Hàng hóa sức lao động xuất hiện đánh dấu 1 bước ngoặt cách mạng trong phương thức kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất, hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sản xuất hàng hoá lớn TBCN trở thành phổ biến dẫn đến thời đại kinh tế mới xuất hiện năng lực sản xuất ngày càng cao.
Phạm trù hàng hóa sức lao động chính là điều kiện chuyển hóa tiền dẫn đến tư bản và làm dáng tỏ mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản; đồng thời là cơ sở kết hợp để C.MÁC và Ă.Ghen xây dựng thành công học thuyết giá trị thặng dư và học thuyết tiểu công trong CNTB.
VN là 1 nước có dân số đông, tỉ lệ người đang trong độ tuổi lao động cao, nguồn nhân lực dồi dào. Việc sử dụng sức lao động 1 cách hợp lí, tận dụng 1 cách tối đa, đúng hướng là 1 yêu cầu đặt ra rất bức thiết của thị trường sức lao động ở VN. Vi vậy Đảng và nhà nước cần phải xây dựng 1 định hướng tốt, hợp li để tăng cường và đẩy mạnh thị trường sức lao động.
Thực tế nêu trên cho thấy, lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác không chỉ đúng trong chủ nghĩa tư bản mà nó còn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Vì thế, nghiên cứu và vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác vào việc thúc đẩy xuất khẩu lao động nước ta hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo ra sự đồng bộ trong đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội, để sự phát triển của đất nước ta thực sự do con người và vì con người.
16 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 05/01/2022 | Lượt xem: 471 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lý luận hàng hóa sức lao động với việc thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận:
Lý luận hàng hóa sức lao động với việc thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam.
==================================================================
Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Sức lao động là một khái niệm trọng yếu trong kinh tế chính trị Mác-xít. Mác định nghĩa sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội.
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá trình lao động sản xuất. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định sự chuyển hoá tiền thành tư bản.
Ở bài tiếu luận này tôi sẽ phân tích đề tài “Lý luận hàng hóa sức lao động với việc thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam” để có thể hiểu rõ hơn về mặt hàng hóa đặc biệt này.
2.Tổng quan đề tài
Hàng hóa sức lao động là một đề tài hay và mang tính thời sự cũng như cấp thiết hiện nay. Đã có rất nhiều những bài báo, trang thông tin nói tới vấn đề này, không những trong nước mà ngay cả các nước khác trên thế giới.
3.Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề hàng hóa sưc lao động ở Việt Nam. Đánh giá tình hình thế giới và đất nước hiện nay và liên hệ với việc thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, bài tiểu luận có nhiệm vụ: +Phân tích về hàng hóa và hàng hóa sức lao động
+Đánh giá tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam
4.Phạm vi nghiên cứu:
Vấn đề hàng hóa sức lao động là một vấn đề rộng. Trong phạm vi của tiểu luận, bản thân chỉ nghiên cứu một số nột dung chủ yếu về hàng hóa nói chung và hàng hóa sức lao động nói riêng, cũng như đi sâu vào phân tích và nhận xét tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam hiện nay.
5.Phương pháp nghiên cứu
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Leenin, Chính sách của Nhà nước, của Đảng Cộng Sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu.
Ngoài các phương pháp luận, bài tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ thể, chú trọng phương pháp lịch sử kết hợp với logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kế, khảo sát và tổng kết thực tiễn,...
6.Đóng góp của tiểu luận
Góp phần làm hiểu sâu và rõ hơn tình hình hàng hóa sức lao động hiện nay của Việt Nam, và việc xuất khẩu lao động hiện nay của nước ta.
7.Kết cấu bài tiểu luận
Bài tiểu luận được chia làm 2 chương với việc tìm hiểu và phân tích về vấn đề hàng hóa sức lao động trong việc thúc đẩy thị trường lao động Việt Nam.
Chương I
Hàng Hóa Sức Lao Động
1.Sức lao động
Theo C.Mac: " SLĐ hay năng lực lao động là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó". SLĐ là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất.
