Mỗi hình thái kinh tế xã hội đặc trưng cho một kiểu Nhà nước một chế độ xã hội nhất định. Việc áp dụng: “ Lý luận hình thái kinh tế xã hội đối với sự nghiệp CNH- HĐH ở Việt Nam” là cơ sở thực tiễn cho việc hình thành Nhà nước XHCN một Nhà nước của dân do dân vì dân, tiến tới thực hiện mục tiêu: “ Dân giàu nước mạnh, xã hội công băng văn minh”.
Nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế xã hội cho thấy để thực hiện thành công quá trình CNH- HĐH đòi hỏi trước hết phải phát triển đồng bộ toàn diện các yếu tố hợp thành là LLXS, QHSX và kiến trúc thượng tầng. Như vậy phải biết khai thác triệt để mọi nguồn nhân lực về tự nhiên nhấn mạnh nhân tố con người tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học kĩ thuật xây dựng quan hệ sản xuất tiên tiến. Đặc biệt khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Nhà nước định hướng nền kinh tế XHCN.
Tiến hành quá trình CNH- HĐH ở đất nước ta không phải không gặp nhiều khó khăn bởi xuất điểm của nước ta là một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu song với lập trường kiên định của Đảng Nhà nước cùng với quyết tâm toàn dân tộc quá trình này sẽ từng bước thành công. Việc Đảng Nhà nước tiến hành con đường CNH- HĐH là hết sức đúng đắn bằng sự thông minh sáng tạo của con người Việt Nam một lần nữa chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ cất cánh trở thành con rồng châu Á đưa nước ta sánh vai với các nước hùng mạnh trên thế giới.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lý luận hình thái kinh tế xã hội đối với sự nghiệp CNH- HĐH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao động chính là sự kết hợp biện chứng giữa phần vật thể và phần trí tuệ của con người. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người dùng trí tuệ nhận thức bản chất, quy luật của các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, sử dụng chúng làm phương tiện sản xuất và con người không ngừng tạo cho mình lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh, tinh vi. Trong lực lượng sản xuất công cụ lao động có một vai trò quan trọng là thước đo sự chinh phục tự nhiên của con người. Công cụ lao động yếu tố được coi là động của LLSX, chẳng qua cũng chỉ là phần tự nhiên được trí tuệ hoá. Con người không chỉ quyết định sự ra đời của công cụ lao động mà còn quyết định cả quá trình vận hành của chúng. Hiện nay cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ điện tử đã làm nên những sự tích kì diệu, tạo ra những bước nhảy vọt đột biến trong tất cả các lĩnh vực của xã hội . Tuy vậy khoa học chẳng bao giờ là yếu tố độc lập nó cũng chỉ là sản phẩm của con người, gắn vào và phục vụ con người.
Đối với nước ta, một nước vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, kém phát triển. Vì vậy, CNH- HĐH theo định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh không chỉ là con đường tất yếu mà còn là một cuộc cách mạng toàn diện sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
b. Phát triển LLXS tạo đà đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.
Những thành tựu của hơn 10 năm đổi mới đã tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết để đất nước ta chuyển sang giai đoạn phát triển mới giai đoạn đẩy mạnh CNH- HĐH . Có thể nói , những thành quả của lực lượng sản xuất đã tạo đà cho sự nghiệp tăng trưởng kinh tế của nước ta đạt tới trình độ cao hơn.
Do nước ta quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển đi lên TBCN từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển điều đó buộc chúng ta phải lựa chọn con đường quá độ gián tiếp. Thực tế yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu nhiều mô hình, phương thức và bước đi của các nền kinh tế đã phát triển và cả những nền kinh tế đang phát triển .
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng cơ sở vật chất của CNXH phải là nền đại công nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất một cách vô hạn. Ngày nay tuy quan niệm về đại công nghiệp đã có những thay đổi đáng kể những tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin về vai trò của cơ sở vật chất kĩ thuật đối với sự nghiệp xây dựng CNXH vẫn giữ nguyên ý nghĩa của nó. Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng CNH- HĐH xem đó là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp: “ LLXS lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn là lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay” (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội -1996).
Với mỗi bước phát triển của cơ sở vật chất kĩ thuật, sự phân công lao động sự hợp tác trong sản xuất và quản lý sản xuất. Cùng với điều đó, việc nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật cho người lao động lại tạo tiền đề cho việc sử dụng vật chất kĩ thuật hiện có đạt hiệu quả cao hơn. Quan hệ khách quan hữu cơ ấy đòi hỏi chúng ta phải chú ý hơn nữa đến những bước đi ban đầu của sự phát triển LLXS, yếu tố tạo đà để đẩy mạnh quá trình CNH- HĐH đất nước.
2.2 Quan hệ sản xuất với quá trình CNH- HĐH.
2.2.1 Khái niệm quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ cơ bản giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất và tái sản xuất vật chất của xã hội.
2.2.2 Xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kì đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.
Kết quả của hơn 10 năm đổi mới không chỉ đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội không chỉ làm cho con đường đi lên CNXH ngày càng rõ nét hơn, lòng tin của nhân dân đối với chế độ và tiền đồ đất nước cũng được nâng lên mà còn tạo ra thế và lực đưa đất nước ta chuyển sang thời kì đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.
Với tư cách là người sáng lập ra kinh tế chính trị Mác xít Các Mác và F. Enghen khi bàn về vấn đề sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung đã đi đến khẳng định mọi sự phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất do tính chất và trình độ phát triển của LLXS quyết định.
Chúng ta không chủ trương xây dựng một hệ thống quan hệ sản xuất bất kì và trừu tượng mà lấy xây dựng một quan hệ sản xuất mới phát triển theo định hướng XHCN, mà con đường đi lên của nó ngày một rõ nét. Lịch sử và kinh nghiệm chuyển đổi nền kinh tế nhiều nước cho thấy, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và mở cửa việc quản lý vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối có liên quan đến sự chuyển hoá giữa trục sở hữu và trục quyền lợi, liên quan đến sự sống còn của thể chế chính trị. Bởi vậy việc nắm vững định hướng XHCN khi xây dựng quan hệ sản xuất mới thích ứng trong thời kì đẩy mạnh CNH- HĐH là rất cần thiết và có ý nghĩa về nguyên tắc cần được coi trọng. Kết cấu của quan hệ sản xuất cần được cải thiện ở 3 mặt quan hệ cơ bản. Quan hệ sở hữu đối với quan hệ sản xuất. Quan hệ sở hữu đóng vai trò quyết định đến các quan hệ khác của quan hệ sản xuất . Quan hệ về tổ chức quản lý quan hệ sản xuất có quan hệ sở hữu về TLSX quyết định và cùng với quan hệ phân phối sản phẩm nếu biết kết hợp và sử dụng hợp lý sẽ góp phần tích cực vào việc củng cố và hoàn thiện QHSX. Ngược lại nó có thể làm biến dạng QHSX, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế xã hội . Bởi lẽ quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất là nhân tố tham gia quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ hiệu quả của nền kinh tế . Quan hệ phân phối phụ thuộc vào 2 quan hệ trên nhưng thông qua đó nó trở thành chất xúc tác quan trọng đặc biệt đối với sự tăng trưởng kinh tế .
