực tế này buộc truyền hình phải tham gia vào tiến trình hội nhập, phải ứng dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại và thực hiện khẩn trương xã hội hóa các hình thức quảng bá sản phẩm và sức ảnh hưởng của mình.Nếu như các nhà làm báo mạng tìm kiếm lợi thế của thông tin hình ảnh đưa truyền hình lên Internet để làm sang cho tờ báo của mình thì truyền hình cũng cần phải nhanh chóng tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin đưa các sản phẩm của mình lên mạng để thực sự bình đẳng trong cuộc cạnh tranh về mặt công nghệ, tiếp tục chiếm lợi thế về chất lượng sản phẩm. Mới đây hợp tác giữa ngành bưu chính viễn thông, chuẩn bị đưa dịch vụ truyền hình trên mạng điện thoại di động thế hệ 3G có thể xem như một động thái tích cực của truyền hình trong quá trình xã hội hóa chính mình. 3. Đứng trước yêu cầu của sự phát triển, xu hướng xã hội hóa hoạt động quản lý cũng là một đòi hỏi tất yếu đối với truyền hình hiện đại. Xét trên cả hai phương diện quản lý nội dung và quản lý con người đều có thể thấy rõ được xu hướng này. Về mặt quản lý nội dung, là một cơ quan thông tin đại chúng, đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, và hoạt động theo những quy định của pháp luật, tất cả các sản phẩm truyền hình đều cần được quản lý thống nhất về mặt nội dung. Tuy nhiên, quản lý nội dung không đồng nghĩa với việc phải quản lý tất cả các công đoạn làm ra sản phẩm truyền hình. Và càng không có nghĩa hoạt động quản lý của truyền hình không thể tham gia vào tiến trình xã hội hóa. Để truyền hình phát triển, đi cùng với yêu cầu đảm bảo tính định hướng, tính tư tưởng trong từng sản phẩm, nhất định các công đoạn sản xuất chương trình truyền hình phải được chuyên môn hóa cao, phân công lao động chặt chẽ và giảm bớt được chi phí đầu vào, tiết kiệm thời gian và hạ giá thành sản phẩm. Điều này đòi hỏi truyền hình luôn phải cân nhắc nhiều hơn với các phương án đầu tư cho hoạt động tác nghiệp của mình. Và sẽ không có một lý do nào khiến các nhà quản lý truyền hình có thể từ chối khai thác các nguồn chương trình đảm bảo được yêu cầu về nội dung, kỹ thuật và cả giá thành hạ do xã hội cung cấp. Trước những toan tính về mặt lợi ích, hiển nhiên truyền hình sẽ buộc phải nghĩ nhiều đến việc có thể giao, khoán, mua, trao đổi một công đoạn nào đó trong quy trình sản xuất cho một đơn vị kinh tế nghiệp vụ khác (bất kể đơn vị đó là của Nhà nước hay của tư nhân), hơn là quyết định đầu tư công sức và một khoản kinh phí lớn hơn gấp nhiều lần để tự làm ra một sản phẩm có chất lượng tương tự. Gần đây, việc chỉ đạo các Trung tâm truyền hình Việt Nam sản xuất linh kiện cho phóng sự của các ban biên tập trong Đài, hay việc tích cực khai thác các tin bài có chất lượng của các đài địa phương trong các bản tin thời sự ít nhiều cũng đã phản ánh khuynh hướng giao cho các đơn vị ngoài Đài tham gia vào sản xuất chương trình. Phương án quản lý sản xuất theo cách làm này, ít nhất cũng đã tiết kiệm được cho truyền hình một khoản kinh phí không nhỏ nhờ cắt giảm các khoản đầu tư dành cho việc đi lại của phóng viên, vận chuyển máy móc thiết bị tới nơi sự kiện xảy ra. Trước xu thế trên, việc có các công ty tư nhân tham gia thực hiện chương trình và bán cho đài truyền hình có thể là một xu hướng tất yếu.Vấn đề còn lại đối với truyền hình là phải hướng dẫn, quản lý về nội dung và xây dựng cho được những quy chuẩn mang tính nghiệp vụ cao cho các loại hình sản phẩm của mình. Chỉ có như vậy việc trao đổi, mua bán và định giá sản phẩm mới trở nên dễ dàng. Dưới góc độ quản lý con người, truyền hình cũng bước vào giai đoạn xã hội hóa quyết liệt. Như đã biết, xã hội càng phát triển, trí tuệ xã hội ngày càng được nâng lên, và trí tuệ ấy ngày càng được quảng bá trên truyền hình nhiều hơn. Nhưng ngược lại, chính truyền hình cũng đang tìm mọi