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có 2 điều kiện sau:
Người LĐ phải là người được tự do về thân thể của mình, phải có khả năng chi phối SLĐ ấy đến mức có thể bán SLĐ đó trong một t.gian nhất định.
Người LĐ ko còn có TLSX cần thiết để tự mình thực hiện LĐ và cũng không còn của cải gì khác, muốn sống, chỉ còn cách bán SLĐ cho người khác sử dụng.
2. Khái niệm hàng hóa
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đem
trao đổi, đem bán.
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị (hay giá trị trao đổi). Sở dĩ hàng hóa
có hai thuộc tính là do lao động sản xuất hàng hóa có hai mặt: Lao động cụ thể tạo ra giá trị
sử dụng của hàng hóa, lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Những nhà tư sản coi giá trị của hàng hóa là do sức cầu và công dụng của nó là hoàn toàn
sai:
Mác đã nói: Nếu người ta có cách biến than chì thành kim cương thì kim cương cũng sẽ rẻ
như gạch. Đó là vì lao động (trừu tượng) kết tinh trong nó giảm xuống. Mặc dù sức cầu và
công dụng của nó không đổi.
3. Điều kiện sức lao động trở thành hàng hóa
Sức lao động là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích.
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng không phải trong bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa. Thực tiễn lịch sử cho thấy,
sức lao động của người nô lệ không phải là hàng hóa vì bản thân người nô lệ thuộc sở hữu của chủ nô nên anh ta không có quyền bán sức lao động của mình. Người thợ thủ công tự do tuy được tuỳ ý sử dụng sức lao động của mình, nhưng sức lao động của anh ta cũng không phải là hàng hóa, vì anh ta có tư liệu sản xuất để làm ra sản phẩm nuôi sống mình, chứ chưa buộc phải bán sức lao động để sống. Sức lao động để trở thành hàng hoá cần phải có những điều kiện nhất định.
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá
Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do vệ thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Họ trở thành người “vô sản”. Để tồn tại buộc họ phải bán sức lao động của mình để sống.
Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiển biến thành tư bản. Tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ phải phát triển tới một mức độ nhất định.
Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của lao động mới là hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định nào đó các hình thái sản xuất xã hội cũ (sản xuất nhỏ, phường hội, phong kiến) bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những điều kiện để cho sức lao động trở thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội - thời đại của chủ nghĩa tư bản.
4. Các thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị
và giá trị sử dụng.
4.1.Giá trị hàng hoá sức lao động
Giống như các hàng hoá khác, giá trị hàng hoá sức co động củng do thời gian lao động xã hội cần thiết để xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định.
Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sông của con người. Muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định để mặc, ở, học nghề. V.V.. Ngoài ra người lao động còn phải thoả mãn những nhu cầu của gia đình và con
cái anh nữa. Chỉ có như vậy, thì sức lao động mới được sản xuất và tái sản xuất ra một cách liên tục.
Như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt nuôi sống bản thân người công nhân và gia đình anh ta; hay nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp rằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động.
+ Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
Yếu tố tinh thần: ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu
về tinh thần, văn hoá...
Yếu tố lịch sử: nhu cầu của con người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào điểu kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
+ Mặc dù bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử nhưng đối với mỗi một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định được lượng giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân;
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân;
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái và gia đình người công nhân.
4.2.Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.
Quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá sức động khác với quá trình tiêu dùng hàng hoá thông thường ở chỗ:
Đối với các hàng hóa thông thường, sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian.
