Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan .Do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh hướng vận động , phát triển của sự vật hiện tượng . Mâu thuẫn phát sinh liên tục , giải quyết mâu thuẫn này thì mâu thuẫn khác lại hình thành . Chính vì vậy ta cần nắm vững các nguyên tăc để giải quyết mâu thuẫn . Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật , phá vỡ những cái cũ thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì trong đời sống xã hội , mọi hành vi , phương thức biểu hiện của đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế và đưa ra những sai sót trong các đường lối , chính sách biện pháp của Đảng và Nhà nước ta . Khắc phục tình trạng Đảng ra quyết định nhưng san lại làm một hướng , như vậy dễ dẫn đến nền kinh tế tụt hậu nhanh chóng so với các nước bạn .
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1618 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I:
đặt vấn đề
M
âu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên xã hội, và tư duy của con người. Trong hoạt động kinh tế thì mâu thuẫn cũng mang tính phổ biến ,chẳng hạn như cung và cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính chất kế hoạch hoá của từng xó nghiệp , công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá , mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất . Mâu thuẫn từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật , mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một mà có thể có nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành .
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước ta do Đảng lãnh đạo đã giành được nhiều thắng lợi và bước đầu mang tính chất quyết định , quan trọng trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Trong những chuyển biến đó ta đã đạt được nhiều thành công nhưng cũng không ít những mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới . Vì vậy phải có những biện pháp giải quyết để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Với những ham muốn tìm hiểu thêm về nền kinh tế của đất nước ta cũng như những bức xúc và những vấn đề cần giải quyết trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tôi chọn “Mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay” hay cũng chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm đề tài cho bài tiểu luận này.
Phần II:
Giải quyết vấn đề.
Quy luật mâu thuẫn trong phép biện chứng duy vật .
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến .
T
ất cả các sự vật hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong nó những mâu thuẫn . Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật , hiện tượng quy định . Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu tự nhiên nào , kể cả ý chí của con người . Mỗi một sự vật hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu thành bởi các mặt, các khuynh hướng , các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau , đối lập nhau. Sự liên hệ tác động qua lại , đấu tranh chuyển hoá , bài trừ và phủ định lẫn nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi qúa trình vận độngvà phát triển khách quan của chính bản thân các sự vật hiện tượng .
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên hiện đại chứng minh rằng thế giới vi môlà sự thống nhất giữa những thực thể có điện tích trái dấu , giữa hạt và trường hạt và phản hạt . Xã hội loài người có những mâu thuẫn phức tạp hơn, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa các giai cấp đối kháng như chủ nô và nô lệ , nông dân và địa chủ , tư sản và vô sản. Hoạt động kinh tế mâu thuẫn cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn như cung và cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá … Trong tư duy của con người cũng có những mâu thuẫn như chân lý và sai lầm.
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật , mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một mà có nhiều mâu thuẫn , vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập . Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành . Ănghen chỉ ra rằng chính sự vận động đơn giản nhất của vật chất cũng là một mâu thuẫn . Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao hơn , mâu thuẫn thể hiện càng rõ nét hơn . Nó gắn liền với sự vật, xuyên suốt qúa trình phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật . Đó chính là những thuộc tính quy định tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn .
1.2. Sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập .
Thế nào là mặt đối lập .
Trong phép biện chứng duy vật , khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những mặt , những thuộc tính, những khuynh hướng, phát triển ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng tạo nên sự vật hiện tượng đn ví dụ tích luỹ và tiêu dùng trong kinh tế .Do đó cần phân biệt rằng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo nên mâu thuẫn .Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại trong nó hai mặt đối lập . Trong cùng một thời điểm, ở mỗi một sự vật có thể tồn tại nhiều mặt đỗi lập, chỉ có những mặt đối lập nào tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ , phủ định và chuyển hoá lẫn nhau thì hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Ví dụ , trong một nền sản xuất xã hội xuất hiện hàng loạt các hướng phát triển ngược chiều nhau như cung và cầu, tích luỹ và tiêu dùng v.v…
Sự thống nhất của các mặt đối lập :
“Thống nhất” của các mặt đối lập được hiểu với nghĩa không phải chúng đứng bên cạnh nhau mà là nương tựa vào nhau , tạo ra sự phù hợp cân bằng nhưng liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau . Mặt đối lập này lấy mặt tồn tại kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại . Nếu thiếu một trong hai mặt chính tạo thành sự vật thì nhất định sẽ không có sự tồn tại của sự vật.Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật , hiện tượng nào .