Ba mặt củan QHSX nói trên là một thể thống nhất hữu cơ nên việc phát triển QHSX luôn phát huy tính đồng bộ của chúng.
2.3 Xây dựng QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .
Với tư cách là người sáng lập ra kinh tế chính trị Mac xít Các Mác và F. Ang ghen khi bàn về vấn đề sở hữu nói riêng và QHSX nói chung đã đi đến khẳng định mọi sự biến đổi và phát triển của QHSX do tính chất và trình độ phát triển của LLXS quyết định. Nói khác đi, việc xây dựng QHSX mới tất yếu chịu sự chi phối của quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLXS mà sự phù hợp này với tư cách là động lực của tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Sự phù hợp này không ở trạng thái tĩnh mà ở trạng thái động mà đó cũng là sự quá độ của mỗi mặt trong 2 mặt LLXS và QHSX. Bởi vậy cần phải xem xét sự phù hợp giữa LLXS và QHSX trong sự gắn bó với yêu cầu đẩy mạnh CNH- HĐH và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN trong thời kì mới ở nước ta, đồng thời vừa phát triển LLXS vừa từng bước xây dựng QHSX mới. Trong quá trình xây dựng QHSX mới, sự phát triển của LLXS luôn đi trước một bước và có vai trò quyết định. Song QHSX không chỉ đơn thuần là sự phản ảnh mà có tác dụng to lớn thúc đẩy sự phát triển của LLXS. Hiện nay chúng ta hiểu rằng CNH chính là yếu tố quyết định có khả năng làm thay đổi tận gốc tình trạng nghèo nàn lạc hậu của đất nước ta hiện nay. CNH sẽ tạo cơ sở cho sản xuất tạo ra hình thức sản xuất tập trung để phát triển kinh tế tạo việc làm cho người lao động nâng cao trình độ học vấn trình độ khoa học kĩ thuật của người dân sẽ được thay đổi về chất, năng suất lao động nhờ đó sẽ được tăng lên. Nếu chúng ta chủ động xây dựng QHSX phù hợp với sự phát triển mới của LLXS thì sản xuất sẽ tiếp tục phát triển tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu đa dạng đời sống cua xã hội .
Thực tiễn trong thời gian qua ở nước ta cho thấy chỉ riêng sự thay đổi quyền sở hữu từ một hình thức sang nhiều hình thức hoặc thừa nhận các quyền định đoạt sử dụng chuyển nhượng và thừa kế đối với nông dân về ruộng đất cũng đã tạo ra sự phát triển nhanh chóng LLXS một trong những nguyên nhân chủ yếu có tính bước ngoặt để nước ta có thể trụ vững, vươn lên vượt qua khủng hoảng kinh tế xã hội.
Sự phát triển của một nền kinh tế không chỉ bắt đầu từ sự thay đổi và phát triển trong cấu trúc của LLSX mà còn bắt đầu từ sự thay đổi và phát triển trong cấu trúc của hệ thống QHSX mà sự phù hợp giữa chúng là động lực. Bởi vậy giữ vững tính hệ thống và tính đồng bộ trong việc xây dựng QHSX có ý nghĩa rất quan trọng.
Cần nhấn mạnh rằng trong thời đại ngày nay, việc phát triển LLXS (thông qua đẩy mạnh CNH- HĐH) và xây dựng QHSX mới tương ứng không thể thực hiện được theo con đường phát triển tuần tự giống như các nước di trước.
Có thể cần phải phát triển theo con đường rút ngắn hiện tại, rút ngắn đáng kể về mặt thời gian- mà điều kiện lịch sử trong nước và trên thế giới cho phép. Bằng cách đó sẽ tránh được tư duy và thói làm ăn nôn nóng, thiếu khoa học khép kín, thụ động. Từ đó xây dựng ý chí tự lực tự cường , tự lực chủ động sáng tạo trong suy nghĩ, cách làm trên cơ sở nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức và nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại và XHCN.
Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLXS là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác động của quy luật này mà hiểu xã hội là sự phát triển kế tiếp từ thấp tới cao của các phương thức sản xuất . Trước đây do sự chưa nhận thức và vận dụng đúng quy luật này cộng với tư tưởng nóng vội chủ quan duy ý chí chúng ta đã đẩy mạnh QHSX đi quá xa so với trình độ và tính chất của LLXS phổ biến còn lạc hậu mà chưa chú ý tới các mặt của QHSX. Do đó từ đại hội thứ VI Đảng ta đã xây dựng và quán triệt chủ trương đổi mới tức là nhận thức và vận dụng đúng quy luật này trong điều kiện cụ thể.
2.4 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Xem xét mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cần phải tìm hiểu về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta.
Về cơ sở hạ tầng bao gồm các thành phần kinh tế các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Mỗi thành phần kinh tế đều vận hành theo những quy luật riêng của mình. Do đó, có thể đảm bảo định hướng XHCN đối với tất cả các thành phần kinh tế Nhà nước phải sử dụng các biện pháp tổng hợp, tạo mọi điều kiện để chúng phát huy hết tác dụng một cách tốt nhất vai trò của chúng.
Về kinh tế thị trường XHCN Đảng ta trong văn kiện đại hội VII khẳng định lấy chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động xây dựng một chế độ xã hội không có áp bức bất công, đảm bảo để người dân lao động thực sự làm chủ xã hội có đủ điều kiện để phát huy đủ khả năng sáng tạo của mình vào công cuộc xây dựng chế độ mới chế độ do dân vì dân. Xây dựng hệ thống chính trị mang bản chất công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tập hợp các tổ chức các lực lượng xã hội vào hệ thống chính trị XHCN nhằm phối hợp hành động, tạo điều kiện sức mạnh tổng hợp. Tiến hành CNH- HĐH đất nước theo định hướng XHCN hiện nay liên quan đến cả kinh tế thị trường, cả cơ sở hạ tầng cả quan hệ sản xuất và LLXS. Cơ sở hạ tầng quyết định kinh tế thị trường, cơ sở hạ tầng và quan hệ sản xuất XHCN đang dần được thiết lập xây dựng gĩư vai trò thống trị, kinh tế thị trường với quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam XHCN của dân do dân và vì dân. Đến lượt nó kinh tế thị trường không chỉ củng cố duy trì, phát triển bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó mà còn tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Trong điều kiện nước ta hiện nay, kinh tế thị trường với vai trò của nó không giảm đi mà ngược lại tăng lên và có tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng xã hội mới chính mục đích đó quy định tính tích cực ngày càng tăng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Bản chất của kinh tế thị trường chính là bản chất của kinh tế chính trị. Kinh tế đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, có vai trò tác động mạnh mẽ trở lại. Thực tế cho thấy thành tựu đạt được trong 10 năm đổi mới vừa qua không thể tách rời việc giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Chính trị không chỉ là mục đích mà còn là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế . F. Anghen đã chỉ rõ để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị, Lênin viết: “Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận vai trò chính trị đối với nền kinh tế . Như vậy, chính trị kinh tế không thể tách rời nhau mà được xem xét, giải quyết đồng thời. Như vậy phải kết hợp hài hoà đồng bộ và toàn diện đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong công cuộc CNH- HĐH ở nước ta hiện nay. Tại đại hội đại biểu lần thứ VII (tháng 6/1991) Đảng ta đã khẳng định: “ Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế , đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống việc làm, các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội coi đó là điều quan trọng để tiến hành thuận lợi trong đổi mới chính trị”. Đồng thời đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế , chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện dân chủ.