Đối với hàng hoá sức lao động, quá trình tiêu dùng chính là quá trình sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá của bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đây chính là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
5.Hàng hóa sức lao động ở Việt Nam
5.1.Tình hình hiện nay:
Hiện cả nước vẫn còn trên 50% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn là một nước kém phát triển và tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn vẫn trầm trọng (chiếm tỷ trọng gần 97% trong tổng số lao động thiếu việc làm chung). Tình trạng việc làm khu vực phi chính thức (chiếm tỷ lệ 70% trong tổng số việc làm) nhưng không được hưởng chính sách an sinh xã hội, luôn đối mặt với việc làm bấp bênh, thu nhập thấp, ít được bảo vệ. Đó là cái vòng luẩn quẩn trong bức tranh chung của thị trường lao động Việt Nam: chất lượng lao động thấp dẫn đến lương thấp, năng suất lao động thấp và cuối cùng cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế. Bà Lin Lean Lim, chuyên gia cao cấp của ILO: Việt Nam
có tỷ lệ lao động thất nghiệp thấp và đang ở thời kỳ dân số vàng. Đó là lợi thế vì Việt Nam không phải đối mặt với tình trạng dân số già, khan hiếm lao động trẻ. Nhờ vậy, Chính phủ Việt Nam sẽ tiết kiệm được nguồn chi để đầu tư phát triển thị trường lao động. Tuy nhiên, Việt Nam đang đứng trước thách thức phải chuyển đổi cơ cấu lao động-từ thâm dụng (sử dụng nhiều lao động phổ thông, tay nghề thấp) sang lao động tinh có kỹ năng, tay nghề kỹ thuật cao. Để phát triển thị trường lao động theo hướng năng động, tạo nhiều cơ hội việc làm bền vững, thu nhập ổn định thì Việt Nam phải thay đổi cơ chế quản lý hộ khẩu, hỗ trợ lao động nhập cư hưởng đầy đủ các quyền lợi theo qui định của luật pháp; quan tâm phát triển kinh tế ở các vùng miền nghèo khó, khu vực nông thôn để cân bằng lực lượng lao động, tạo ra sự bình đẳng về việc làm, thu nhập.
4.2.Một số giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nền kinh tế thị trường sự định hướng xã hội chủ nghĩa: Vì lợi ích của người sử dụng lao động và lợi ích của người lao động phải có sự hài hoà. Quan hệ lao động ở các doanh nghiệp cần được được luật hoá, theo đó, quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động không phải là quan hệ đối kháng, lợi ích tư nhân của người sử dụng lao động và lợi ích cá nhân của người lao động không mâu thuẫn gay gắt với nhau mà được chuyển hoá để kết hợp thành một thể thống nhất, tạo hợp lực chung vì sự phát triển của xã hội, sự gắn kết hài hoà giữa các lợi ích là yếu tố cơ bản.
Thứ hai, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, nhất là về trình độ chuyên môn, kỹ thuật, về phẩm chất, năng lực thì mới có thể tiếp cận được nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Thứ ba, tôn trọng nhân cách, phát huy vai trò làm chủ, năng động sáng tạo, tinh thần yêu nước, yêu dân tộc của người lao động. Nhân cách của người lao động được thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác và cộng đồng trách nhiệm trong mọi công việc được giao. Do đó, tôn trọng nhân cách là làm cho những tố chất đó không hề bị vi phạm, ngược lại, nó được phát huy một cách mạnh mẽ trong lao động sản xuất, khiến cho người lao động toàn tâm, toàn ý, đem hết tài năng, sức lực của mình để đóng góp cho xã hội, cho doanh nghiệp lập mối quan hệ lao động thân thiện giữa người sử dụng lao động vì lợi ích chung. Thứ tư, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ lao động có trình độ và cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều đó có nghĩa là phải xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Đó là những người biết nắm bắt và sử dụng có hiệu quả những phương tiện kỹ thuật hiện đại; những người có năng lực sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, trong quản lý vĩ mô và vi mô; là những người ứng xử có văn hoá cũng như có đạo đức nghề nghiệp Đi đôi với đào tạo nghề, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật cho người lao động, cần quan tâm giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, cho dù người lao động đó làm việc trong bất cứ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào. Thứ năm, thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động bằng các hình thức như; phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, tăng cường quản lý Nhà nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động; hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lý và vận hành có hiệu quả thị trường lao động, nâng cao hơn nữa vai trò của các tổ chức đại diện cho người lao động và tổ chức đại diện cho chủ sử dụng lao động, tiếp tục hoàn thiện các chính sách thị trường lao động, chính sách tiền lương. Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động là một tất yếu khách quan, việc thừa nhận sức lao động là hàng hoá không cản trở việc xây dựng CNXH mà còn giúp kích thích cả người sở hữu sức lao động lẫn người sử dụng lao động đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Chương II