Sự thống nhất này là do những đặc điểm riêng của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ, trong kinh tế :giữa hai mặt tích luỹ và tiêu dùng đối lập thống nhất với nhau trong nền sản xuất . Không có tích luỹ thì không thực hiện được quá trình tái sản xuất mở rộng và như vậy sẽ không có điều kiện để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. Ngược lại nếu không đảm bảo thoả mãn về nhu cầu tiêu dùng thì cũng không đẩy mạnh sản xuất phát triển. Không đẩy mạnh sản xuất phát triển thì cũng không có tích luỹ.
Tất nhiên khái niệm “thống nhất” này cũng chỉ mang tính tương đối mà thôi. Bản thân nội dung khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó :thống nhất của cái đối lập , trong thống nhất đã bao hàm và chứa đưng trong nó sự đối lập .
“Khái niệm sự thống nhất của các mặt đối lập” còn được dùng cùng một nghĩa với khái niệm “sự đồng nhất” của các mặt đối lập . Vì vậy trong quy luật mâu thuẫn , đồng nhất và thống nhất được hiểu là đồng nghĩa với nhau . Lênin viết : “Sự đồng nhất của các mặt đối lập ( “thống nhất” của chúng , nói như vậy có lẽ đúng hơn ?. Tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ đồng nhất và thống nhất không quan trọng lắm . Theo một nghĩa nào đó cả hai đều đúng ), đó là sự thừa nhận ( sự tìm ra ) những khuynh hướng mâu thuẫn , bài trừ lẫn nhau , đối lập trong tất cả các hiện tượng và qúa trình của giới tự nhiên ( kể cả tinh thần và xã hội )”.
Tuy nhiên trong những quan hệ xác định , khái niệm đồng nhất và thống nhất không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau . Đó là trong trường hợp mà mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau . Lênin viết : “ Phép biện chứng là học thuyết vạch ra những mắt đối lập làm thế nào là có thể và thường là ( trở thành ) đồng nhất trong những điều kiện nào chúng là đồng nhất , bằng cách chuyển hoá lẫn nhau , tại sao lý trí con người không nên xem những mặt đối lập ấy là chết , cứng đờ , mà là sinh động , có điều kiện năng động , chuyển hoá lẫn nhau”. Như vậy mỗi sự vật vừa là bản thân nó , vừa là cái khác với bản thân nó . Trong sự đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, không có cái gì đồng nhất thuần tuý không có đối lập không chuyển hoá.
c> Đấu tranh của các mặt đối lập :
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng . Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật , thống nhất như một chính thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật . Sự đấu tranh chuyển hoá , bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Ví dụ : trong các phương thức sản xuất có giai cấp đối kháng , mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm , nó diễn ra rất gay gắt và quyết liệt . Chỉ thông qua các cuộc cách mạng xã hội , bằng rất nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia ra làm nhiều giai đoạn . Thông thường khi mới xuất hiện hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ ràng sự xung khắc gay gắt. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi la mâu thuẫn . Chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong cùng một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau , tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn . Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt , nó biến thành đối lập . Sự vật cũ mất đi , sự vật mới được hình thành . Sau khi mâu thuẫn được giải quyết , sự vật mới hơn xuất hiện . Cứ như thế đấu tranh giữa các mặt đối lập làm sự vật biến đổi không ngừng từ thấp đến cao . Chính vì vậy , Lênin khẳng định sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập.
Khi bàn về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập , Lênin chỉ ra rằng : mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó – nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được các sự vật , hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan . Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời . Đấu tranh giữa các mặt mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật . Kể cả trong trạng thái ổn định của sự vật , cũng như chuyển hoá nhảy vọt về chất . Lênin viết : “ sự thống nhất phù hợp , đồng nhất , tác dụng ngang nhau của các mặt đối lập là có điều kiện tạm thời , thoáng qua trong tương đối . Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển , sự vận động tuyệt đối”.