Tư tưởng trên được tiếp tục phát triển và thực hiện rõ ràng hơn tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII(6/1996). Đảng ta đã khẳng định: “ Phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu từ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đây là một cách khái quát mới và hoàn toàn khoa học, nó vừa phù hợp với lí luận chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phù hợp với công cuộc đổi mới thực tiễn CNH- HĐH ở nước ta hiện nay.
Khẳng định một lần nữa quá trình xây dựng CNH- HĐH đất nước nhất thiết phải kết hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị một cách hiệu quả.
Kinh tế thị trường là một bộ phận hình thái của kinh tế xã hội. Việc phát triển kinh tế thị trường XHCN ở nước ta hiện nay là một vấn đề bức thiết, tuy vậy quá trình đó gặp không ít những khó khăn. Kinh tế thị trường hình thành và phát triển xuất phát từ cơ sở hạ tầng định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn yếu kém khách quan mà nói quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng và kinh tế thị trường đặt trách nhiệm lớn lao, yêu cầu kết hợp chặt chẽ và có hiệu quả vai trò lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý của Nhà nước, cần tận dụng khai thác sáng tạo mọi khả năng hiện có về tự nhiên, con người… đồng thời phải tranh thủ mọi nguồn lợi có được trong quan hệ với nước ngoài. Bên cạnh đó nhân tố trực tiếp quan trọng nhất vẫn là sức mạnh của toàn dân.
II. Vai trò của CNH- HĐH đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
1. CNH- HĐH con đường của các nước đang phát triển.
Hiện đại hoá xã hội là hình thức đặc bịêt của sự phát triển xã hội là tổng hoà các phương thức cải biến nhằm đưa nền kinh tế xã hội quá độ từ trình độ phát triển khác nhau đến các trình độ phát triển cao hơn trên cơ sở tiến bộ KHKT. Nó cũng là hình thức quá độ từ các trình độ phát triển khác nhau đến các xã hội truyền thống nông nghiệp sang xã hội hiện đại, xã hội công nghiệp thông tin.
Nếu như trước đây, trong các nước phương tây quá trình hiện đại hoá diễn ra một cách tuần tự qua tất cả các giai đoạn của nó, thì hiện nay với thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, các nước đang phát triển có thể bỏ qua những giai đoạn phát triển của công nghệ sản xuất để đi ngay vào sử dụng những công nghệ của thời đại hậu hiện đại hoá. Hàn quốc, Đài Loan, Xingapo trong thực tế đã nhanh chóng vượt qua giai đoạn sử dụng công nghệ cơ khí để bước vào giai đoạn các công nghệ tin học. Điều đó cho phép rút ngắn thời gian hiện đại hoá đất nước.
Trong tất cả các quốc gia thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá Nhà nước luôn đóng vai trò là chủ thể. Các hoạt động của Nhà nước đều đóng vai trò là chủ thể điều khiển thị trường với tính cách là môi trường kinh tế xã hội năng động ảnh hưởng tới tất cả các thành viên xã hội , các chủ thể kinh tế buộc họ phải năng động để tồn tại, phát triển hướng tất cả vào các thành viên xã hội vào mục tiêu phát triển kinh tế thực hiện CNH- HĐH đất nước.
Là chủ thể của quá trình hiện đại hoá, Nhà nước thực hiện điều chỉnh kinh tế vĩ mô bằng việc tạo ra môi trường pháp lý thích ứng với cơ chế thị trường có điều tiết tạo cơ sở hạ tầng cho sản xuất, đảm bảo ổn định xã hội và khả năng quốc phòng…. Do đó việc thực hiện các chế độ sở hữu Nhà nước là điều kiện cần thiết nhưng việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế cũng là một tất yếu. Phải xem chế độ sở hữu cũng là những phương tiện để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, quốc gia có đời sống văn minh hạnh phúc.
Công nghiệp hoá là một trong những nội dung và điều kiện quan trọng nhất của hiện đại hoá. Trong quá trình công nghiệp hóa cũng không thể lặp lại những điều kiện phát triển kĩ thuật, công nghệ của các nước công nghiệp phát triển cao đã đi qua, trái lại có thể bỏ qua một số công nghệ giai đoạn công nghiệp hoá để vươn tới những ngành công nghiệp công nghệ bậc cao, mũi nhọn của cách mạng như công nghệ điện tử, tin học, sinh học….Việc đó chỉ có thể có được trong điều kiện ngày nay của cách mạng khoa học kĩ thuật và quá trình quốc tế hoá mọi mặt của đời sống xã hội.
Mô hình kinh tế mở hướng ngoại sẽ tạo cho nền kinh tế đang mang nặng những yếu tố của xã hội truyền thống nông nghiệp có cơ hội tiếp xúc với thị trường, tạo nên sự thúc đẩy mới cho nền kinh tế . Thực tế lịch sử cho thấy những bước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo mô hình định hướng trên đây có tốc độ phát triển nhanh nhất, tạo nên bức tranh kinh tế sôi động của khu vực Đông Nam á, những nước khác trong những khoảng thời gian nhất định đã tiến hành hiện đại hoá với định hướng khác đã có tốc độ tăng trưởng kém hơn, thậm trí rơi vào tình trạng trì trệ. Nếu so sánh với nền kinh tế khác của thế giới như châu Phi châu Mỹ la tinh, Trung cận đông -những nơi cách vài thập niên có trình độ kinh tế tương đương khu vực Đông Nam á, thì rõ ràng là con đường hiện đại hoá của các nước khu vực này là một nét độc đáo riêng biệt.