Hàng hóa sức lao động với việc thúc đẩy xuất khẩu lao động Việt Nam
1.Xuất khẩu lao động Việt Nam
Hiện nay Việt Nam có khoảng 400.000 lao động và chuyên gia làm việc ở trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề các loại. Số lao động này hàng năm đã gửi về nước một lượng ngoại tệ đáng kể, đưa xuất khẩu lao động ở Việt Nam trở thành một trong các ngành gia nhập “câu lạc bộ” 1 tỷ USD (bình quân từ năm 1999 đến năm 2003, số ngoại tệ các lao động gửi về đạt trên 1,5 tỷ USD/năm). Nguồn thu nhập cao từ hoạt động xuất khẩu lao động của người lao động đã góp phần cải thiện đời sống gia đình và thân nhân họ, giúp nhiều gia đình trở nên khá giả, nhiều lao động sau khi về nước đã trở thành các nhà đầu tư và chủ doanh nghiệp, tạo việc làm cho một bộ phận lao động khác, đóng góp vào sự phát triển và ổn định kinh tế xã hội. Xuất khẩu lao động còn là công cụ để chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, giúp đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng, nâng cao tay nghề và rèn luyện tác phong công nghiệp cho người lao động, đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước trên thế giới. Vì vậy, xuất khẩu lao động hiện đang được coi là một trong những ngành kinh tế đối ngoại mang lại nhiều lợi ích to lớn cả về mặt kinh tế và xã hội, là giải pháp tạo việc làm quan trọng và mang tính chiến lược của nước ta.
1.1. Khái quát về xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung và là một bộ phận của kinh tế đối ngoại, mà hàng hóa đem xuất là sức lao động của con người, còn khách mua là chủ thể người nước ngoài. Nói cách khác, xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế dưới dạng dịch vụ cung ứng lao động cho nước ngoài, mà đối tượng của nó là con người. Các nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển lẫn các nước kém phát triển đều tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động. Các nước phát triển xuất khẩu lao động có trình độ, kỹ thuật cao. Các nước kém phát triển xuất khẩu lao động dư thừa, trình độ tay nghề thấp nhằm giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện sống cho gia đình người lao động. Xuất khẩu lao động đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ta chủ yếu diễn ra theo 2 hình thức sau:
Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, bao gồm: Đi theo Hiệp định chính phủ ký kết giữa hai nhà nước. Hợp tác lao động và chuyên gia; Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng công trình, liên doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài; Thông qua các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao động; Người lao động trực tiếp ký hợp đồng lao động với cá nhân, tổ chức nước ngoài.
Xuất khẩu lao động tại chỗ: là hình thức các tổ chức kinh tế của Việt Nam cung ứng lao động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài ở Việt Nam bao gồm: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao; tổ chức, cơ quan ngoại giao, văn phòng đại diệncủa nước ngoài đặt tại Việt Nam.
Trong phạm vi bài này chỉ đề cập đến các hoạt động dịch vụ liên quan đến việc đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Dịch vụ xuất khẩu lao động trong các doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ các hoạt động hỗ trợ liên quan đến quá trình đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài của doanh nghiệp. Những hoạt động dịch vụ đó bao gồm: nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng; tổ chức tuyển chọn lao động, đào tạo giáo dục định hướng; tổ chức đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; quản lý và bảo vệ quyền lợi của lao động ở nước ngoài và đưa lao động về nước khi hết hạn hợp đồng. Dịch vụ xuất khẩu lao động còn có các đặc điểm cần chú ý như: Thể hiện rõ tính chất xã hội và nhân văn; Là một hoạt động kinh tế đối ngoại; kết hợp hài hòa giữa sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức kinh tế thực hiện dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; diễn ra trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt; Hoạt động của các doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu lao động phải đảm bảo lợi ích trong quan hệ ba bên Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động; Hoạt động của các doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu lao động chịu sự tác động mạnh mẽ của các biến động của thị trường sử dụng lao động.