Sự chuyển hoá của các mặt đối lập :
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng . Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến sự chuyển hoá bài trừ và phủ định lẫn nhau . Trong giới tự nhiên , chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát , còn trong xã hội chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải diễn ra thông qua hoạt động ý thức của con ngươì . Không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc . Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
+ Một là : mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật
Ví dụ : lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh và chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới – quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
+ Hai là : cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn .
Ví dụ : nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập chung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
Tóm lại , trong thế giới hiện thực , bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau . Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn .Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến của thế giới . Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành . Sự vật mới lại làm nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vây mà các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng . Vì vậy , mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của một quá trình phát triển.
Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường:
Đặc điểm của nền kinh tế thị trường:
Nước ta đã, đang và sẽ tiếp bước trên con đường xã hội chủ nghĩa . Sự đổi mới này là một tất yếu của lịch sử . Nó dẫn đến những mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng . Sự đổi mới này làm thay đổi hàng loạt các vấn đề về lý luận, thực tiễn trong việc phát triển kinh tế . Thực tiễn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hoàn cảnh mới đồng thời cũng là mục tiêu của kinh tế thị trường . Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất , phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , nâng cao đời sống nhân dân , kích thích sản xuất , phát huy tính năng động sáng tạo , thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng đồng thời nền kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế tập chung không phải là đặc tính đặc thù cố hữu của một chế độ kinh tế , xã hội nào cả . Muốn đạt được hiệu quả cao trong kinh tế thì mỗi nước , mỗi chế độ xã hội phải dựa vào điều kiện hoàn cảnh , đặc điểm tự nhiên của mình để phát triển kinh tế .
Trước thời kỳ đổi mới , trong quan điểm về chủ nghĩa xã hội người ta hiểu kinh tế thị trường chỉ là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản , còn trong chủ nghĩa xã hội thì sẽ không còn kinh tế thị trường . Thời gian đầu của qúa trình đổi mới , tuy chúng ta đã hiểu rằng kinh tế thị trường là điều không thể tránh khỏi trong qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội , nhưng vẫn còn thái độ hoài nghi , chưa tin tưởng vào khả năng dung hợp kinh tế thị trường với bản chất của chủ nghĩa xã hội .
Thực tiễn đổi mới kinh tế –xã hội ở một số nước theo hướng phát triển kinh tế thị trường đã chứng tỏ rằng nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng không phải là tàn dư cuả chủ nghĩa tư bản , cũng không phải là cái chúng ta bị bắt buộc , phải miễn cưỡng chấp nhận . Nó cũng không phải là “ bước quá độ” trong qúa trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và sẽ được vượt qua khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế và nền văn minh nhân loại, là trình độ trình độ phát triển cao hơn của nền kinh tế nhân loại sau kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa . Có quan niệm như vậy mới thấy được rằng , bản chất thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới không phải là sự xoá bỏ nền kinh tế thị trường nói chung , mà là sự quá độ từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa .
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa , ngoài những nét chung với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như : một nền sản xuất hàng hoá với sự liên kết và trao đổi trên quy mô rộng lớn ở phạm vi quốc gia và quốc tế , với sự phát huy đầy đủ những quy luật : quy luật giá trị , quy luật cung cầu… kinh tế thị trường còn có những đặc trưng riêng :
Nếu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thì trái lại nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tuy cũng là một nền kinh tế nhiều thành phần nhưng nó dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất , tức là sự làm chủ của người lao động đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội .
Nếu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lấy phân phối theo tư liệu sản xuất và theo vốn là hình thức phân phối chủ yếu thì trong èn kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa , quy luật phân phối theo lao động mới có điều kiện phát huy một cách đầy đủ .
Nếu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển theo hướng bất bình đẳng xã hội ngày càng sâu sắc hơn, thì kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển theo hướng ngày càng khắc phục tình trạng phân cực một cách bất hợp lý của xã hội do nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tạo ra .
