Tiểu luận Liệt kê những văn bản pháp quy của nhà nước Việt Nam liên quan đến chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia

- Xóa đói giảm nghèo, xét về lâu về dài, góp phần làm giảm gánh nặng cho hệ thống ASXH thông qua việc thu hẹp đối tượng cần trợ cấp ASXH. Khi tỷ lệ người nghèo giảm xuống, tất yếu sẽ có ít người hơn cần tới sự trợ giúp của chính sách ASXH. Vì vậy gánh nặng chi tiêu cho các trợ cấp ASXH sẽ được giảm xuống. - Xóa đói giảm nghèo tạo điều kiện cho chính sách ASXH tăng chất lượng hoạt động thông qua việc tăng mức trợ cấp ASXH. Khi đói nghèo giảm và xã hội giàu có hơn, các quỹ ASXH sẽ dồi dào hơn trong khi đối tượng cần trợ giúp cũng giảm. Vì vậy người nghèo nói riêng và những người gặp khó khăn nói chung có điều kiện để nhận mức trợ cấp ASXH tốt hơn.

doc14 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1846 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Liệt kê những văn bản pháp quy của nhà nước Việt Nam liên quan đến chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP LỚN MÔN AN SINH XÃ HỘI BÀI LÀM CÂU 1: Hãy liệt kê những văn bản pháp quy của nhà nước Việt Nam liên quan đến chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia ( chỉ liệt kê những văn bản chủ yếu và và tóm tắt nội dung ). Trả lời: Ở Việt Nam, đói, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm gần đây nhà nước có đưa ra những văn bản pháp quy liên quan đến chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, tiêu biểu trong đó có các văn bản sau : I. Chương trình 135: Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (hay đọc là: "chương trình một-ba-năm"), là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Chương trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135 do Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt thực hiện chương trình này có số hiệu văn bản là 135/1998/QĐ-TTg. Theo kế hoạch ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1 từ năm ngân sách 1998 đến năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà nước Việt Nam quyết định kéo dài chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I. Tiếp theo là giai đoạn II (2006-2010). Giai đoạn I (1997-2006) Điều hành Chương trình 135 là Ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Người đứng đầu ban này là một phó thủ tướng chính phủ; phó ban là Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; và các thành viên là một số thứ trưởng các bộ ngành và các đại diện đoàn thể xã hội. Mục tiêu cụ thể của Chương trình 135 là: - Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số; - Phát triển cơ sở hạ tầng; - Phát triển các dịch vụ công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch - Nâng cao đời sống văn hóa. Có nhiều biện pháp thực hiện chương trình này, bao gồm đầu tư ồ ạt của nhà nước, các dự án nhà nước và nhân dân cùng làm (nhà nước và nhân dân cùng chịu kinh phí, cùng thi công), miễn giảm thuế, cung cấp miễn phí sách giáo khoa, một số báo chí, v.v... Năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt danh sách 1.870 xã đặc biệt khó khăn và các xã biên giới làm phạm vi của Chương trình 135. Các năm tiếp theo, do có sự chia tách và thành lập xã mới, nên số xã thuộc phạm vi Chương trình 135 đã vượt con số trên. Khi giai đoạn I kết thúc, Nhà nước Việt Nam đã chi khoảng 10 nghìn tỷ đồng, cả nước đã xây dựng và đưa vào sử dụng hơn 25 nghìn công trình thiết yếu các loại, góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn miền núi, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, cũng có đánh giá rằng hiệu quả của Chương trình 135 còn chưa cao, nhiều mục tiêu chưa thực hiện được 2.Giai đoạn II (2006-2010) Chính phủ Việt Nam đã xác định có 1.946 xã và 3.149 thôn, buôn, làng, bản, xóm ấp đặc biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II thuộc 45 tỉnh, thành được đưa vào phạm vi của Chương trình 135. Mục tiêu tổng quát - Tạo chuyển biến nhanh về sản xuất - Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường. - Cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. - Giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước. - Đến năm 2010: Trên địa bàn không có hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30%. Nội dung chính chương trình - Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản suất của đồng bào các dân tộc. Đào tạo cán bộ khuyến nông thôn bản. Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả, phát triển công nghiệp chế biến bảo quản. Phát triển sản xuất: Kinh tế rừng, cây trồng có năng suất cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm có giá trị. - Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Làm đường dân sinh từ thôn, bản đến trung tâm xã phù hợp với khả năng nguồn vốn, công khai định mức hỗ trợ nhà nước. Xây dựng kiên cố hóa công trình thủy lợi: Đập, kênh, mương cấp 1-2, trạm bơm, phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp và kết hợp cấp nước sinh hoạt. Làm hệ thống điện hạ thế đến thôn, bản; nơi ở chưa có điện lưới làm các dạng năng lượng khác nếu điều kiện cho phép. Xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng. Xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, bản (tùy theo phong tục tập quán) ở nơi cấp thiết. - Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở, kiến thức kỉ năng quản lý điều hành xã hội, nâng cao năng lực cộng đồng. Đào tạo nghề cho thanh niên 16 - 25 tuổi làm việc tại các nông lâm trường, công trường và xuất khẩu lao động. - Hỗ trợ các dịch vụ, nâng cao chất lượng giáo dục, đời sống dân cư hợp vệ sinh giảm thiểu tác hại môi trường đến sức khỏe người dân. Tiếp cận các dịch vụ y tế, bảo hiểm và chăm sóc sức khỏe cộng động. II. Quyết định củaThủ tướng chính phủ Số 71/2001/QĐ-TTg ngày 04 tháng 5 năm 2001 Về các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001 – 2005,trong đó có: “Chương trình mục tiêu quốc gia Xoá đói giảm nghèo và Việc làm”. Mục tiêu: Giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí hộ nghèo mới) đến năm 2005 còn dưới 10%, bình quân mỗi năm giảm 1,5 - 2% (khoảng 28 - 30 vạn hộ/năm); không để tái đói kinh niên, các xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu cơ bản; Mỗi năm phấn đấu giải quyết việc làm cho khoảng 1,4 - 1,5 triệu lao động; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống còn khoảng 5 - 6%; nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80% vào năm 2005. Nội dung: Bao gồm ba nhóm dự án: Nhóm các dự án Xoá đói giảm nghèo chung: + Dự án Tín dụng cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh; + Dự án Hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; + Dự án Xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo ở các vùng đặc biệt (vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bãi ngang ven biển, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng ATK, vùng sâu đồng bằng sông Cửu Long); Nhóm các dự án Xoá đói giảm nghèo cho các xã nghèo nằm ngoài chương trình 135: + Dự án Xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo; + Dự án Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề ở các xã nghèo; + Dự án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo và cán bộ các xã nghèo; + Dự án ổn định dân di cư và xây dựng vùng kinh tế mới ở các xã nghèo (bao gồm: ổn định dân di cư tự do, di dân xây dựng vùng kinh tế mới, phân bố lại dân cư theo quy hoạch; các dự án của chương trình 773 cũ thuộc ngành nông nghiệp theo quy định của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1123/CP-NN ngày 06 tháng 12 năm 2000 về việc chuyển dự án thuộc chương trình 773); + Dự án Định canh định cư ở các xã nghèo. (Các xã đặc biệt khó khăn được tiếp tục thực hiện các dự án thuộc chương trình 135 "Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa" - chương trình Xoá đói giảm nghèo đặc biệt của Chính phủ - do ủy ban Dân tộc và Miền núi là cơ quan thường trực, theo các Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 và số 138/2000/QĐ-TTg ngày 29 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ, không thuộc quy định của Quyết định này). Nhóm các dự án Việc làm: + Dự án Tổ chức cho vay vốn theo các dự án nhỏ giải quyết việc làm thông qua Qũy Quốc gia hỗ trợ việc làm; + Dự án Nâng cao năng lực và hiện đại hoá các Trung tâm dịch vụ việc làm; + Dự án Điều tra, thống kê thị trường lao động và xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động; + Dự án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác giải quyết việc làm. Phân công quản lý, thực hiện chương trình. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Quản lý, điều hành và tổng hợp chung toàn bộ tình hình thực hiện chương trình; chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ủy ban Dân tộc và Miền núi, Bộ Y tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Bộ, ngành liên quan và các ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là các địa phương) quản lý, tổ chức thực hiện các dự án: + Dự án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo và cán bộ các xã nghèo; + Dự án Xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo ở các vùng đặc biệt (vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bãi ngang ven biển, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng ATK, vùng sâu đồng bằng sông Cửu Long); + Dự án Tổ chức cho vay vốn theo các dự án nhỏ giải quyết việc làm thông qua Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm; + Dự án Nâng cao năng lực và hiện đại hóa các Trung tâm dịch vụ việc làm; + Dự án Điều tra, thống kê lao động và xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động; + Dự án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác giải quyết việc làm; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình, các Bộ, ngành liên quan và các địa phương quản lý, tổ chức thực hiện các dự án: + Dự án Xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo; + Dự án Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề ở các xã nghèo; + Dự án Hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; + Dự án ổn định dân di cư và xây dựng vùng kinh tế mới ở các xã nghèo (bao gồm: ổn định dân di cư tự do, di dân xây dựng vùng kinh tế mới, phân bố lại dân cư theo quy hoạch; các dự án của chương trình 773 cũ thuộc ngành nông nghiệp, theo quy định của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1123/CP-NN ngày 06 tháng 12 năm 2000 về việc chuyển dự án thuộc chương trình 773); + Dự án Định canh định cư ở các xã nghèo. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các Bộ, ngành liên quan và các địa phương chỉ đạo Ngân hàng Phục vụ người nghèo quản lý, tổ chức thực hiện dự án Tín dụng cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh. Bộ Y tế: Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các Bộ, ngành liên quan và các địa phương nghiên cứu xây dựng chính sách khám, chữa bệnh cho người nghèo, trình Chính phủ quyết định. Ủy ban Dân tộc và Miền núi: Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc quản lý, tổ chức thực hiện các dự án Xoá đói giảm nghèo và Việc làm. Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình: Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc quản lý, tổ chức thực hiện dự án ổn định dân di cư và xây dựng vùng kinh tế mới ở các xã nghèo. III. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo". Đây là chiến lược đầy đủ, chi tiết phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc công bố. Trong quá trình xây dựng chiến lược có sự tham gia của chuyên gia các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như IMF, UNDP, WB,.. tổng hợp thành các mục tiêu phát triển Việt Nam. Vấn đề là cụ thể hoá chiến lược bằng các chương trình, dự án được triển khai, được giám sát và đánh giá thường xuyên. Các nghiên cứu đã lập được bản đồ phân bố đói nghèo đến từng xã, từng hộ. Việt Nam đã ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ với 8 mục tiêu: Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói. Đạt phổ cập giáo dục tiểu học. Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ. Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. Tăng cường sức khỏe bà mẹ. Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác. Đảm bảo bền vững môi trường. Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển. Những mục tiêu này mang kết quả trực tiếp và gián tiếp xóa đói giảm nghèo một cách bền vững bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình hội nhập và phát triển. Một quốc gia khi không giải quyết dứt điểm xóa đói giảm nghèo thì luôn ẩn chứa nguy cơ phát triển không bền vững dẫn đến những hậu quả bất ổn định kinh tế - xã hội. Những mục tiêu đó cũng gợi mở những phương thức tác động trực tiếp hay gián tiếp đến việc xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, chuẩn nghèo của thế giới quy định quốc gia có thu nhập bình quân người hàng năm là 735 USD. Thu nhập bình quân của Việt Nam khoảng 400 USD, dù có quy đổi về giá trị so sánh tương đương (PPP) vẫn chưa qua chuẩn nghèo. Ngày 29 tháng 3 năm 2005, tại Hội thảo "Hợp tác giữa các nhà tài trợ và các Tổ chức phi Chính phủ trong xóa đói giảm nghèo" theo định hướng giảm nghèo toàn diện hơn, bền