Quá trình CNH-HĐH của các nước phương tây trước đây không chỉ dựa trên việc bóc lột thậm tệ nhân dân trong nước mà còn dựa trên việc bóc lột dã man các thuộc địa. Thậm chí ngay cả trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ngày nay, việc bóc lột ấy vẫn là một trong những nguồn lực quan trọng của các nước khu vực này. Quá trình CNH- HĐH ở các nước khu vực Đông - Đông Nam á là quá trình động viên và sử dụng tối đa tổng hợp các tiềm năng của đất nước, dựa vào sự hợp tác, tiềm năng của đất nước, dựa vào sự hợp tác giao lưu quốc tế, bởi ở họ hoàn toàn không có thuộc địa và cũng không thể thực hiện thậm tệ việc bóc lột nhân dân trong nước, dựa vào sự hợp tác, giao lưu quốc tế, bởi họ hoàn toàn không có thuộc địa và cũng không thể thực hiện thậm tệ việc bóc lột nhân dân trong nước như chủ nghĩa tư bản phương tây trước đây, trái lại họ còn phải kết hợp ngay từ đầu sự phát triển kinh tế và phát triển xã hội, phát triển con người buộc phải thực hiện tiết kiệm là quốc sách ,”thắt lưng buộc bụng” trong vài thế hệ để bù đắp phần nào sự thiếu hụt nguồn vốn cho hiện đại hoá sự hoà hợp thống nhất ý chí, nỗ lực của toàn bộ quốc gia dân tộc trong CNH- HĐH là đặc điểm nổi bật. Nó buộc chính phủ nhà nước phải luôn đảm bảo cho sự nghiệp hiện đại hoá diễn ra trong sự thăng bằng ổn định, không được phép đặt “con người kinh tế”, chủ nghĩa cá nhân lên trên hết, đạp lên xã hội tập thể cộng đồng mà ngay từ đầu phải hướng đến con người, các tầng lớp xã hội khác nhau, không cho phép nhấn “nhấn chìm” bất cứ tầng lớp nào. Hiện đại hoá ở phương tây đã diễn ra trong sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân cực đoan, chủ nghĩa tư bản và nhờ vào chủ nghĩa cá nhân ấy, còn CNH ngày nay từ đầu dựa trên cơ sở hoà hợp, thống nhất dân tộc, quốc gia, có thể trực tiếp phát triển cá nhân và tạo điều kiện để cá nhân tự khẳng định tính xã hội của mình trong sự phát triển chung của cộng đồng quốc gia, dân tộc mà không tạo ra chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Sự thành công của CNH- HĐH trong khu vực Đông Nam á là do sự cố gắng, nỗ lực phấn đấu chung của các thế hệ tiếp theo liên tục từ trong những thập niên gần đây. Họ đã thống nhất đoàn kết đặt lợi ích của dân tộc lên cao, nhận thức được xu thế của lịch sử và địa vị của quốc gia trong hoàn cảnh quốc tế mới, xác định đúng chiến lược phát triển kinh tế , CNH- HĐH đất nước, quyết tâm đuổi kịp và vượt các nước công nghiệp phát triển khác theo cách riêng phù hợp với hoàn cảnh đất nước quốc tế.
CNH- HĐH là con đường phát triển duy nhất không chỉ của Việt Nam mà còn là của tất cả các quốc gia đang phát triển để nhanh chóng xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu bước vào kỉ nguyên mới mà thời đại đang mở ra trước tất cả các quốc gia.
2.Thực hiện quá trình CNH- HĐH đưa nước ta tiến lên CNXH.
2.1 Những thành công của quá trình CNH- HĐH- điều kiện thuận lợi để xây dựng và củng cố vững chắc hệ thống XHCN ở Việt Nam .
2.1.1 Phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH.
CNH- HĐH ở nước ta diễn ra trong bối cảnh có những biến đổi sâu sắc trên thế giới gắn với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở giai đoạn mới. Với nền kinh tế thế giới ngày càng có xu hướng quốc tế hoá cao, vừa hợp tác vừa cạnh tranh đan xen phức tạp. Trong quá trình này, nước ta có những cơ hội mới và có những tiền đề rất cần thiết, đó là hình thái kinh tế xã hội ổn định về cơ bản, vấn đề lương thực được giải quyết tương đối vững chắc, khả năng cung cấp nguyên vật liệu nông lâm hải sản cho công nghiệp chế biến ngày càng tăng, cơ sở sản xuất năng lượng, nguyên liệu, vật liệu, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đã hình thành một bước và đang được xây dựng khẩn trương.
Quá trình CNH- HĐH ở Việt Nam sẽ tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phấn đấu trong vài thập kỉ, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm xuống còn khoảng trên dưới 10%, công nghiệp và dịch vụ đạt tới khoảng 90%. Trong nông nghiệp, công nghiệp chế tạo chiếm tỉ trọng lớn 70-80% trong đó những năm trước mắt thực hiện việc đổi mới về cơ bản công nghệ tăng sức cạnh tranh của các cơ sở công nghiệp hiện có. Trong các khu công nghiệp đang xây dựng và chuẩn bị xây dựng theo thiết kế đến 70-80% giá trị gia tăng là thuộc về công nghiệp nhẹ và công nghiệp tiêu dùng. Thực hiện đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại trong những điều kiện mới của công cuộc phát triển đất nước.
2.1.2 Đời sống kinh tế xã hội được nâng cao, tạo việc làm cho người lao động, từng bước phân phối cho người lao động một cách hợp lý.
Có thể thấy mức tăng trưởng kinh tế cao thường dễ đạt ở một nước có điểm xuất phát thấp diễn ra trong thời kì đầu của cuộc đổi mới, được thừa hưỏng một số công trình cũ chuyển qua. Đạt mức tăng trưởng kinh tế cao là cần thiết nhưng gữi được lâu bền mức tăng trưởng đó là rất khó đối với nước ta. Lời giải chính là việc đẩy mạnh quá trình CNH- HĐH, phát triển kinh tế , nâng cao đời sống của người dân, chú ý phát triển đầu tư hơn nữa trong ngành nông nghiệp. Hiện nay có rất nhiều người làm nông nghiệp lại bỏ nên thành phố kiếm việc làm, gây ra tình trạng dư thừa lao động. Vì vậy cần tạo điều kiện để nông thôn thu hút được lao động . Bên cạnh đó kết hợp với phân phối lao động một cách hợp lý giữa trung du và miền núi, giữa nông thôn và thành thị.
2.1.3 Tạo dựng một nền tảng cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại.
Quá trình CNH- HĐH diễn ra đòi hỏi đất nước ta phải tạo dựng được cơ sở vật chất kĩ thuật, phát triển toàn diện các mặt giao thông vận tải, thông tin liên lạc. Quá trình CNH- HĐH là quá trình làm biến đổi về chất LLXS và là quá trình xã hội hoá nền sản xuất. Nhờ đó mà năng suất lao động tăng lên góp phần ổn định nâng cao đời sống nhân dân, và tích lũy cho nền kinh tế nhờ đó nền kinh tế tăng trưởng và phát triển .
Quá trình CNH- HĐH tạo ra được những cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ hiện đại làm cơ sở kinh tế vững chắc cho việc xây dựng củng cố và phát huy vai trò kinh tế của Nhà nước.
CNH- HĐH tạo tiền đề vật chất xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ làm cơ sở vững chắc thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
2.3 Kinh tế phát triển xã hội ổn định- điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghiã ở Việt Nam .
Enghen đã nhấn mạnh rằng thắng lợi của cuộc cách mạng chính trị đưa giai cấp vô sản lên địa vị giai cấp nắm quyền lực Nhà nước. Nhưng điều đó chẳng có nghĩa lý gì nếu Nhà nước của nó bất lực trong việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế. Mấu chốt của vấn đề là phải ra sức phát triển kinh tế, nâng cao không ngừng năng suất lao động.