1.2. Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam
Việt Nam bắt đầu đưa chuyên gia và lao động ra nước ngoài làm việc có thời hạn (sau đây gọi tắt là xuất khẩu lao động) từ năm 1980. Hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam có thể được chia thành 2 thời kỳ:
- Thời kỳ 1980 đến 1990: lao động Việt Nam chủ yếu được đưa sang các nước thông qua việc Nhà nước ký kết các Hiệp định lao động và trực tiếp thực hiện, chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, gồm Liên Xô (cũ), Cộng hòa dân chủ Đức (cũ), Tiệp Khắc (cũ) và Bungari. Một bộ phận lao động với số lượng không nhỏ được đưa đi làm việc ở Iraq, Libya
và đưa chuyên gia trong các lĩnh vực y tế, giáo dục và nông nghiệp sang làm việc ở một số nước châu Phi. Trong 10 năm (1980-1990), Việt Nam đã đưa được 244.186 lao động, 7.200 lượt chuyên gia đi làm việc và 23.713 thực tập sinh vừa học vừa làm ở nước ngoài. Ngân sách Nhà nước thu được khoảng 800 tỷ đồng (theo tỷ giá rúp/đồng Việt Nam năm 1990), hơn 300 triệu USD; Đồng thời, người lao động và chuyên gia đã đưa về nước một lượng hàng hóa thiết yếu với trị giá hàng nghìn tỷ đồng.
- Thời kỳ từ 1991 đến nay: Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Châu Phi, Iraq có tiếp nhận lao động Việt Nam đều xảy ra những biến động chính trị và kinh tế. Vì vậy, phần lớn các nước này không còn nhu cầu nhận tiếp lao động và chuyên gia Việt Nam. Trước tình hình đó đặt ra yêu cầu bức xúc là phải đổi mới cơ chế xuất khẩu lao động và chuyên gia cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Ngày 9 tháng 11 năm 1991, Chính phủ đã ban hành Nghị định 370/HĐBT về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Theo Nghị định này, Các tổ chức kinh tế được thành lập và được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cấp giấy phép hoạt động cung ứng lao động và chuyên gia cho nước ngoài. Việc xuất khẩu lao động và chuyên gia được thực hiện thông qua các hợp đồng do các tổ chức kinh tế đó ký với bên nước ngoài. Cho đến tháng 8 năm 1998, nước ta đã có 55 tổ chức kinh tế là doanh nghiệp nhà nước có giấy phép đang hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia. Trong giai đoạn từ 1996 đến 1999, số lượng các doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động theo nghị định 07/CP là 77 doanh nghiệp trong đó có 53 doanh nghiệp thuộc Bộ, ngành và 24 doanh nghiệp địa phương.
Tính đến tháng 9/2004, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động là 144 doanh nghiệp, trong đó có 118 doanh nghiệp Nhà nước, 11 doanh nghiệp thuộc các tổ chức đoàn thể, 12 công ty cổ phần và 3 công ty trách nhiệm hữu hạn.
Nhờ đổi mới cơ chế hoạt động xuất khẩu lao động và sự gia tăng số lượng các doanh nghiệp tham gia vào dịch vụ xuất khẩu lao động làm cho số lượng lao động và chuyên gia của Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài gia tăng nhanh chóng. Năm 1991 là 1.022 người, đến năm 2000 tăng lên 31.500 người, năm 2003 là 75.000 người.