Nếu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên sự khai thác của các quốc gia, các khu vực phát triển đối với tài nguyên và lao động của các vùng, các nước kém phát triển , thì nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên sự hợp tác và trao đổi một cách bình đẳng và cùng có lợi giữa các vùng dân cư trong nước và giữa các dân tộc , các quốc gia trên thế giới.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến do đó nền kinh tế mà chúng ta xây dựng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa , mà là một nền kinh tế quá độ : nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , tức là một nền kinh tế thị trường tuy còn chưa thoát khỏi những đặc điểm của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nhưng bước đầu đã mang yếu tố xã hội chủ nghĩa và những yếu tố này ngày càng lớn mạnh lên thay thế dần những yếu tố tư bản chủ nghĩa .
Chuyển sang nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan:
Nước ta đang trên con đương phát triển kinh tế . Một nền kinh tế đa dạng và phong phú cả về quy mô và cách thức tổ chức , nền kinh tế thị trường đáp ứng được một phần nào những thách thức đó . Hơn nữa nó là một công cụ, phương thức để nước ta đi tới mụa tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội .
Nhìn lại nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp mọi hoạt động kinh tế -xã hội đều được triển khai trong cấp độ quốc gia . Thời kỳ này tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế như sản xuất , lưu thông vv… còn khá nặng nề và bức xúc . Lợi ích kinh tế của người lao động –lực lượng sản xuất chính trong xã hội chưa được quan tâm đúng mức ,thu nhập còn thấp. Vì thế sự vận động của nền kinh tế thời kỳ này là chậm chạp , kém năng động và ít tính sáng tạo cao.
Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là bước đi đúng đắn của đảng và nhà nước ta. Theo bước đi của kinh tế thị trường ta đã mạnh dạn chuyển đổi sang nền kinh tế nhiều thành phần sử dụng các quan hệ hàng hoá , tiền tệ , cung cầu vv… trên thị trường như một công cụ phương tiện trong kinh tế . Hơn nữa nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần khẳng định sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại , tồn tại khách quan , cần thiêt cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng . Đồng thời nền kinh tế thị trường là cánh cửa mở rộng để ta tiếp xúc với bên ngoài để có những bài học lớn về kinh tế . Vì vậy chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là tất yếu và khách quan .
Kể từ đại hội Đảng lần thứ VI họp vào tháng 12/1986 đến nay , theo đường lối đổi mới, đát nước ta đã từng bước chuyển dần sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa , và điều đó có nghĩa là chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng , những thành tựu đó cho phép chúng ta “ điều chỉnh và bổ xung nhận thức, làm cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể, đường lối , chủ trương chính sách ngày càng đồng bộ có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu trong qúa trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là một thành công lớn đối với sự nghiệp phát triển của đất nước .
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế hàng hoá đa thành phần . Việc phát triển mỗi thành phần của nền kinh tế đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế đồng thời cũng có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế tự khẳng định khả năng và vai trò của mình trong thị trường .
Tuy nhiên nhận ra được sức mạnh của nền kinh tế thị trường bao nhiêu thì chúng ta lại cũng hiểu rõ bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động và phát triển của đời sống xã hội . Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là mục tiêu của phát triển xã hội , nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội . Nhưng tăng trưởng kinh tế cũng phải gắn liền với tiến độ phát triển xã hội . Một xã hội phát triển thì tất yếu nền kinh tế của xã hội đó cũng phát triển theo . Nhưng sự phát triển ấy phải theo đúng với đường lối chủ trương và chính sách của Đảng. Do vậy quan niệm của Đảng là để xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh , nền kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Vì vậy chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan .
Mâu thuẫn trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam .
3.1. Khái niệm kinh tế thị trường .
Kinh tế thị trường là kiểu quan hệ kinh tế xã hội trong đó sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường . Nó biểu hiện ra bên ngoài là quan hệ hàng hoá .
Vài nét sơ qua về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta :
Bước đầu vào thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , ta dần dần quen với các quan hệ hàng hoá , biết sử dụng thị trường như một công cụ để tăng trưởng kinh tế . Dưới sự chỉ đạo và quản lý của nhà nước trong nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch phát huy mặt tích cực , hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của kinh tế . Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế , đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội . Nếu trước kia nền kinh tế nước ta chỉ có một hình thức sở hữu thuần nhất với hai thành phần kinh tế tập thể và quốc doanh thì hiện nay nền kinh tế của ta đang tồn tại dưới rất nhiều thành phần sở hưu . Vì vậy nền kinh tế đòi hỏi không những năng động và sáng tạo .