Thành tựu của công cuộc đổi mới trong những năm qua trong điều kiện quốc tế thuận lợi nó lên cả tính tất yếu lẫn khả năng phát triển kinh tế theo định hướng XHCN, bỏ qua chế độ TBCN.
Bằng cách chuyển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng kinh tế đối ngoại, nền kinh tế nước ta đã đạt mức tăng trưởng cao liên tục mấy năm liền. Điều đó chứng tỏ chúng ta có khả năng thừa kế kinh nghiệm thế giới, nhưng thực hiện theo định hướng XHCN và phù hợp với điều kiện cụ thể Việt Nam .
Bằng một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, chúng ta đã từng bước giải quyết sức lao động trong sản xuất phát huy động lực đạt mức tăng trưởng kinh tế cao hơn và cải thiện đời sống nhân dân. Khả năng phát triển kinh tế ở nước ta cũng đang đứng trước những điều kiện mới, cơ hội mới. Ngày nay cùng với ý chí độc lập tự cường, qua bao kinh nghiệm lịch sử, được phát huy cao độ đường lối đối ngoại đúng đắn, chúng ta nhận được sự hợp tác có hiệu qủa với nhiều quốc gia trên thế giới.
Những yếu tố quốc tế đang tạo cơ hội cho nước ta phát triển đồng thời cũng buộc chúng ta phải đối phó với sự cạnh tranh quyết liệt. Trước mắt chúng ta là thời cơ lớn, đồng thời cũng có nhiều nguy cơ bị đẩy lùi và vượt qua. Với lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần chủ động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường với sự hợp tác của nhiều quốc gia trên thế giới, là điều kiện tốt để chúng ta tiến những bước vững chắc trên con đường CNH- HĐH đất nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế tạo khả năng thành công xây dựng CNXH trên đất nước ta với những thách thức, cách làm thích hợp.
III.Những biện pháp để thực hiện CNH- HĐH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1. Những biện pháp cơ bản để xây dựng quan hệ sản xuất mà thích ứng với thời kì CNH- HĐH .
1.1Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Không thể tiếp tục đổi mới phát triển các thành phần kinh tế nếu không nhận thức và xử lý một cách nghiêm túc và khoa học vấn đề sở hữu và cơ cấu sở hữu vì nó là cơ sở kinh tế, là một trong những căn cứ quan trọng để xác định thành phần kinh tế .Do vậy để thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế cần phải “giải phóng sức sản xuất,động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho CNH- HĐH nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội cải thiện đời sống nhân dân…” (Văn kiện đã dẫn trang 91-92 ).
Cơ cấu sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay bao gồm: sở hữu Nhà nước, sở hữu hợp tác, sở hữu hỗn hợp, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu cá thể,tiểu chủ.Trong đó, sở hữu Nhà nước đóng vai trò chủ đạo và cùng với sở hữu hợp tác làm nền tảng kinh tế cho chế độ mới- chế độ XHCN.
Tính đa dạng của cơ cấu sở hữu rất quan trọng trong quá trình CNH- HĐH. Trong thời gian tới, chúng ta cần đẩy mạnh, xúc tiến việc hình thành và phát triển các tổ hợp và các hợp tác xã kiểu mới, nhất là các hợp tác xã cổ phần trong ngành công nghiệp chế biến, giao thông vận tải, thương mại, tín dụng, ngân hàng, dịch vụ. Song song với việc tiếp tục tháo gỡ những vướng mắc, tồn tại để mở rộng hình thức kinh tế tư bản Nhà nước thông qua các hình thức hợp tác liên doanh, cho thuê, xây dựng kinh doanh- chuyển giao, gia công đặt hàng đại lý…với tư bản nước ngoài, cần có những chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân trong nước để họ có điều kiện tham gia hợp tác liên doanh với kinh tế Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho việc đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mặt hiện vật của sở hữu về tư liệu sản xuất mặc dù rất quan trọng song cái mà các chủ thể kinh tế quan tâm là cái sở hữu về mặt giá trị, sở hữu vốn. Liên quan đến vấn đề này là tình trạng nông dân không có ruộng và tình trạng tích tụ ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long. Tình trạng nông dân không ruộng đất là nguyên nhân chính không phải do sự tích tụ tập trung ruộng đất, vì đó là quy luật kinh tế khách quan. Nguyên nhân chính là chúng ta đã để cho những điều kiện mà ở đó sự hoạt động của quy luật tích tụ và tập trung ruộng đất diễn ra một cách tự phát ở mức độ quá lớn. Nói cách khác, hoạt động tín dụng và khuyến nôngvà các hoạt động dịch vụ , các yếu tố đầu vào đầu ra cho nông dân còn nhiều yếu kém, bất cập dẫn đến tình trạng đói nghèo không giảm mà còn tăng lên, gây hậu quả trực tiếp là nông dân phải nhượng ruộng, bán ruộng và mất ruộng.
Trong cơ cấu sở hữu về tư liệu sản xuất, một hình thức đóng vai trò đặc biệt quan trọng, liên quan tới việc thực hiện định hướng XHCN đó là hình thức sở hữu Nhà nước. Để hình thức này thực sự giữ vai trò chủ đạo cần xử lý đúng đắn các vấn đề mấu chốt sau đây:
Một là: Tiếp tục đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng tăng cường quyền sở hữu Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước, thông qua việc xác lập và hoàn thành thiên chức năng, nhiệm vụ của tổng cục, cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước và chủ tịch hội đồng quản trị doanh nghiệp , sắp xếp lại và cổ phần hoá một số doanh nghiệp quốc doanh sớm đưa các doanh nghiệp Nhà nước đi vào hoạt động và quản lý có hiệu quả hơn làm nòng cốt kinh tế Nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo đối với các thành phần kinh tế .
Hai là: cần phân biệt cổ phần hoá và tư nhân hoá. Cổ phần hoá không phải là một giải pháp chuyển các doanh nghiệp Nhà nước thành các công ty tư nhân, mà là chuyển sang hình thức công ty cổ phần, một công ty mà vốn không phải là của một chủ sở hữu, mà là sở hữu hỗn hợp, do vốn của nhiều chủ thể sở hữu hợp thành. Nó là sản phẩm tất yếu của quá trình tích tụ và tập trung vốn, nó là sản phẩm tất yếu của quá trình xã hội hoá sở hữu, là một điều kiện rất cần thiết cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, thị trường chủ yếu với vốn trung và dài hạn.
1.2 Về quan hệ quản lý kinh tế.
Quan hệ quản lý kinh tế, một nội dung của quan hệ sản xuất mới cần xây dựng. Thực chất của việc xây dựng quan hệ kinh tế mới trong điều kiện kinh tế thị trường và trong thời kì đẩy mạnh CNH- HĐH là: “ Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN” .
Qua hơn 10 năm đổi mới kinh tế từ thực tiễn đảng ta đã rút ra một số nhận thức về quan điểm và nội dung xây dựng cơ chế quản lý kinh tế mới trong thời gian tới ở nước ta.
Xây dựng đồng bộ các yếu tố thị trường.