vững hơn, công bằng hơn và hội nhập hơn, Việt Nam sẽ nâng chuẩn đói nghèo lên gấp hai lần. (Chuẩn đói nghèo trước đây theo mức thu nhập bình quân người /tháng theo khu vực miền núi, nông thôn, thành thị: trước năm 2000 là 45.000 đồng, 70 000 đồng và 100 000 đồng; sau năm 2000 là 80000 - 100 000 – 150 000 đồng). Theo chuẩn đói nghèo mới có hai mức: thu nhập bình quân tháng 200 000 đồng ở nông thôn và 260 000 đồng ở thành thị. Tuy nhiên một số thành phố chuẩn đó có thay đổi do yếu tố giá sinh hoạt. Ví dụ, Sở Lao động Thương binh và xã hội Hà Nội đã đệ trình UBND thành phố mức chuẩn nghèo mới: 350.000 và 270.000 đồng/người/tháng tương ứng với khu vực thành thị và nông thôn. Kết quả dưới đây được TCTK tính toán dựa vào số liệu thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình và chỉ số giá tiêu dùng của từng khu vực thành thị/nông thôn qua các năm để loại từ yếu tố biến động giá. Số liệu căn cứ kết quả chính thức Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002 và kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004, Tổng cục Thống kê tính toán tỷ lệ (%) hộ nghèo cho năm 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo được Thủ tướng Chính phủ ban hành áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 (200 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực nông thôn, 260 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực thành thị) như sau: Năm 2002 Năm 2004 Cả nước 23,0 18,1 Thành thị 10,6 8,6 Nông thôn 26,9 21,2 Đồng bằng Sông Hồng 18,2 12,9 Đông Bắc 28,5 23,2 Tây Bắc 54,5 46,1 Bắc Trung Bộ 37,1 29,4 Duyên hải Nam Trung Bộ 23,3 21,3 Tây Nguyên 43,7 29,2 Đông Nam Bộ 8,9 6,1 Đồng bằng sông Cửu Long 17,5 15,3 Nguồn: Tổng cục Thống kê tháng 7 năm 2005 “Thông cáo báo chí về tỷ lệ hộ nghèo 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010” Các chỉ tiêu chủ yếu hướng đến trong giai đoạn 2006-2010 - Thu nhập của nhóm nghèo tăng 1,45 lần so với 2005 - Các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu - 6 triệu lượt hộ nghèo được vay tín dụng ưu đãi - 4,2 triệu lượt hộ nghèo tập huấn về khuyến nông lâm ngư - 1,5 triệu người được miễn giảm phí học nghề - 15 triệu người được khám chữa bệnh miễn phí khi đau ốm - 19 triệu lượt học sinh nghèo được miễn, giảm học phí, tiền xây dựng trường - 500 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm (Nguồn: Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, tháng 9-2005 : Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo 2006–2010) Trên đây là ba văn bản chủ yếu liên quan tới chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam, ngoài ra còn có nhiều văn bản khác đưa ra các đề án thực hiện xóa đói giảm nghèo ở cụ thể từng vùng, từng tỉnh thành phố giúp giải quyết đói nghèo một cách hiểu quả và đạt những thành tựu nhất định: Tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh trong thời gian qua. Tỷ lệ nghèo theo tiêu chuẩn cũ của Việt Nam (còn gọi là tỷ lệ nghèo thấp hay nghèo lương thực - thực phẩm) năm 2005 còn 7%, giảm mạnh so với tỷ lệ 17,5% năm 2001, bình quân mỗi năm giảm trên 2%, tương ứng với trên 300 nghìn hộ; vượt mục tiêu 10% đề ra cho năm 2005. Tỷ lệ nghèo theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (còn gọi là tỷ lệ nghèo cao, hay cả nghèo lương thực - thực phẩm, cả nghèo phi lương thực - thực phẩm) đã giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống 37,4% năm 1998, 28,9% năm 2002 và 24,1% năm 2004. Tất cả 8 vùng trong cả nước đều giảm; tỷ lệ nghèo ở 4 vùng đã thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước, trong đó thấp nhất là Đông Nam Bộ (6,7%), tiếp đến là đồng bằng sông Cửu Long (19,5%), đồng bằng sông Hồng (21,1%), duyên hải Nam Trung Bộ (21,3%). Bốn vùng khác tuy tỷ lệ nghèo cao hơn tỷ lệ chung của cả nước, nhưng đã giảm nhiều so với năm 2002: Tây Bắc (54,4% so với 68%), bắc Trung Bộ (41,4% so với 43,9%), Tây Nguyên (32,7% so với 51,8%), Đông Bắc (31,7% so với 38,4%). CÂU 2: Vì sao xóa đói giảm nghèo góp phần đảm bảo an sinh xã hội ? Đói nghèo và nguyên nhân của đói nghèo. Khái niệm: Đói nghèo hiểu theo nghĩa chung là tình trạng thiếu hụt những điều kiện cần thiết để đảm bảo mức sống tối thiểu của một cá nhân hay của một cộng đồng dân cư. Theo cách hiểu này, đói nghèo là tình trạng thiếu hụt những điều kiện vật chất như: thức ăn, nước uống, quần áo… Đói nghèo cũng có thể là tình trạng