Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội cho Việt Nam tăng cường giao lưu học hỏi tiếp thu nền văn hoá tinh hoa của nước ngoài. Bên cạnh đó cho phép chúng ta khai thác lợi thế về kỹ thuật công nghệ khoa học của các nước phát triển. Với xu thế phát triển nhanh của nền kinh tế thế giới, những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà Nước xuất phát từ thực tiễn tình hình đất nước đáng phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó. Đảng đã đề ra nhiều đường lối chủ trương, các chính sách vĩ mô nhằm duy trì ổn định nền kinh tế. vd: việc sử dụng chính sách tài khoá để kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng đưa nền kinh tế ra khởi giảm sút tốc độ tăng trưởng, kiềm chế lạm phát. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng cần thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương hướng và mục tiêu đúng đắn phát triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được tình độr phát triển kinh tế chung của khu vực và trên thế giới
Tương lai đất nước nằm trong tay mỗi sinh viên chúng ta, việc cải tạo nó, biến đổi nó làm cho nó ngày càng đẹp đẽ hơn là nhiệm vụ của bất cứ người dân nào. Hiện nay, Việt Nam còn là một nước đứng vào hàng những nước nghèo trên thế giới, việc đưa nước ta thoát khỏi tình trạng này đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của mỗi người đặc biệt là phát triển kinh tế. Mục tiêu của chúng ta là phát triển kinh tế đi kèm với công bằng và tiến bộ xã hội.
Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới một cách toàn diện mọi lĩnh vực. Sự đổi mới này phải đồng bộ, tuân theo quá trình nhận thức và tình hình thực tiễn đất nứoc. Phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường nhưng phải dưới sự quản lý của Nhà nước là theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
20 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 8589 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Và sự vận dụng lý luận ấy trong xây dựng kinh tế Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ý thức hay vật chất là yếu tố thông qua hoạt động thực tiễn của con người quyết định đường lối chủ trương phát triển kinh tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về mối quan hệ biện chứng giữa ý thức và vật chất luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội.
Từ lý luận chủ nghĩa Mác Lênin Đảng ta đã rút ra bài học ”Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan”. Nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Nguyên nhân sự phát triển kinh tế vững mạnh xuất phát từ mối quan hệ nào? Mối quan hệ giữa biện chứng vật chất giữ ý thức và vật chất ảnh hưởng tới nền kinh tế như thế nào?Và sự thành công hay thất bại, phát triển hay lạc hậu của bất kì nền kinh tế nào đều do có lập trường triết học đúng đắn. Là một sinh viên kinh tế để góp phần nhỏ vào toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước thoát ra khỏi tình cảnh kém phát triển, “thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Với nhận thức đó và muốn tìm hiểu thêm về thực trạng nên kinh tế việt Nam hiện nay vì vậy em quyết định chọn đề tài: “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Và sự vận dụng lý luận ấy trong xây dựng kinh tế Việt Nam hiện nay” làm bài tiểu luận của mình.
CHƯƠNG I: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
I. Phương thức tồn tại của vật chất.
1.Định nghĩa phạm trù vật chất của thế giới.
1.1. Quan điểm trước Mác về vật chất.
* Chủ nghĩa duy vật trước Mác có rất nhiều định nghĩa về vật chất, trong đó nổi lên các định nghĩa điển hình sau đây: Phạm trù vật chất là nền tảng của thế giới duy vật xác lập trên cơ sở thừa nhận bản chất của thế giới là duy vật. Giống như mọi phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh phát triển gắn liền hoạt động thực tiễn của con người trong giới tự nhiên.
* Thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Đỉnh cao của tư tưởng duy vật cổ đại là thuyết nguyên tử của Lơxíp và Đêmôcrít.
VD: -Talet cho rằng vật chất là nước
-Anaximen cho rằng vật chất là không khí.
-Đêmôcrit cho rằng vật chất là nguyên tử.
=> Quan niệm vật chất thời kì cổ đại mang tính trực quan, cảm tình. Nó chỉ có tác dụng chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.Theo quan điểm duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là bản nguyên tinh thần nào đó. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất cái tồn tại một cách vĩnh cửu tạo nên mọi sự vật và hiện tượng với những thuộc tính vốn có của nó.