Chúng ta điều biết, xét dưới quá trình sản xuất có thể chia thị trường thành thị trường hàng hoá, dịch vụ và thị trường các yếu tố sản xuất, xét về phạm vi, quy mô có thị trường trong nước và thị trường thế giới. Việc xây dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường cũng chính là việc xây dựng đồng bộ các thị trường trong nền kinh tế. Đây là một vấn đề rất quan trọng, bởi lẽ nền kinh tế thị trường chỉ hoạt động hiệu quả trong điều kiện các loại thị trường như thị trường tiền tệ, thị trường lao động , thị trường chuyển nhượng đất đai, thị trường công nghệ…. Hoạt động thông suốt và đồng bộ giữa chúng cũng chính là sự chín muồu của bản thân nền kinh tế thị trường.
Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản theo đúng luật đất đai, phát triển thị trường vốn nhằm thu hút các nguồn vốn tập trung, dài hạn qua ngân hàng , công ty tài chính, công ty cổ phần và chuẩn bị các điều kiện để từng bước xây dựng thị trường chứng khoán phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta.
Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về kinh tế theo hướng ban hành mới, sửa đổi bổ xung một số luật và pháp luật và pháp lệnh. Coi trọng tính đồng bộ trong hoạt động giữa các cơ quan lập pháp, tư pháp hành pháp. Đặc biệt coi trọng tính nghiêm minh trong công tác tư pháp đưa công tác tư pháp hoạt động theo đúng phép nước: “ Quốc pháp bất vi thân” và đặt dưới sự kiểm tra giám sát đại diện hoặc trực tiếp của nhân dân từ dưới lên trên.
Đổi mới công tác kế hoạch hoá theo hướng quán triệt đường lối chủ trưògn của Đảng. Tập trung sức vào việc xây dựng chiến lược, quy hoạch chương trình và các dự án đầu tư lớn, theo đó các chính sách dẫn dắt kinh tế phát triển theo định hướng kế hoạch. Đi đôi với việc đổi mới kế hoạch hoá vĩ mô, cần củng cố và tăng cường công tác kế hoạch vi mô các đơn vị kinh tế cơ sở theo định hướng kế hoạch và thị trường.
Đối với chính sách tài chính, tiền tệ và giá cả thuộc khâu phân phối trao đổi, khâu trung gian tác động đến sản xuất và tiêu dùng, đòi hỏi cần được tiếp tục đổi mới theo hướng thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở huy động vốn tích lũy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Lành mạnh hoá ngân sách Nhà nước, thực hiện nghiêm ngặt chế độ kế toán, kiểm toán và thanh tra tài chính. Về chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại trong thời gian cần có chính sách và biện pháp đồng bộ để điều hoà lưu thông tiền tệ giảm dần lãi suất nhằm thúc đẩy đầu tư. Hoàn thiện hệ thống giá cả trên cơ sở tăng cường lực lượng dự trữ quốc gia, xây dựng cơ chế hình thành bình ổn giá và phương thức can thiệp của Nhà nước vào một số hàng hoá thiết yếu nhất là đối với việc thu mua lương thực thực phẩm của nhân dân theo hướng giảm tính thời vụ, đẩy mạnh xuất khẩu thực hiện ứng trước thu mua hoặc trả tiền và kí gửi lương thực trong dân, giảm khó khăn cho Nhà nước và có lợi cho nông dân khi thời vụ đến.
Nâng cao năng lực và quản lý kinh tế của Nhà nước kinh nghiệm lịch sử của các nước công nghiệp mới châu á (NICS) mà sự thành công của họ không tách rời vai trò của một Nhà nước thông minh, đầy năng lực quản lý kinh tế . ở nước ta cần thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế , và chức năng chủ sở hữu tài snr chung của Nhà nước . Nội dung của chức năng này là định hướng sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để phát triển theo định hướng XHCN. Tính hiện thực và nội dung nói trên trong thời gian tới phụ thuộc vào việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước CHXHCNVN trong sạch vững mạnh hoạt động hiệu quả, hiệu lực cán bộ công chức Nhà nước có đủ phẩm chất năng lực thật sự tận tuỵ phục vụ nhân dân.( Báo nhân dân 21/9/1997).
1.3 Về quan hệ phân phối sản phẩm.
Với kết quả sau 10 năm chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, phát triển theo định hướng XHCN, khi nói về phân phối thu nhập, Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “ Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu đồng thời phân phối đóng góp dựa trên các nguồn lực khác và kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội”.
Đối với khu vực kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác có hình thức phân phối theo kết quả lao động được thực hiện qua tiền lương, một hình thức lao động mà người lao động nhận được căn cứ vào chất lượng và số lượng lao động mà họ cống hiến. Còn hình thức phân phối theo hiệu quả kinh tế được thực hiện qua hiệu quả của doanh nghiệp và được phân phối qua các quỹ: Quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng…. Trong thời gian tới cần tiếp tục cải tiến chế độ tiền lương trong khu vực Nhà nước theo định hướng tiền lương danh nghĩa phù hợp với năng suất lao động và tiền lương thực tế, tái sản xuất mở rộng được sức lao động và kích thích người lao động vì lợi ích kinh tế mà quan tâm tới kết quả sản xuất kinh doanh.
Đối với các thành phần kinh tế khác.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kết quả sản xuất kinh doanh gắn với sự đóng góp các nguồn lực. Nguồn lực có nhiều nhưng chủ yếu tồn tại dưới hình thức giá trị (vốn) do nhiều chủ sở hữu. Cho đến nay ở nước ta có các loại vốn và tương ứng với nó là hình thức thu nhập.
Vốn tự có: Tương ứng với vốn này, chủ sở hữu được phân phối dưới hình thức lợi nhuận trên vốn vay.
Vốn cho vay: Tương ứng với vốn này, chủ sở hữu được phân phối dưới hình thức lợi tức trên vốn cho vay.
Vốn cổ phần: Tương ứng với nguồn vốn này, chủ sở hữu được phân phối dưới hình thức cổ tức so với vốn cổ phần.
Ngoài các hình thức phân phối nói trên, với chức năng công bằng xã hội Nhà nước cần thông qua các hình thức phúc lợi xã hội , thông qua các chính sách luật pháp, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Nhà nước thông qua phân phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với xoá đói giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng các tầng lớp dân cư.
2. Xây dựng LLXS.
2.1 Phát triển nguồn nhân lực- nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật.
Tại hội nghị lần thứ II ban chấp hành TW khoá VIII Đảng ta đã khẳng định: “ Xây dựng phát triển tiềm lực khoa học công nghệ của Nhà nước: đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật và công nhân lành nghề trẻ hoá và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ có đủ đức đủ tài, kiện toàn hệ thống tổ chức, tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật, mở rộng các nguồn cung cấp thông tin, từng bước hình thành một nền khoa học công nghệ hiện đại của Việt Nam, có khả năng giải quyết phần lớn các vấn đề then chốt được đặt ra trong quá trình CNH- HĐH .
Thật vậy trong thời đại ngày nay, CNH- HĐH không thể tiến hành nếu thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, bởi đó là lực lượng nòng cốt trong nguồn nhân lực mà chúng ta cần tạo ra nhằm đảm bảo thành công CNH- HĐH.