Kinh tế thị trường tiếp tục từng bước thúc đẩy hình thành phát triển các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa , đặc biệt quan tâm tới các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như : thị trường lao động , thị trường chứng khoán , thị trường bất động sản , thị trường khoa học công nghệ.
Tuy mới bắt đầu ra nhập vào nền kinh tế thị trường nhưng nền kinh tế này đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt một cách nhanh nhạy các thông tin về thị trường , triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh , tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước , đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tiêu cực , lãng phí , tham nhũng , gây phiền hà .
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi , bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển , bằng chiến lược , kế hoạch và chính sách kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để phát triển kinh tế –xã hội .
Vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước trong nền kinh tế thị trường là hết sức quan trọng bởi chuyển đổi sang kinh tế thị trường luôn gắn liền với sự quản lý của nhà nước . Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước thực sự của dân , do dân , vì dân , quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch phát huy mặt tích cực , hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường , bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động , của toàn thể nhân dân.
Mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa :
Mâu thuẫn biện chứng giữa kinh tế và chính trị theo chủ nghĩa Mác:
Khi xã hội nguyên thuỷ còn tồn tại thì chưa có khái niệm chính trị . Mà vấn đề chính trị chỉ xuất hiện khi có xã hội có giai cấp và có Nhà nước. Theo chủ nghĩa Mác thì kinh tế quyết định chính trị : “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”.
Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp . Trong đó đấu tranh giữa các giai cấp , giữa các lực lượng xã hội nhằm giành và giữ chính quyền nhà nước và sử dụng chính quyền đó làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội . Phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền là vấn đề trung tâm của chính trị . Bản thân vấn đề chinh trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định . Chính trị là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế , F.Ănghen đã khẳng định “bạo lực chỉ là phương tiện còn lợi ích kinh tế là mục đích” . Trong tác phẩm Lut-vich-Phoi- ơ- băc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức , F.Ănghen đã chỉ rõ, để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng là một phương tiện đơn thuần .Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội . Sự thống trị về chính trị của một giai cấp sẽ đảm bảo cho giai cấp đó được ổn định về cả kinh tế . Thực chất của việc đấu tranh giai cấp là vì lợi ích kinh tế thông qua hình thức chính trị . Theo F.Ănghen “ bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị , xét đến cùng đều là xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”. Vấn đề kinh tế không thể tách rời chính trị mà nó được xem như là một lập trường chính trị nhất định . Bất kỳ một giai cấp cầm quyền nào cũng hướng nền kinh tế của mình theo lập trường chính trị . Nếu lập trường chính trị đó đúng hay sai thì nó sẽ làm thúc đẩy hoạc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế - đó là một tất yếu khách quan trong tự nhiên. Lênin đã khẳng định “ không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Một khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ không phát triển . Khi đó việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế là điều kiện tất yếu quyết định sự phát triển nền kinh tế . Do đó ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là thống nhất và biện chứng với nhau trên cơ sở nền tảng quyết định là kinh tế .
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991)của Đảng khẳng định : “về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải tập chung sức làm tốt đổi mới kinh tế , đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống , việc làm và nhu cầu xã hội khác , xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội , coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị . Đồng thời đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị , phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị , kinh tế , văn hoá , xã hội .Vì chính trị đụng chạm tới tất cả các mối quan hệ đặc biệt nhạy cảm và phức tạp trong xã hội , nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc , không cho phép gây mất ổn định chính trị ,dẫn đến sự dối loạn . Nhưng không vì thế mà tiến hành chậm chễ đổi mới chính trị , nhất là về tổ chức bộ máy nhà nước , các mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước , các đoàn thể nhân dân , bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế , xã hội và thực hiện dân chủ”. Điều đó cho thấy Đảng ta luôn gắn liền đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị , nhưng đổi mới làm sao không mất ổn định về chính trị .
Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng họp vào tháng 7 năm 1996 , Đảng ta khẳng định phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị . Đây là một trong những bài học khái quát mới mang tính khoa học . Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị , giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Việc ổn định chính trị được thực hiện thông qua giai cấp cầm quyền – những người lãnh đạo Đảng đứng đầu nhà nước mình . Nhà nước trong giai cấp ấy phải có hiệu lực , luật pháp phải nghiêm minh , các thể chế xã hội được xác lập rõ ràng . Đối với đất nước ta thực chất của việc ổn định chính trị là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng , tăng cường vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghĩa , bảo vệ và tiếp tục xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa .ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ bản, hết sức quan trọng để phát triển kinh tế . nó tạo ra môi trường kinh tế rộng rãi , thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển . Những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta đã khẳng định điều đó .
Ôn định chính trị phải gắn liền với đổi mới chính trị . Nhưng đổi mới chính trị không phải đổi mới một cách vô nguyên tắc mà phải vừa đổi mới vừa giữ vững ổn định về chính trị , tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng , vai trò tổ chức quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa . Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới kinh tế , song đổi mới kinh tế cũng không phải đổi mới một cách tuỳ tiện mà phải theo một phương hướng quy tắc nhất định . Đó là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường – nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hay nói ngắn gọn hơn là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm thực hiện mục tiêu “ dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng văn minh” và đó cũng là căn cứ để ổn định và đổi mới chính trị cũng như để phát triển kinh tế .
Tóm lại ổn định và đổi mới chính trị là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau . Có ổn định thì mới có đổi mới và ngược lại , hai quá trình tác động qua lại với nhau trên nền tảng đó để đổi mới và phát triển kinh tế . Như vậy ta đã thấy tầm quan trọng của việc đổi mới ở nước ta , đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong đó cm kinh tế là trọng tâm , đổi mới chính trị phải từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế , đáp ứng được nhu cầu đổi mới kinh tế .
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất diễn ra rất phức tạp , mâu thuẫn của chúng được biểu hiện trên phương diện triết học Mác – Lênin , theo đó lực lượng là nội dung là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật , lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất , lực lượng sản xuất là yếu tố động . Trong thời đại phát triển kinh tế ngày nay thì trình độ của lực lượng sản xuất ngày càng được nâng cao vì thế nó đòi hỏi các quan hệ sản xuất cũng phải được cải thiện nếu không nó sẽ tự trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất . Đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển kinh tế của toàn xã hội .
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lạc hậu diễn ra rất gay gắt , quyết liệt và cần được giải quyết . Nhưng vấn đề là biện pháp giải quyết như thế nàocho xứng , đó chíng là cuộc cách mạng xã hội chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá , dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng văn minh.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học , đây là một cách nhận thức quan trọng để xây dựng xã hội chủ nghĩa . Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chinh là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , nói đến khoa học là nói đến một phương pháp tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất lạc hậu ở nước ta . Không thể ăn đói , mặc rách với cái tri thức rỗng tuếch để bước vào nền kinh tế thị trường được . Trước đây, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp Đảng ta không chú trọng , quan tâm nhiều đến vấn đề tri thức nên trình độ nhận thức , đánh giá , nghiên cứu khoa học còn thấp , nền kinh tế nhìn chung còn trì trệ và lạc hậu . Vì vậy mà ngày nay Đảng ta luôn nhấn mạnh kinh tế tri thức làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
c> Mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường và các hình thức sở hữu trước đây của nền kinh tế :
Hơn 15 năm đổi mới theo định hươngs xã hội chủ nghĩa , Đảng ta đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối chính sách đổi mới . Từ thực tế cho thấy , nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm nhiều hình thức sở hữu như sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước , sở hữu tập thể , sở hữu cá thể , sở hữu hỗn hợp. Mỗi hinh thức lại có nhiều phương thức biểu hiện khác nhau .
Về sở hữu toàn dân :
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì tất nhiên phải gồm nhiều hinh thức sở hữu . Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan có quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dân .Trong hiến pháp , luật đất đai đã quy định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”.Tuy nhiên đất đai cũng là tư liệu sản xuất . Việc đất đai sử dụng thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là người đại diện sở hữu và việc quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ gia đình nếu biết giải quyết các vấn đề sở hữu , biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng.Văn kiện đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ : “trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất được giao cho người nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng pháp luật các vấn đề về thừa kế , chuyển quyền sử dụng đất …”. { Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII- Nhà xuất bản sự thật – Hà Nội năm 1991]. Như vậy sở hữu toàn dân sẽ là một trong những nguồn lực phát triển kinh tế .