* Thời ki cận đại thế kỷ XVII – XVIII(thời kì phục hưng): chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất nói riêng đã có bước phát triển mới, chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng. Mọi phân biệt về vật chất giữa các vật thể đều bị quy giản về sự phân biệt về lượng, mọi hiện tượng bị quy về cái đơn giản, mọi sự vận động đều quy về sự dịch chuyển vị trí trong không gian. Đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật chất .VD: Niutơn cho rằng khối lượng là vật chất. Coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, nguồn gốc vận động nằm ngoài vật chất.
=> Quan điểm vật chất thời kì cận đại mang tính siêu hình, máy móc.
1.2 Định nghĩa vật chất của Lênin:
Kế thừa tư tưởng của C.Mac, Ph.ăngghen và nhu cầu đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, Lênin đã định nghĩa như sau:“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất về vật chất của V.I.Lênin trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Định nghĩa đã phân biệt hai vấn đề sau:
-Trước hết vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi. Vì vậy không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất như những duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại.
-Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng để nhận biết vật chất chính là thuộc tính khách quan, theo Lênin là ”cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người”.
Và nội dung cơ bản về định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức bất kể sự tôn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được
-Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, ý thức, tư duy chỉ là sự phản ánh của vật chất lên con người, tức con người có khả năng nhận thức được vật chất, thực tại khách quan..
=>Lênin đã khẳng định vật chất là”thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”,”tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội Lênin đã xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội, tìm ra sự vận động trong phương thức sản xuất. Như vậy định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục đựoc hạn chế trong các quan điểm chủ nghĩa duy vật trứoc Mac về vật chất.
2. Các hình thức tồn tại của vật chất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động, và vận động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận động, không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất.
2.1.Vận động.
Theo quan điểm siêu hình, vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong không gian, thời gian, nguồn gốc của sự vận động là ở bên ngoài sự vật hiện tượng. Còn xét theo quan điểm duy vật biện chứng:”Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Nếu thừa nhận thế giới vật chất là vô cùng vô tận thì cũng phải thừa nhận thế giới vật chất có vô vàn những hình thức hành động khác nhau ngày càng đầy đủ hơn về quy luật vận động của các tồn tại vật chất. Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại. Nguồn gốc vật động là do bản thân sự vật hiện tuợng quy định và cho đến nay có 5 hình thức vận động của thế giới vật chất là: vận động cơ học, vật lý, hoá học, sinh học và xã hội cùng những quy luật vận động đặc thù của chúng.
2.2 Không gian và thời gian.
Theo quan điểm của các nhà duy tâm thì không gian, thời gian tách rời với vật chất vận động, phủ nhận tính khách quan của không gian, thời gian. Nhưng trên cơ sở của thành tựu khoa học và thực tiễn chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Mọi sự vật đều ở trong trạng thái không ngừng biến đổi, mà mọi sự biến đổi diễn ra đều có quá trình, có độ dài của sự diễn biến, nhanh, chậm kế tiếp nhau, tất cả những thuộc tính đó được gọi là thời gian. Như vậy, không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại của bản thân vật chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết cấu, còn thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá trình. Không gian và thời gian là hai thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách rời nhau của vật chất vận động. Bên cạnh đó không gian và thời gian có những tính chất cơ bản sau đây:
-Tính khách quan: không gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất, tồn tại gắn liền với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian cùng tồn tại khách quan.
-Tính vĩnh cữu của thời gian và tính vô tận của không gian, những thành tựu của vật lý học hiện đại về lĩnh vực vi mô cũng như vũ trụ học ngày càng xác nhận những tính chất này.
-Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian, tính ba chiều của không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai.
II. Nguồn gốc và bản chất của ý thức.
Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một vấn đề hết sức phức tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử. Dựa trên những thành tựu của triết học duy vật, của khoa học và thực tiễn xã hội, triết học Mác – Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên đây.
1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý thức:
1.1. Nguồn gốc của ý thức:
1.1.a. Nguồn gốc tự nhiên: Chủ ngĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước vật chất có sau, ý thức sinh ra vật chất chi phối sự vận động và tồn tại của thế giới vật chất, tách ý thức ra khỏi vật chất, lấy ý thức là điểm xuất phát suy ra giới tự nhiên. Trước Mác nhiều nhà duy vật đã đấu tranh phê phán lại quan điểm trên của chủ nghĩa duy tâm, không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức chỉ ra mối quan khăng khít giữa vật chất và ý thức, thừa nhận vật chất có truớc ý thức. Nhưng do khoa học chưa phát triển ảnh hưởng của quan điểm siêu hình-máy móc nên không giải thích đúng nguồn gốc và bản chất ý thức.