cách để hấp thu trí tuệ xã hội để đầu tư cho sự phát triển. Điều đó sẽ càng trở nên quan trọng khi phân công lao động và chuyên môn hóa các hoạt động sản xuất chương trình truyền hình đạt đến trình độ cao. Hiện tại công việc của truyền hình bao gồm rất nhiều ngành nghề khác nhau: quản lý, kỹ thuật, nghệ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị… với các vị trí công tác khác nhau. Tất cả đều có chức năng nhiệm vụ rõ ràng trong hoạt động dây chuyền tạo ra sản phẩm truyền hình. Nói một cách khác, sản phẩm truyền hình là kết quả của một chuỗi các công đoạn kế tiếp nhau.Và để có những sản phẩm hoàn chỉnh, chất lượng cao, tất cả các công đoạn đều phải có sự phối hợp nhịp nhàng và được hoàn thành với trình độ chuyên môn cao. Yêu cầu công việc cho thấy việc tự đào tạo lẫn nhau, tự nâng cao trình độ là điều cần nhưng chưa thể là điều kiện đủ. Truyền hình sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ của mình khi không tuyển dụng được một nguồn nhân lực có tay nghề cao trong xã hội để phục vụ cho chiến lược phát triển của ngành. Trong hoạt động quản lý ở truyền hình, xã hội hóa các nguồn lực lao động là một xu hướng tất nhiên không thể cưỡng lại được. Trên một bình diện khác, để đảm đương được là một binh chủng tiên phong trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, có vai trò quyết định trong định hướng dư luận và hành động của công chúng, tất cả các chương trình truyền hình đều đứng trước yêu cầu về trí tuệ và tính khoa học. Mỗi luận điểm, nhận định trong phóng sự, trong bình luận, và trong các thể loại khác của truyền hình đều ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi của toàn xã hội. Và để đạt đến sự chuẩn xác trong thông tin, đòi hỏi nhất thiết phải có sự tham gia của tất cả các chuyên gia trên lĩnh vực trong cuộc sống. Trí tuệ, tính khoa học và mức độ tin cậy của truyền hình chỉ có được khi có sự tham gia ngày một nhiều hơn của các lực lượng khác trong xã hội. Việc đầu tư và thường xuyên sử dụng các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu chuyên sâu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội làm cố vấn cho các chương trình, truyền hình trong thời gian gần đây như một biểu hiện mang tính tất yếu của xu thế xã hội hóa nguồn lực cho truyền hình. Trong lao động quản lý, nhất định truyền hình phải quan tâm tới điều này, từ đó có chính sách thoả đáng để thu hút các nguồn chất xám trong xã hội phục vụ cho việc đổi mới nâng cao chất lượng chương trình truyền hình. Tóm lại, truyền hình là loại sản phẩm vật chất đặc biệt. Nó không chỉ là hàng hóa thông thường mà còn là một loại sản phẩm mang tính đại chúng, tính công cộng cao. Trước yêu cầu phát triển, cần phải có một quan điểm tích cực trong triển khai các hoạt động kinh doanh, tìm kiếm nguồn thu. Tuy nhiên, trước kinh doanh, các sản phẩm truyền hình phải đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin, giải trí lành mạnh của công chúng. Việc xã hội hóa các hoạt động của truyền hình đã và sẽ là một khuynh hướng tất yếu trong thời gian tới. Chỉ có thể để cho công chúng ngày một tham gia nhiều hơn vào các công đoạn sản xuất của mình, và hướng hoạt động sản xuất đến phục vụ và thoả mãn nhu cầu xem của công chúng, truyền hình mới có điều kiện thuận lợi để phát triển, giữ được ưu thế cạnh tranh trong bối cảnh thông tin bùng nổ hiện nay. Việc tham gia mạnh mẽ vào tiến trình xã hội hóa, tận dụng được mọi nguồn lực trong xã hội để đầu tư cho phát triển sẽ là cơ sở để truyền hình tiếp tục củng cố chỗ đứng của mình. Tài liệu tham khảo 1. Báo Tuổi Trẻ Online, 27/11/2008, 05:25 (GMT+7). 2. Ths. Xuân Hoà Khoa Phát thanh - Truyền hình Học viện Báo chí và Tuyên truyền 3. Tạp chí truyền hình 4. Báo điện tử Tiền Phong

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_8424.doc
Tài liệu liên quan