-Về sở hữu nhà nước :
Trước kia người ta thường nhầm lẫn cho rằng sở hữu toàn là sở hữu nhà nước vì sở hữu toàn dân gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhiều hơn nhưng sở hữu nhà nước là bao quát tổng thể hơn cả.
-Về sở hữu tập thể :
Trước đây sở hữu tập thể tồn tại dưới dạng hợp tác xã là chủ yếu . Với nội dung giá trị và giá trị sử dụng trong đó các xã viên là chủ sở hữu chính . Vì vậy quyền mua bán , lưu thông diễn ra phức tạp. Sự nhập nhằng trong quyền sở hữu nhà nước với quyền sở hữu tư nhân còn phổ biến . Để thóat ra khỏi tình trạng đó trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay ta cần xác minh rõ quyền mua bán , chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh . Như vậy sở hữu tập thể mới có kết quả . Hiện nay ở nước ta có nhiều hình thức hợp tác xã mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường . “ Hợp tác xã đã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên , phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần , mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung”.[ Đảng cộng sản Việt Nam , văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – 1996 ]
Kinh tế tập thể liên kết rộng rãi những người lao động các hộ sản xuất , kinh doanh , các doanh nghiệp vừa và nhỏ , không giới hạn quy mô , lĩnh vực và địa bàn . Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành . Nhan rộng mô hình hợp tác , liên kết công nghiệp và nông nghiệp , doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông dân . Nhà nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ xây dựng phương án sản xuất , kinh doanh , mở rộng thị trường , giải quyết nợ tồn đọng . Khuyến khích việc tích luỹ phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã . Tổng kết việc chuyển đổi hợp tác xã theo luật hợp tác xã .
Kinh tế cá thể ở nông thôn và thành thị được nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ phát triển . Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất , kinh doanh mà pháp luật không cấm . Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài , liên doanh , liên kết với nhau , với kinh tế tập thể va kinh tế nhà nước . Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động .
Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước , mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh .
Tạo điều kiện đểkhu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi , tăng khả năng cạnh tranh và kết cấu hạ tầng kinh tế ,xã hội gắn với thu hút công nghịêp hiện đại , tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế tạo đà phát triển cho kinh tế tập thể , kinh tế nhà nước phát triển vững mạnh.
d> + Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa :
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa . kinh tế thị trường là loại hình kinh tế mà trong đó có mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người , thông qua nền kinh tế này các quan hệ kinh tế trong mọi lĩnh vực của đời sống có cu hướng đi lên . Đời sống người dân được cải thiện và nâng cao, những nhu cầu sinh hoạt vật chất , tinh thần ngày càng được đáp ứng một cách đầy đủ và toàn vẹn hơn . Con người sống trong môi trường kinh tế thị trường sẽ là một trong những động lực thúc đẩy cho con người ngày một hoàn thiện về cả thể chất lẫn tinh thần . Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh , chạy đua quyết liệt . Điều đó tạo cho con người cá tính năng động , sáng tạo , linh hoạt , có tác phong nhanh nhẹn , có đầu óc quan sát , phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả . Từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và trì trệ vốn có của người lao động quan hệ trong nền kinh tế thị trường lạc hậu . Song bất cứ một vấn đề nào đó cũng có tính hai mặt của nó , phát triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bước đi rất đúng theo sự phát triển của thời đại . Nhưng đồng thời kinh tế thị trường cũng làm phát triển tâm lý chạy theo đồng tiền, nó mở ra khả năng cho một số người không lao động vẫn có thể hưởng được thành quả lao động của người khác . Họ làm bất cứ việc gì kể cả những việc phi nhân đạo để thu lợi , bất chấp hậu quả trước mắt và lâu dài của hoạt động đó . ở đây cần chỉ ra một đặc điểm của thị trường ở nước ta là thị trường chưa phát triển vững trắc , trong nhiều trường hợp nó chưa đánh giá đúng sản phẩm và chất lượng của hoạt động . Nhiều khi làm hàng giả có lợi cho người sản xuất hơn làm hàng thật .Chủ nghĩa cá nhân cũng là nguyên nhân của lối sống xa hoa , trụy lạc , làm băng hoại những giá trị đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân ta .