Dựa trên thành tựu khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, thuộc tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau, phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật – vật tác động và vật nhận tác động. Đồng thời quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin. Nói cách khác, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. Ý thức là của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh – phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. Ý thức và sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. bộ óc người là cơ quan phản ánh song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra. Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
1.1.b. Nguồn gốc xã hội: Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu đựoc song chưa đủ; điều kiện cho sự ra đời của ý thức là tiên đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội. Lao động là quá trìmh con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo sản phẩm phục vụ nhu cấu của mình. Thông qua hoạt động lao động đã cải tạo thế giới khách quan mà con người có thể phản ánh được và có ý thức về thế giới đó. Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ động mà đó là kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ lao động con người tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính , những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người hình thành dần tri thức về tự nhiên và xã hội. Ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần túy, tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người, mà chủ yếu là do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới đó. Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động, chủ động của con người. Như vậy, không phải bỗng nhiên thế giới khách quan động vào bộ óc người để con người có ý thức mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới, con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới. Có thể nói khái quát rằng lao động tạo ra ý thức tư tưởng lá sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá trình lao động của con người.
Lao động không xuất phát ở trạng thái đơn nhất mà mang tính tập thể xã hội. Vì vậy ngôn ngữ xuât hiện do nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và trao đổi tư tưởng cho nhau. Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành.Nhờ ngôn ngữ mà tổng kết được thực tiễn, trao đỏi thông tin, trao đổi tri thức tử thế hệ này sang thế hệ khác.Không có hệ thống tín hiệu này – tức ngôn ngữ , thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.Ngôn ngữ, theo C. Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động , là thực tiển xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.2. Bản chất của ý thức.
Trong lịch sử triết học triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể độc lập coi ý thức sinh ra vật chất. Còn các nhà triết học duy vật thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản ánh sự vật đó. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biên chứng: về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động sáng tạo. Ý thức còn là cái phản ảnh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan, không có tính vật chất.Ý thức là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Nếu coi ý thức cũng là một hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức, làm mất ý nghĩa của sự đối lập giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Ý thức là cái phản ánh còn cái được phản ánh- tức là vật chất -tồn tại khách quan. Ý thức là của con người ra đời trong quá trình cải tạo thế giới cho nên ý thức con người mang tính năng động sáng tạo theo nhu cầu thực tiễn xã hội. Vì vậy ý thức “Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người, và được cải biến đi ở trong đó”. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây là sự phản ảnh đặc biệt – phản ảnh trong quá trình con người, cải tạo thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây :
- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
- Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình “Sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo nghĩa mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất.
- Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiển biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Điều đó càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ảnh, theo qui luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc. Ý thức chính là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thức tiễn chịu sự chi phối của quy luật xã hội và quy luật sinh học, do nhu cầu giao tiếp của xã hôi. Vì vậy ý thức mang bản chất xã hội.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Theo chủ nghĩa duy vật thì vật chất quyết định ý thức
Theo chủ nghĩa duy tâm ý thức quyết định vật chất
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định trong mối quan hệ vật chất và ý thức thì vật chất là cơ sở, cội nguồn sinh ra ý thức. . Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương ứng. Ý thức tác động trở lại thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức quyết định nội dung và xu hưóng phát triển của với ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý thức bởi vì vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức (não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh hình thành ý thức, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não). Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất đó vào con người. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của ý thức. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất, đó là một thuộc tính phản ánh phát triển thành, ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề nguồn gốc xã hội, ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con nguời nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội trong hoạt động thức tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Vì vậy ý thức chính là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Ngoài ra ý thức có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn. Do vậy, vật chất quyết định sự phát triển của ý thức, quyết định tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của ý thức.
Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng sau khi ra đời ý thức có tính độc lập tương đối nên nó có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. vì vậy con người phải tôn trọng khách quan của vật chất và của các quy luật tự nhiên xã hội, đồng thời phải tôn trọng tính chủ quan của mình. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình. Bên cạnh đó cần phát huy tính năng động chủ quan túc là phát huy vai trò tích cực của ý thức, không ngừng tìm kiếm tích luỹ những hiểu biết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và sự phát triển sự vật.