Để tạo ra một đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có chất lượng cao trước hết, cần tạo ra môi trường thuận lợi cho họ sáng tạo cải tiến và áp dụng thành tựu khoa học vào thực tiễn sản xuất. Cần phải đầu tư đúng mức và hợp lý cho công tác nghiên cứu khoa học, cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, nâng cao đời sống cả vật chất lẫn tinh thần cho cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học. Tại hội nghị TW khoá VIII Đảng ta đã đưa ra chủ trương: “ Tăng dần tỷ lệ ngân sách Nhà nước hằng năm chi cho khoa học và công nghệ để đến năm 2000 đạt không dưới 2% tổng chi phí ngân sách”. Việc quan tâm đúng mức tới lợi ích vật chất và tinh thần của người nghiên cứu là động lực trực tiếp kích thích họ vươn tới tầm cao của khoa học nhờ vậy, giải quyết có hiệu quả quá trình CNH- HĐH đặt ra. Ngoài việc tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết cho nghiên cứu khoa học cũng như đảm bảo lợi ích vật chất thỏa đáng cho người nghiên cứu, việc khuyến khích thận trọng trong tìm tòi khoa học…” cũng tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển KHKT , đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH- HĐH.
2.2 Đầu tư cho khoa học công nghệ.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định: “ Khoa học và công nghệ là động lực của CNH- HĐH”. Đất nước theo định hướng XHCN. Và tại hội nghị lần thứ II BCHTW khoá VIII, khẳng định một lần nữa được nhấn mạnh: “ Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội., là điều kiện cần thết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH”. Có thể nói khoa học công nghệ là chiếc chìa khoá thần kì đã giúp cho một nước thoát khỏi hoàn cảnh nghèo nàn lạc hậu, trong đó điển hình là các nước công nghiệp mới (NICS). Qua đó càng thấy rõ vai trò quyết định của tri thức, có tri thức mới sáng tạo, sáng tạo là lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người. Để có thể sáng tạo cần có một trình độ hiểu biết nhất định. Sáng tạo trong lĩnh vực khoa học công nghệ là sáng tạo ở trình độ cao. Vì vậy cần phải có một sự đầu tư công phu và tốn kém vào việc xã hội hoá tri thức khoa học. Xã hội hoá tri thức công nghệ trong đó có sự kết hợp giữa công nghệ tiên tiến ngoại nhập với công nghệ truyền thống, trên cơ sở phát huy tối đa năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ của đất nước.
Thời đại ngày nay là thời đại của văn minh trí tuệ hay tin học, bởi vậy việc xã hội hoá tri thức khoa học và công nghệ trong lĩnh vực thông tin- bưu chính viễn thông là rất cần thiết cho mỗi người và cho toàn xã hội. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại việc bắt kịp với các thông tin và thành tựu khoa học công nghệ về các bí quyết phương pháp mới nhất… có vai trò cực kì quan trọng. Hiện nay nền khoa học công nghệ trên thế giới đã đạt trình độ rất cao. Song đối với chúng ta cần phải biết lựa chọn công nghệ, sao cho một mặt, vừa kết hợp yếu tố tiên tiến của ngoại nhập, và yếu tố truyền thống vừa tạo điều kiện để phát huy năng lực nội sinh đang còn tiềm ẩn trong xã hội mặt khác vừa phù hợp với điều kiện cụ thể Việt Nam.
Việc tạo địa bàn hoạt động cho việc giao lưu trao đổi sản phẩm, các thành tựu khoa học công nghệ là rất cần thiết cho xã hội hoá tri thức khoa học công nghệ. Điều đó có thể tiến hành thông qua các cuộc hội nghị, hội thảo khoa học, nhằm nêu nên ý kiến trao đổi quan điểm, rút kinh nghiệm… thông qua các chương trình khoa học công nghệ, các chương trình hoạt động thực tiễn.
Xã hội hoá tri thức khoa học công nghệ là một nhu cầu cấp thiết đẩy mạnh CNH- HĐH phổ cập rộng rãi tri thức khoa học cho toàn xã hội là bước đi đầu tiên và có tính quyết định đối với quá trình CNH- HĐH đất nước. Đầu tư cho xã hội tri thức khoa học và công nghệ chắc chắn phải tốn kém, nhưng đó là sự đầu tư sinh lợi nhanh nhất, cơ bản và vững chắc nhất đối với CNH- HĐH nói riêng và sự phát triển của xã hội nói chung.
3. Xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại- phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH đất nước.
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: Đất nước ta bắt đầu đi vào một thời kì phát triển mới, thời kì thực hiện CNH- HĐH đất nước. Để làm được điều này, đương nhiên chúng ta phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề có ý nghĩa hết sức quyết định là phải tạo nhanh cho đất nước một kết cấu hạ tầng hiện đại và đồng bộ.
3.1 Xây dựng kết cấu hạ tầng ở vùng sâu vùng xa.
Đối với vùng lãnh thổ, cần ưu tiên cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng ở các vùng núi, vùng sâu vùng xa, tạo điều kiện cho các vùng này đi vào CNH- HĐH với các vùng khác nhau trong cả nước. Nhìn chung các vùng này có khó khăn về cơ sở hạ tầng, thiếu lao động có văn hoá và kĩ thuật, nhiều nơi ở vùng sâu vùng xa trên miền núi phía bắc và Tây Nguyên, một số khu vực đồng bằng sông Cửu Long còn chậm phát triển, đời sống kinh tế- xã hội có phần tách rời với những vùng khác. Nhà nước tuy không điều khiển toàn bộ, song cũng khống chế được một phần quan trọng vốn đầu tư, hướng nó trước hết vào xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số công trình then chốt đảm bảo tạo dần sự hài hoà trong quá trình phát triển của các vùng.
3.2 Chính sách huy động vốn.
Xây dựng cơ sở hạ tầng là công việc đòi hỏi vốn đầu tư lớn song việc thu hồi vốn lại rất chậm. Vì vậy các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước ở nước ta chưa đủ khả năng làm cũng chưa muốn làm. Bởi vậy đây là công việc Nhà nước (TW và địa phương, các doanh nghiệp Nhà nước) phải đảm nhận là chính.
Để đạt được thành công, một mặt Nhà nước cần phải thoả đáng ngân sách cho công việc này, song phần hết sức quan trọng là cần có chính sách để huy động nguồn vốn từ bên ngoài (kể cả Nhà nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân) cũng như huy động sự đóng góp của nhân dân trong nước cả về tiền và công sức.
Cần nắm vững những nguyên tắc độc lập, tự chủ tự cường vừa phát huy cao độ nguồn lực trong nước mà có chính sách mở rộng, hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế.
Đối với đầu tư trong nước, cần tận dụng thúc đẩy thu hút vốn từ các thành phần kinh tế, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo vốn phát triển thị trường chứng khoán, liên kết giữa các địa phương các ngành, các thành phần kinh tế bằng nhiều hình thức đặc biệt là dạng công ty cổ phần.