Như vậy , trong điều kiện kinh tế thị trường , mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là điều có khả năng xảy ra và trên thực tế đã xảy ra ở một số bộ phận nhất định trong xã hội . Chủ nghĩa cá nhân là biểu hiện tiêu cực của mâu thuẫn đó . Để giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội về cơ bản phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội , đồng thời phải chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân , nhất là chủ nghĩa cá nhân cực đoan .
Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội cũng có thể xuất hiện do những sai lầm trong chủ trương chính sách của nhà nước , làm hạn chế , ngăn cản sự phát triển đa dạng , phong phú của nhu cầu , lợi ích cá nhân , làm suy giảm một cách đáng kể tính tích cực sáng tạo của cá nhân . Đó cũng là một nguyên nhân của xã hội , là tình trạng đã diễn ra trong mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội .
Tóm lại, sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang làm nảy sinh hàng loạt mâu thuẫn . Sự thành công của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc phần lớn vào việc giải quyết những mâu thuẫn đó . Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu kỹ những mâu thuẫn này và đề ra những biện pháp hữu hiệu để giải quyết chúng .
Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của nhà nước , đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh . Thực hiện tốt các vấn đề này sẽ phát huy được những tác động tích cực to lớn cũng như ngăn ngừa hạn chế khắc phục những tiêu cực , khiếm khuyết của kinh tế thị trường . Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người . Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý , coi thường các giá trị nhân văn , phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc như nội dung của nghị quyết TW5 đã nêu . Đây chính là công cụ , là phương tiện quan trọng để tác động ,góp phần giải quyết mâu thuẫn đã nêu trên.
Phần Ba:
Kết luận
M
âu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan .Do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh hướng vận động , phát triển của sự vật hiện tượng . Mâu thuẫn phát sinh liên tục , giải quyết mâu thuẫn này thì mâu thuẫn khác lại hình thành . Chính vì vậy ta cần nắm vững các nguyên tăc để giải quyết mâu thuẫn . Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật , phá vỡ những cái cũ thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì trong đời sống xã hội , mọi hành vi , phương thức biểu hiện của đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế và đưa ra những sai sót trong các đường lối , chính sách biện pháp của Đảng và Nhà nước ta . Khắc phục tình trạng Đảng ra quyết định nhưng san lại làm một hướng , như vậy dễ dẫn đến nền kinh tế tụt hậu nhanh chóng so với các nước bạn .
Trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa , chủ trương lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn , tuy nhiên trong hiện thực còn rất nhiều thiếu sót , mâu thuẫn giữa các vấn đề nảy sinh , nhưng những mâu thuẫn đó lại đòi hỏi chúng ta phải giải quyết có như thế nền kinh tế mới phát triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó . Chúng ta đưa ra một vấn đề thì cần phải được nhiều bên đánh giá xem xét có ảnh hưởng đến lợi ích xã hội hay không , bởi lợi ích xã hội là lợi ích phát triển kinh tế . Bao giờ ta cũng đặt lợi ích cá nhân chính đáng và lợi ích xã hội nên hàng đầu bởi nhà nước ta là nhà nước của dân do dân và vì dân. Vì vậy mọi chính sách của Đảng phải gắn liền với lợi ích của nhân dân, vì nhân dân là một bộ phận đông đảo để thẩm định lại các chính sách của Đảng .Nếu được nhân dân tán thành hưởng ứng thì tất yếu nền kinh tế sẽ phát triển.
Một lần nữa xác định các mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn là rất quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
Mục lục:
Trang:
Phần I: đặt vấn đề……………………………………………..1
Phần II: Giải quyết vấn đề………………………………….2
1. Quy luật mâu thuẫn trong phép biện chứng duy vật .
2. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
3. Mâu thuẫn trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hôi chủ nghĩa ở Việt Nam
Phần Ba: Kết luận………………………………………….....22
tài liệu tham khảo:
Giáo trình Triết học Mác-Lênin,(dùng trong các trường ĐH),NXB.chính tri Quốc gia HN.2002;
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin,NXB. Giáo dục,1998,
Tài liệu triết học của trường đại học xây dựng Hn
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc VIII – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – 1996 ]
Văn kiện đại hội VII của Đảng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10061.doc