Mặt khác bản thân ý thức tự nó không thay đổi được gì trong hiện thực. Ý muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất được con người thực hiện trong thực tiễn. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy con người xác định đúng mục tiêu và đề ra phương hưóng hoạt động phù hợp. Ví vậy ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng:
-Ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng và thành công khi nó phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan, nó sẽ thúc đẩy thế giới vật chất phát triển nhanh vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác.
-Ngược lại ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
VD: Aristôt đưa ra thuyết “địa tâm” coi trái đất là trung tâm của vũ trụ đã làm kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất.
Vì vậy cần phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan, đồng thời khắc phục bệnh trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động trong quá trình đổi mới hện nay. Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, “phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người thực hiện sự biến đổi từ cái “vật tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật chất khách quan, sức mạnh của quy luật … để phục vụ cho các mục tiêu, mục đích khác nhau của con người.
Biểu hiện của mới quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại xã hội. ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như cụ thể và khách thể, lý luận và tực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan..
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ VẬN DỤNG
TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Ý nghĩa phương pháp luận:
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo quy luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người.
Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất, nhưng lý luận một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”.
Chống quan điểm duy ý chí: V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
II. Sự vận dụng lý luận trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở nền tảng triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Như chúng ta đã biết vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Ý thức chỉ có thể tác động đối với vật chất khi nó được hoạt động thông qua thực tiễn, nên nếu thức tiễn trì trễ thì ý thức cũng trì trệ theo. Nhờ có hoạt đông thực tiễn ý thức của Đảng được nâng cao đề ra những đường lối đổi mới và cải cách cùng phát triển đất nước.
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng để cùng.
Mặc dù có những khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh cãi, nhất là trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay phát triển. Đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, khi mà xu thế hội nhập đang tăng cao, nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ thì các hành động đều xuất phát từ quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn là phương châm chỉ đạo và hoạt động của Đảng, Nhà nước ta:”Mọi đường lối chủ trương của Đảng xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan. Đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá, Đảng ta chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri thức và tay nghề cho người lao động. Muốn vậy “phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi nghèo nàn, lạc hậu” - tức phát huy tính năng động của ý thức. Đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục làm sang tỏ con đường đi lên CNXH ở nước ta. Nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục lí luận chính trị để tạo nên sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội cho Việt Nam tăng cường giao lưu học hỏi tiếp thu nền văn hoá tinh hoa của nước ngoài. Bên cạnh đó cho phép chúng ta khai thác lợi thế về kỹ thuật công nghệ khoa học của các nước phát triển. Với xu thế phát triển nhanh của nền kinh tế thế giới, những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà Nước xuất phát từ thực tiễn tình hình đất nước đáng phát huy mạnh mẽ tính ưu việt của nó. Đảng đã đề ra nhiều đường lối chủ trương, các chính sách vĩ mô nhằm duy trì ổn định nền kinh tế. vd: việc sử dụng chính sách tài khoá để kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng …đưa nền kinh tế ra khởi giảm sút tốc độ tăng trưởng, kiềm chế lạm phát. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, nắm bắt quy luật kinh tế, quy luật sản xuất lại càng cần thiết để cải tạo thực tiễn, tạo ra phương hướng và mục tiêu đúng đắn phát triển đi lên. Chỉ có thế nước ta mới theo kịp được tình độr phát triển kinh tế chung của khu vực và trên thế giới
Tương lai đất nước nằm trong tay mỗi sinh viên chúng ta, việc cải tạo nó, biến đổi nó làm cho nó ngày càng đẹp đẽ hơn là nhiệm vụ của bất cứ người dân nào. Hiện nay, Việt Nam còn là một nước đứng vào hàng những nước nghèo trên thế giới, việc đưa nước ta thoát khỏi tình trạng này đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của mỗi người đặc biệt là phát triển kinh tế. Mục tiêu của chúng ta là phát triển kinh tế đi kèm với công bằng và tiến bộ xã hội.
Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới một cách toàn diện mọi lĩnh vực. Sự đổi mới này phải đồng bộ, tuân theo quá trình nhận thức và tình hình thực tiễn đất nứoc. Phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường nhưng phải dưới sự quản lý của Nhà nước là theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
Tạp chí triêt học
Tác phẩm kinh điển Mác-Ănggen
Giáo trình triết học Mác Lênin
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI của Đảng cộng sản Việt Nam.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21379.doc