Trong giai đoạn này, nước ta đã đưa 320.699 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Với mức lương bình quân (kể cả làm thêm giờ) của người lao động ở nước ngoài khoảng 400 USD/tháng, ước tính từ năm 1996 đến nay, số lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế mới đã chuyển về nước khoảng 500 triệu USD/năm. Ngoài ra, còn có khoảng 20 vạn lao động đang làm việc ở nước ngoài gồm những người đi lao động theo
Hiệp định cũ (1980- 1990), những người sang Liên Xô cũ và Đông Âu làm việc theo nhiều hình thức khác nhau đã chuyển về nước khoảng trên 1 tỷ USD/năm.
Từ thực tế hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua có thể đánh giá khái quát như sau:
Về ưu điểm
Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động đã và đang từng bước đổi mới phương thức hoạt động, phát triển nhiều hình thức dịch vụ tiến bộ, đầu tư có trọng điểm và nâng cao năng lực cạnh tranh. Lao động và chuyên gia đang làm việc ở nước ngoài với nhiều ngành nghề đa dạng như xây dựng, cơ khí, điện tử, dệt may, chế biến thủy sản, dịch vụ, vận tải biển, đánh bắt chế biến hải sản; chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, tin học...
Dịch vụ xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp góp phần làm cho hàng vạn người có việc làm với thu nhập cao; giảm được khoản đầu tư khá lớn cho đào tạo nghề và giải quyết việc làm trong nước, người lao động được nâng cao tay nghề, tiếp thu được công nghệ sản xuất mới và phương pháp quản lý tiên tiến, được rèn luyện tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp.
Thị trường xuất khẩu lao động của nước ta từng bước ổn định và mở rộng, số thị trường nhận lao động Việt Nam ngày càng tăng lên. Việc chỉ đạo khai thác, củng cố và mở rộng thị trường đã được định hướng: tập trung khai thác, củng cố các thị trường trọng điểm, từng bước tiếp cận, thí điểm để mở rộng sang các khu vực.
Các hợp đồng ký kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với đối tác nước ngoài đều phù hợp với luật pháp nước ta và luật pháp nước sử dụng lao động, phù hợp với mặt bằng thị trường và bảo đảm bảo được quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Về hạn chế
Số lượng lao động đưa đi của các doanh nghiệp nhìn chung còn thấp so với yêu cầu. Một số doanh nghiệp đã không tích cực đầu tư, thiếu chủ động trong tìm kiếm, khai thác thị trường để ký kết hợp đồng cung ứng lao động.
Chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu của các doanh nghiệp vẫn còn thấp so với đòi hỏi của thị trường, nhất là ngoại ngữ, tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của công nghệ sản xuất hiện đại chủ yếu là xuất khẩu lao động phổ thông; một số loại lao động kỹ thuật nước ngoài có nhu cầu nhưng ta chưa có đủ để đáp ứng.
Nhiều trường hợp người lao động tự bỏ hợp đồng trốn ra ngoài sống bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín lao động ta và thị trường lao động của Việt Nam. Tình trạng lao động phải về nước trước hạn cũng xảy ra phố biến, dẫn đến việc doanh nghiệp mất nguồn
thu phí dịch vụ, phát sinh tăng chi phí để giải quyết các vấn đề phát sinh và làm giảm đáng kể hiệu quả của dịch vụ xuất khẩu lao động của doanh nghiệp.
2. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu lao động
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu cụ thể cho hoạt động xuất khẩu lao động từ nay đến năm 2010 là phấn đấu đạt được quy mô xuất khẩu 70.000 lao động/năm, đến năm 2005 và giai đoạn 2006- 2010 nâng lên mức bình quân 100.000 lao động/năm. Phấn đấu luôn có khoảng 400.000 - 500.000 lao động và chuyên gia làm việc thường xuyên ở nước ngoài. Để góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu trên, giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp cần tập trung là:
2.1. Các doanh nghiệp cần có các biện pháp tích cực để gia tăng số lượng và nâng
cao chất lượng lao động xuất khẩu
Nhằm đáp ứng tốt nhu cầu thị trường lao động nước ngoài, trước mắt các doanh nghiệp một mặt vẫn phải tập trung vào việc xuất khẩu lao động phổ thông cho các thị trường Đài Loan, Malaysia... nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nước. Mặt khác, phải tìm mọi giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị trường, tiến tới phấn đấu để có đủ khả năng và điều kiện xuất khẩu lao động có kỹ thuật. Biện pháp cụ thể cho vấn đề trên là:
Hoàn thiện quy trình tuyển chọn, đào tạo lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài: Đổi mới công tác tuyển chọn lao động bằng phương thức gắn kết trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp xã phường và các cơ sở sản xuất, đào tạo. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động của chính quyền địa phương các cấp, nhân dân và người lao động trực tiếp được cung cấp các thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, các quy định pháp luật của Nhà nước về công tác xuất khẩu lao động; về thị trường, nhà máy, công xưởng nơi người lao động sẽ đến làm việc. Chính quyền địa phương giám sát việc tuyển lao động, giới thiệu cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động những người lao động có nhân thân rõ ràng, phẩm chất đạo đức tốt, xuất thân từ những gia đình chấp hành tốt chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chính quyền địa phương cần có chính sách, cơ chế hỗ trợ người lao động trong vay vốn và tạo điều kiện thuận lợi trong việc làm các thủ tục cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng công tác đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động, bổ sung thêm các nội dung giáo dục định hướng thiết thực, bằng các dẫn chứng thực tế giáo dục làm cho người lao động hiểu rõ tác hại của việc bỏ trốn, kiên quyết dừng và không tuyển chọn lao động ở những địa phương có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao. Cần
ưu tiên tuyển nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao tham gia xuất khẩu lao động, trước hết từ các trường đào tạo nghề có chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu lao động.
2.2. Bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ doanh nghiệp làm dịch vụ xuất
khẩu lao động
Đội ngũ này cần phải được chuyên môn hoá, được đào tạo một cách cơ bản về nghiệp vụ xuất khẩu lao động, phải có những kiến thức, kỹ năng và hiểu biết tốt về Luật lao động, Luật hình sự, Luật dân sự... và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xuất khẩu lao động và chuyên gia như chỉ thị 41/CT-TW ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia; Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999, nghị định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003 của Chính phủ; các Thông tư, văn bản chỉ đạo hướng dẫn thực hiện...
2.3. Doanh nghiệp cần đầu tư vốn, cơ sở vật chất phục vụ cho xuất khẩu lao động
Từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp làm dịch vụ xuất khẩu lao động. Cần đầu tư cơ sở vật chất, nguồn vốn xây dựng cơ sở đào tạo, bổ sung đội ngũ giáo viên có trình độ cao, giáo dục định hướng cho người lao động để một mặt chủ động được nguồn lao động, mặt khác nâng cao chất lượng đào tạo trên cơ sơ hoàn thiện chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo nguồn lao động xuất khẩu.
2.4. Triển khai có hiệu quả mô hình liên kết về xuất khẩu lao động
Nhằm giảm phiền hà và tốn kém cho người lao động, thông qua mô hình liên kết, doanh nghiệp đến với người lao động có sự giám sát hỗ trợ của chính quyền địa phương. Các doanh nghiệp kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để tuyển lao động; doanh nghiệp công khai minh bạch với chính quyền địa phương và người lao động về các điều kiện của hợp đồng, đặc biệt là các khoản đóng góp của người lao động, qua đó giúp cho người lao động giảm được các chi phí không cần thiết, tạo điều kiện làm các thủ tục hành chính và vay vốn trang trải cho những chi phí ban đầu tại các Ngân hàng địa phương.