thiếu hụt những điều kiện về mặt xã hội như: giáo dục, chăm sóc sức khỏe, cung cấp thông tin, quan hệ công đồng…Trong xã hội phát triển, sự thiếu hụt còn có thể bao hàm cả tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng. Khái niệm đói nghèo được sử dụng với 2 cấp độ: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối - Nghèo tuyệt đối: gắn liền với tình trạng thiếu hụt các điều kiện cần thiết để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng (gọi là đói) và tiếp cận với các nhu cầu tối thiểu khác như chữa bệnh, học tập, đi lại (gọi là nghèo). Theo Ngân hàng thế giới, nghèo tuyệt đối là những người có mức thu nhập bình quân dưới 1$/ngày. với mức chuẩn nghèo này, vào năm 2001 ước tính trên thế giới có khoảng 1,1 tỷ người thuộc diện nghèo tuyệt đối - Nghèo tương đối: gắn liền với tình trạng một cá nhân hay một bộ phận dân cư có thu nhập thấp hơn thu nhập trung bình của các thành viên khác trong xã hội. Theo Ngân hàng thế giới, nghèo tương đối là những người có mức thu nhập bình quân dưới 2$/ngày. Năm 2001, cả thế giới có khoảng 2,7 tỷ người thuộc diện nghèo tương đối Ngoài ra, nghèo tương đối còn bao gồm nhiều khía cạnh như: thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dung trong lúc gặp khó khăn, dễ bị tổn thương khi gặp phải những đột biến bất thường trong cuộc sống, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định Bảng: Mức chuẩn nghèo của Việt Nam qua các giai đoạn Giai đoạn Thành thị Nông thôn Hộ đói Hộ nghèo Hộ đói Hộ nghèo 1995-1997 Dưới 13kg gạo/người/ tháng Dưới 20kg gạo/người/ tháng Dưới 8kg gạo/người/ tháng Dưới 15kg gạo/người/ tháng 1998-2000 Dưới 13kg gạo/người/ tháng Dưới 25kg gạo/người/ tháng Dưới 13kg gạo/người/ tháng Dưới 15kg gạo/người/ tháng với miền núi, hải đảo Dưới 20kg gạo/người/ tháng với đồng bằng trung du 2001-2005* Dưới 150.000 đồng/người/tháng Dưới 80.000 đồng/người/tháng đối với miền núi và hải đảo Dưới 100.000 đồng/người/tháng đối với đồng bằng, trung du 2005** Dưới 260.000 đồng/người/tháng Dưới 200.000 đồng/người/tháng * Không tách hộ đói, hộ nghèo ** Nghị định 170/2005/QĐ-TTg Nguyên nhân: Ở Việt Nam, tình trạng đói nghèo do các nguyên nhân chủ yếu sau: - Thiếu vốn sản xuất: 79%; thiếu kiến thức sản xuất 70%, thiếu thông tin thị trường 35%, ốm đau bệnh tật 32%, không có đất sản xuất 29%, đông con 24%, không tìm được việc làm 24%, rủi ro bất thường trong cuộc sống 5,9%, gia đình có người mắc tệ nạn xã hội 1%. 2. Xóa đói giảm nghèo Đói nghèo không chỉ là vấn đề của riêng những người rơi vào cảnh đói nghèo mà còn là vấn đề xã hội lớn, cần tới sự quan tâm của toàn xã hội. Vì vậy xóa đói giảm nghèo là mục tiêu quan trọng của bất kỳ quốc gia nào nhằm hướng tới một xã hội công bằng và văn minh. Xóa đói giảm nghèo góp phần đảm bảo an sinh xã hội bền vững vì một số lý do cơ bản sau: - Xóa đói giảm nghèo là một phần quan trọng nằm trong chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc gia. Cùng với BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội, các chương trình xóa đói giảm nghèo tạo ra một tấm lưới toàn diện bảo vệ cho các thành viên xã hội. Nếu như BHXH hướng tới đối tượng là người lao động, cứu trọ xã hội hướng tới những người khó khăn và bị tổn thương trong cuộc sống, ưu đãi xã hội hướng tới những người có công với nước, thì xóa đói giảm nghèo hướng tới một diện bảo vệ quan trọng dễ bị tổn thương nhất trong cuộc sống đó là tất cả những người nghèo. - Xóa đói giảm nghèo được coi là giải pháp có tính lâu dài và bền vững, giúp người nghèo thoát nghèo, tự đảm bảo cho cuộc sống của mình, góp phần tạo ra mạng lưới an sinh toàn diện cho mỗi quốc gia. - Xóa đói giảm nghèo, xét về lâu về dài, góp phần làm giảm gánh nặng cho hệ thống ASXH thông qua việc thu hẹp đối tượng cần trợ cấp ASXH. Khi tỷ lệ người nghèo giảm xuống, tất yếu sẽ có ít người hơn cần tới sự trợ giúp của chính sách ASXH. Vì vậy gánh nặng chi tiêu cho các trợ cấp ASXH sẽ được giảm xuống. - Xóa đói giảm nghèo tạo điều kiện cho chính sách ASXH tăng chất lượng hoạt động thông qua việc tăng mức trợ cấp ASXH. Khi đói nghèo giảm và xã hội giàu có hơn, các quỹ ASXH sẽ dồi dào hơn trong khi đối tượng cần trợ giúp cũng giảm. Vì vậy người nghèo nói riêng và những người gặp khó khăn nói chung có điều kiện để nhận mức trợ cấp ASXH tốt hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31543.doc
Tài liệu liên quan