Đối với nguồn vốn nước ngoài, chú trọng nguồn vốn ODA, FDI vay nợ, tập trung giải ngân nhanh, cung cấp đủ nguồn vốn đối ứng, xây dựng một số khu đặc khu kinh tế , phát triển các khu công nghiệp, khu chế suất, khu mậu dịch để thu hút vốn nước ngoài khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài góp vốn chuyển giao công nghệ, tham gia phát triển kinh tế thu hút vốn cho sản xuất kinh doanh.
3.3 Chính sách đối ngoại.
Cần tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương và đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, vừa hợp tác vừa cạnh tranh và đấu tranh, kết hợp chặt chẽ các lực lượng kinh tế và an ninh quốc phòng tạo thành sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế. Quản lý chặt chẽ các hoạt động xuất nhập khẩu đi liền với mở rộng thị trường do giao lưu hàng hoá trong nội địa, tăng cường kiểm soát ngăn chặn nạn buôn bán qua biên giới.
3.4 Đầu tư phát triển hệ thống giao thông, thông tin liên lạc.
Để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế nước ta hiện nay, chúng ta phải khắc phục nhanh tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông vận tải hiện có. Nâng cấp và mở thêm một số tuyến đường giao thông trọng yếu, ở vùng sâu vùng xa…
Cải tạo, nâng cấp và mở rộng quy mô của một số cảng, biển và sân bay, xây dựng dần cảng biển nước sâu.
Phát triển và hiện đại hoá mạng lưới thông tin liên lạc quốc gia. Cải tạo mở rộng và phát triển nguồn điện, đáp ứng nhu cầu và ổn định về điện. Cải thiện việc cấp thoát nước ở các đô thị, tăng thêm nguồn nước sạch. Thông tin liên lạc là lĩnh vực phát triển nhanh nhất, song cho đến nay bình quân có khoảng 50 người dân ở nước ta mới có một máy điện thoại, trong khi đó ở các nước tiên tiến bình quân 2-3 người đã có một máy. Bởi vậy, cần tiếp tục hiện đại hoá mạng thông tin bưu điện và mở thông tin liên lạc điện thoại đến các xã. Phấn đấu sau vài thập kỷ đất nước có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, tương đối hiện đại tạo bộ mặt mới cho nước công nghiệp.
Kết luận.
Mỗi hình thái kinh tế xã hội đặc trưng cho một kiểu Nhà nước một chế độ xã hội nhất định. Việc áp dụng: “ Lý luận hình thái kinh tế xã hội đối với sự nghiệp CNH- HĐH ở Việt Nam” là cơ sở thực tiễn cho việc hình thành Nhà nước XHCN một Nhà nước của dân do dân vì dân, tiến tới thực hiện mục tiêu: “ Dân giàu nước mạnh, xã hội công băng văn minh”.
Nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế xã hội cho thấy để thực hiện thành công quá trình CNH- HĐH đòi hỏi trước hết phải phát triển đồng bộ toàn diện các yếu tố hợp thành là LLXS, QHSX và kiến trúc thượng tầng. Như vậy phải biết khai thác triệt để mọi nguồn nhân lực về tự nhiên nhấn mạnh nhân tố con người tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học kĩ thuật xây dựng quan hệ sản xuất tiên tiến. Đặc biệt khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Nhà nước định hướng nền kinh tế XHCN.
Tiến hành quá trình CNH- HĐH ở đất nước ta không phải không gặp nhiều khó khăn bởi xuất điểm của nước ta là một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu song với lập trường kiên định của Đảng Nhà nước cùng với quyết tâm toàn dân tộc quá trình này sẽ từng bước thành công. Việc Đảng Nhà nước tiến hành con đường CNH- HĐH là hết sức đúng đắn bằng sự thông minh sáng tạo của con người Việt Nam một lần nữa chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ cất cánh trở thành con rồng châu á đưa nước ta sánh vai với các nước hùng mạnh trên thế giới.
Danh mục tài liệu tham khảo
Báo nhân dân
Văn kiện đại hội trung ương lần thứ 9- BCHTW Đảng khoá VII
Các Mác- Anghen tuyển tập 1- NXB sự thật.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6
Trung ương và địa phương các doanh nghiệp Nhà nước.
Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin tập II
Giáo trình triết học Mác Lênin.
Tổng quan Việt Nam
Tạp chí cộng sản
Mục lục
A. Đặt vấn đề…………………………………………………………….1
B. Nội dung………………………………………………………………..3
I. Tính tất yếu của quá trình CNH- HĐH ở Việt Nam……..3
1. Hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử………………….….3
2. Phương thức sản xuất…………………………………………………….…4
2.1 Lực lượng sản xuất với quá trình CNH- HĐH ở Việt Nam……………….4
2.1.1 Khái niệm lực lượng sản xuất………………………………………....4
2.1.2 Lực lượng sản xuất với quá trình CNH- HĐH ở nước ta………….7
2.2 Quan hệ sản xuất với quá trình CNH- HĐH………………………………7
2.2.1 Khái niệm quan hệ sản xuất…………………………………………..7
2.2.2 Xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kì đẩy mạnh CNH- HĐH…7
2.3 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. ……………………………………………………………….8
2.4 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng….10
II. Vai trò của CNH- HĐH đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ………………………………………….12
1. CNH- HĐH con đường của các nước đang phát triển…………………….12
2. Vận dụng hình thái kinh tế xã hội vào CNH- HĐH ở nước ta tiến liên theo con đường CNXH……………………………………………………………15
2.1 Những thành công của quá trình CNH- HĐH điều kiện để xây dựng CNXH ở nước ta…………………………………………..…………………15
2.1.1 Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH…15
2.1.2 Đời sống kinh tế xã hội được nâng cao tạo việc làm cho người lao động từng bước phân phối lao động hợp lý………………………………………16
2.1.3 Tạo dựng một nền tảng cơ sở vật chất kĩ thuật tiến bộ hiện đại...16
2.2 Một vài bất cập trước sự nghiệp CNH- HĐH …………………………...16
III Những biện pháp để thực hiện CNH- HĐH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay………………………………………..17
1. Biện pháp cơ bản về xây dựng quan hệ sản xuất mới thích ứng với thời kĩ CNH- HĐH đất nước………………………………………………………...18
1.1 Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. ……………………………………..18
1.2 Quan hệ về sở hữu kinh tế ………………………………………………19
1.3 Quan hệ về phân phối sản phẩm…………………………………………21
2. Biện pháp trong việc xây dựng lực lượng sản xuất ……………………….23
2.1 Phát triển nguồn nhân lực nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật………………………………………………………………………….23
2.2 Đầu tư vào khoa học công nghệ…………………………………………24
3. Xây dựng kết cấu hạ tầng vững chắc……………………………………...25
3.1 Quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng ở vùng miền núi vùng sâu vùng xa..25
3.2 Chính sách huy động vốn………………………………………………..25
3.3 Chính sách quan hệ đối ngoại……………………………………………26
3.4 Đầu tư phát triển hệ thống giao thông…………………………………...26
C. Kết luận……………………………………………………………...28
Tài liệu tham khảo ………………………………………………...29
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28402.doc