2.5. Nâng cao hơn nữa hiệu quả dịch vụ xuất khẩu lao động
Trước hết là phải rút ngắn thời gian từ khi người lao động có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài đến khi họ được xuất cảnh, đặc biệt là giảm thiểu thời gian làm thủ tục và thời gian chờ đợi của người lao động. Đây là một trong các giải pháp góp phần giảm chi phí phát sinh ban đầu của ngươi lao động nhằm thu hút đông đảo người lao động đi xuất khẩu lao động.
2.6.Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác quản lý lao động
Trong thời gian lao động làm việc ở nước ngoài, với mỗi thị trường, cần có các giải pháp thích hợp nhằm giảm thiểu các rủi ro có xảy ra do việc quản lý lao động gây nên. Cần xử lý kiên quyết những trường hợp lao động vi phạm hợp đồng, yêu cầu phải bồi thường thiệt hại
cho doanh nghiệp theo các điều khoản của hợp đồng đã ký. Đồng thời, Nhà nước phải mạnh tay xử lý nghiêm những doanh nghiệp để xảy ra những tiêu cực trong xuất khẩu lao động.
2.7. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về xuất khẩu lao động và chuyên gia
Bổ sung và sửa đổi những cơ chế, chính sách còn thiếu hoặc không phù hợp, như Chính sách đầu tư mở thị trường; Chính sách hỗ trợ đào tạo và tín dụng cho người lao động đi xuất khẩu: Chính sách tín dụng cho người đi làm việc ở nước ngoài, chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách khuyến khích chuyển tiền và hàng hóa về nước, chính sách tiếp nhận trở lại sau khi hoàn thành nhiệm vụ; Triển khai có hiệu quả việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ hỗ trợ Xuất khẩu lao động theo Quyết định số 163/2004/QĐ-TTg ngày 08 tháng 9 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ.
2.8. Nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương trong quản lý hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia
Trong trường hợp cần thiết có thể hỗ trợ về vốn, cơ sở vật chất cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động; Tăng cường công tác thông tin, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia; Ngăn chặn và xử lý kịp thời các hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong xuất khẩu lao động; Xử lý nghiêm khắc những người đi xuất khẩu lao động tùy tiện phá bỏ hợp đồng, làm ăn phi pháp.
Kết Luận
Hàng hóa sức lao động xuất hiện đánh dấu 1 bước ngoặt cách mạng trong phương thức kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất, hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sản xuất hàng hoá lớn TBCN trở thành phổ biến dẫn đến thời đại kinh tế mới xuất hiện năng lực sản xuất ngày càng cao.
Phạm trù hàng hóa sức lao động chính là điều kiện chuyển hóa tiền dẫn đến tư bản và làm dáng tỏ mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản; đồng thời là cơ sở kết hợp để C.MÁC và Ă.Ghen xây dựng thành công học thuyết giá trị thặng dư và học thuyết tiểu công trong CNTB.
VN là 1 nước có dân số đông, tỉ lệ người đang trong độ tuổi lao động cao, nguồn nhân lực dồi dào. Việc sử dụng sức lao động 1 cách hợp lí, tận dụng 1 cách tối đa, đúng hướng là 1 yêu cầu đặt ra rất bức thiết của thị trường sức lao động ở VN. Vi vậy Đảng và nhà nước cần phải xây dựng 1 định hướng tốt, hợp li để tăng cường và đẩy mạnh thị trường sức lao động.
Thực tế nêu trên cho thấy, lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác không chỉ đúng trong chủ nghĩa tư bản mà nó còn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Vì thế, nghiên cứu và vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác vào việc thúc đẩy xuất khẩu lao động nước ta hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo ra sự đồng bộ trong đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội, để sự phát triển của đất nước ta thực sự do con người và vì con người.
Danh mục tài liệu tham khảo
Bộ giáo dục và đào tạo. Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lenin, NXB. CTQG. Hà Nội, 2009
Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin, NXB.CTQG, Hà Nội. 2002-2007
https://vi.wikipedia.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_ly_luan_hang_hoa_suc_lao_dong_voi_viec_thuc_day_xu.doc