Tiểu luận Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát nhìn từ lý thuyết và thực tiễn

Nội dung Trang Lý thuyết 3 A. Ngân sách nhà nước và vấn đề bội chi ngân sách nhà nước 6 B. Lạm phát 8 C. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát 8 Thực tiễn tại Việt Nam năm 2004 - 2008 9 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam 9 Tình hình bội chi ngân sách tại Việt Nam 9 3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát 12 4. Những vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm chế lạm phát tại Việt Nam 14 III. Kết luận 19 Phụ lục: Số liệu về thu – chi ngân sách

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2489 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát nhìn từ lý thuyết và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ************************* ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐỀ TÀI MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘI CHI NGÂN SÁCH VÀ LẠM PHÁT NHÌN TỪ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN GV. hướng dẫn: TS. Diệp Gia Luật Nhóm thực hiện: Vũ Thị Thu Hương Nguyễn Thị Hồng Hạnh Trần Lê Trung Huy Nguyễn Thị Thanh Vân Lê Đình Lâm Nguyễn Duy Quang Lớp: Cao học kinh tế Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh – 10/2009 MỤC LỤC Nội dung Trang Lý thuyết 3 A. Ngân sách nhà nước và vấn đề bội chi ngân sách nhà nước 6 B. Lạm phát 8 C. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát 8 Thực tiễn tại Việt Nam năm 2004 - 2008 9 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam 9 Tình hình bội chi ngân sách tại Việt Nam 9 3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát 12 4. Những vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm chế lạm phát tại Việt Nam 14 III. Kết luận 19 Phụ lục: Số liệu về thu – chi ngân sách Lý thuyết A. Ngân sách nhà nước và vấn đề bội chi ngân sách nhà nước Ngân sách Nhà nước là gì? - Căn cứ luật ngân sách số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002, được sửa đổi và có hiệu lực từ 01/01/2004 thì Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Bội chi Ngân sách Nhà nước: Nguyên nhân và giải pháp 2.1 Thế nào là bội chi ngân sách nhà nước Bội chi Ngân sách Nhà nước trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó. Bội chi ngân sách Nhà nước có thể do ngoài tầm kiểm soát nhưng cũng có thể nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về Ngân sách Nhà nước hằng năm như sau: Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm Tổng Thu Tổng Chi A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí). B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước). D. Chi thường xuyên. E. Chi đầu tư. F. Cho vay thuần (= cho vay mới - thu nợ gốc). C. Bù đắp thâm hụt - Viện trợ. - Lấy từ nguồn dự trữ. - Vay thuần (= vay mới - trả nợ gốc). Nguyên tắc cân bằng ngân sách là: A + B +C = D + E + F Công thức tính bội chi Ngân sách Nhà nước của một năm sẽ như sau: Bội chi Ngân sách Nhà nước = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C (khoản bù đắp thâm hụt) Nguyên nhân Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi NSNN: - Do tác động của chu kỳ kinh doanh: Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên nhằm giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ. - Do tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước. Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu. Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn,...), tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi NSNN. Các giải pháp xử lý Để duy trì sự phát triển bền vững và duy trì được tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thì chắc chắn cần có sự can thiệp của nhà nước bằng các chính sách, trong đó chính sách tài khóa. Tuy nhiên do nguồn lực có hạn vì vậy đòi hỏi phải có chính sách tài khóa phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai. Từ sự lựa chọn này sẽ đưa ra mức bội chi "hợp lý", bảo đảm nhu cầu tài trợ cho chi tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý. Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền để bù đắp chi tiêu;... Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Tuy nhiên mỗi giải pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước đều có sự tác động đến nền kinh tế vĩ mô. Về cơ bản, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng các giải pháp chủ yếu nhằm xử lý bội chi NSNN như sau: Thứ nhất: Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi NSNN có thể thông qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia. Thứ hai: Vay nợ cả trong và ngoài nước. Để bù đắp thâm hụt NSNN, nhà nước có thể vay nợ nước ngoài và trong nước. Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá. Vay nợ trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ - trả lãi - bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của NSNN cho các thời kỳ sau... Thứ ba: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi NSNN, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thứ tư: Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết. Thứ năm: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế - xã hội, nhằm giải quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn môi trường v.v.. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quản lý NSNN nói chung và xử lý bội chi NSNN nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết. B. Lạm phát 1. Lạm phát là gì? Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó. Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của một loại hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không thay đổi. Khi giá trị của hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi, và với cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được số lượng hàng hoá ít hơn so với năm trước. Có nhiều dạng lạm phát khác nhau, như lạm phát một con số (single-digit inflation), lạm phát hai con số (double-digit inflation), lạm phát phi mã (galloping inflation), siêu lạm phát (hyper inflation)... 2. Lạm phát được tính như thế nào? Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước). Các giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một chỉ số giá cả để đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này. Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy nhiên, thước đo lạm phát phổ biến nhất chính là CPI - Chỉ số giá tiêu dùng (consumer price index) đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau, bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế..., được mua bởi "người tiêu dùng thông thường". 3. Nguyên nhân Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại, lạm phát do ba nguyên nhân: cầu kéo, chi phí đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế, lạm phát gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí dụ: Tâm lý của dân chúng, sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư... Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát, người ta chia ra 2 loại lạm phát là lạm phát tiền tệ và lạm phát giả cả. Lạm phát tiền tệ được hiểu là do mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá mức cần thiết dẫn đến tình trạng mất giá của đồng bản tệ. Lạm phát giả cả được hiểu là giá cả của hàng hóa và dịch vụ nói chung tăng lên do cầu lớn hơn cung (cầu kéo), hoặc do chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ tăng lên (chi phí đẩy). Trong thực tế hai loại lạm phát nói trên ít khi xảy ra cùng một lúc, mà thường hoặc là lạm phát giá cả, hoặc là lạm phát tiền tệ. Nếu điều tiết lạm phát ở mức độ ổn định và hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, hay nói cách khác là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, điều kiện cần là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ thuật..... Nghiên cứu bước đầu của IFM (2006) về mức độ lạm phát ở Việt Nam với các nước Đông Nam á cũng đã chỉ ra răng, mức lạm lạm phát tối ưu cho tăng trưởng kinh tế ở các nước vùng Đông Nam á, trong đó có Việt Nam khoảng 3.6% trong khi các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho tăng trưởng. C. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách quan trọng của Nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi sản lượng của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì Chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước... Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân sách. Tuy nhiên chính mức tăng chi tiêu của Chính phủ sẽ kéo theo hiệu ứng tăng giá ở một số các lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ do gia tăng cầu dẫn đến tình trạng lạm phát do cầu kéo, song song với việc giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng cũng sẽ kéo theo các chi phí sản xuất tăng dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy. Mặt khác khi các nhu cầu về đầu tư cơ sở hạ tầng tăng cao mà ngân sách nhà nước lại thiếu hụt dẫn đến không đủ nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển. Để bù đắp phần thiếu hụt, Nhà nước có thể sử dụng chính sách phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên việc tăng chi tiêu của Chính phủ trong trường hợp này sẽ gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia. Nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN thì sẽ gây ra tình trạng lạm phát tiền tệ. Thực tiễn tại Việt Nam năm 2004 - 2008 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam Nguồn: IMF, International Financial Statistics Nhìn vào số liệu cho thấy tình hình lạm phát tại Việt Nam có chiều hướng gia tăng cao từ giữa cuối năm 2007 và đạt đỉnh cao vào tháng 8/2008 với mức tăng CPI là hơn 30%. Tính trung bình tỷ lệ lạm phát năm 2007 là 8.86% (nhưng nếu tính riêng 4 tháng cuối năm 2007 là gần 12%) và năm 2008 là 22,97%. Đây có thể nói là mức tăng cao nhất kể từ năm 2004 trở về đây. Tình hình bội chi ngân sách tại Việt Nam Do việc xem xét là căn cứ thực tế tại Việt Nam, do đó các số liệu về bội chi ngân sách được nghiên cứu ở đây là lấy số liệu được tính theo cách tính riêng của Việt Nam và công bố trong nước, không sử dụng số liệu công bố quốc tế ( số liệu của Bộ tài chính công bố tại website: . Riêng số liệu 2008 do Bộ tài chính chưa công bố số liệu quyết toán vì vậy số liệu 2008 được lấy từ số liệu ước thực hiện lần 2. Từ năm 2004-2007, tình hình bội chi NSNN tăng lên qua các năm và về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5,5% GDP và nằm trong mức mà quốc hội đã thông qua từ đầu năm. Tuy nhiên nếu chỉ xem xét bội chi NSNN so với GDP thì chưa thấy hết sự tăng lên của nó trong những năm gần đây; đặc biệt những năm gần đây, ngoài NSNN được cân đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư các công trình giao thông và thuỷ lợi thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ không cân đối vào NSNN. Ngoài ra, phải kể đến lượng công trái giáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài NSNN. Nếu cộng cả hai loại trên vào cân đối NSNN, bội chi NSNN trong những năm qua không phải chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP). Tốc độ tăng bội chi NSNN là khá cao, trung bình ở mức 18%/ năm trong các năm 2005- 2006 và đột biến ở năm 2007 với mức là 33% so với năm 2006. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố tăng trưởng thì còn cao hơn tỷ lệ lạm phát từ 2004 – 2007 (năm 2004: 7,8%; năm 2005: 8,3%; năm 2006: 7,4%; năm 2007: 8,86% ). Riêng năm 2008 tốc độ tăng bội chi giảm hẳn xuống so với 2007, đây là do chính sách cắt giảm chi tiêu của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát. Về bù đắp bội chi ngân sách, trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tăng tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên. Bội chi ngân sách Nhà nước cả năm 2004 bằng 16,2% tổng số chi, chiếm khoảng 4.85% GDP và bằng mức dự toán cả năm đã được Quốc hội thông qua đầu năm, trong đó 79% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 21% từ nguồn vay nước ngoài. Bội chi ngân sách Nhà nước cả năm 2005 bằng 15,5% tổng số chi, chiếm khoảng 4,86% GDP và bằng mức dự toán cả năm đã được Quốc hội thông qua đầu năm, trong đó 80% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 20 % từ nguồn vay nước ngoài. Bội chi ngân sách Nhà nước cả năm 2006 bằng 15,8% tổng số chi, chiếm khoảng 5,64% GDP và bằng mức dự toán cả năm đã được Quốc hội thông qua đầu năm, trong đó 74,2% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 25,8% từ nguồn vay nước ngoài. Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2007 bằng 16,2 % tổng số chi, chiếm khoảng 5% GDP và bằng mức bội chi dự toán năm đã được Quốc hội thông qua đầu năm, trong đó 76,1% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 23,9% từ nguồn vay nước ngoài. Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2008 ước tính bằng 13,6% tổng số chi chiếm 4.95% GDP và bằng 97,5% mức bội chi dự toán năm đã được Quốc hội thông qua đầu năm, trong đó 77,3% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 22,7% được bù đắp từ nguồn vay nước ngoài. Tình hình bội chi ngân sách tại Việt Nam tăng lên qua các năm cũng là dễ hiểu khi Việt Nam là đất nước đang phát triển. Để khẳng định điều này hãy xem xét việc chi từ ngân sách cho 3 nội dung chủ yếu đó là: Chi đầu tư phát triển, Chi trả nợ và viện trợ, Chi phát triển sự nghiệp KT-XH, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính nhà nước, Đảng, đoàn thể. Ta có thể nhận thấy rằng chi cho hoạt động thường xuyên là chiếm chủ yếu và có sự gia tăng khá mạnh, tốc độ tăng trung bình là 23% /năm trong giai đoạn 2004 – 2008 ; các khoản trả nợ vay cũng như viện trợ cũng chiếm đáng kể trong số chi của Chính phủ (nhằm trả các khoản nợ vay nhằm bù đắp cho thâm hụt ngân sách), ngoài ra chi cho đầu tư phát triển (chi cho đầu tư xây dựng cơ bản là chủ yếu) tuy không phải chiếm chủ yếu trong nguồn chi ngân sách nhưng lại có tốc độ tăng mạnh qua các năm với tốc độ tăng trung bình là 25%/năm trong giai đoạn 2004 – 2008, đặc biệt năm 2008 đã tăng 43% so với 2007. 3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát Số liệu thống kê cho thấy khi mức bội chi ngân sách nhà nước tăng thì tỷ lệ lạm phát cũng có chiều hướng gia tăng. Nếu như tỷ lệ lạm phát trung bình năm 2006 là 7,4 %, mức bội chi ngân sách ở mức 48,61 ngàn tỷ đồng, đến năm 2007 tỷ lệ lạm phát trung bình tăng lên là 8,9% thì mức bội chi ngân sách cũng tăng lên 64.56 ngàn tỷ đồng và năm 2008 tỷ lệ lạm phát trung bình tăng đột biến lên 22,97% thì mức bội chi ngân sách cũng tăng lên 66,2 ngàn tỷ đồng. Ngoài ra khi nhìn vào khoản bù đắp thâm hụt ngân sách cho thấy phần lớn nguồn bù đắp là từ nguồn vay trong nước (trung bình chiếm trên 75%), phần còn lại là từ nguồn vay nước ngoài và hoàn toàn không có việc bù đắp thâm hụt thông qua việc phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên phần huy động từ vay nước ngoài đã làm tăng cung lượng tiền vào thị trường trong nước, vì số tiền vay nước ngoài về để bù đắp thâm hụt NSNN phải đổi ra VND để chi tiêu trên cơ sở bán cho NHNN là chính, mà NHNN lại cung ứng tiền ra để mua ngoại tệ là cơ bản. Đây chính là phần làm cho lạm phát tăng lên nếu lượng vay từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN quá lớn. Thực tế trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN chiếm khoảng 1/3 số thâm hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu cộng thêm cả phần vay về cho vay lại, lượng tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta qua bù đắp thâm hụt NSNN khoảng 2%-2,5% GDP. Đây chính là một nguyên nhân gây ra lạm phát cao của nước ta trong năm 2007 và năm 2008. Còn phần bù đắp thâm hụt NSNN từ nguồn vay trong dân về cơ bản, chỉ thu tiền từ trong lưu thông vào NSNN và sau đó, lại chuyển ra lưu thông nên không làm tăng lượng tiền cơ bản trên thị trường mà chỉ làm cho vòng quay tiền tệ có thể tăng nhanh hơn, tạo ra hệ số nở tiền cao hơn mức cần thiết. Điều này, cũng tạo ra tăng cung tiền tệ do vòng quay tiền tệ lớn, có tạo ra tác động một phần gây ra lạm phát, nhưng không lớn bằng vay vốn từ bên ngoài để bù đắp thâm hụt NSNN. Tuy nhiên nhìn nhận một cách thẳng thắn thì ngay từ đầu năm 20 06, những dấu hiệu của lạm phát đã xuất hiện, nhưng trong quản lý và điều hành NSNN vẫn chưa đánh giá hết tác động của nó nên việc đầu tư công vẫn còn quá lớn và chưa hiệu quả. Chi thường xuyên chưa được giám sát chặt chẽ nên còn lãng phí, xử lý bội chi NSNN vẫn còn chưa quyết liệt. Cụ thể là bội chi ngân sách còn tăng qua các năm. Do vậy, để kiềm chế lạm phát, ngoài các biện pháp kiềm chế lạm phát mà Chính phủ, cũng như các bộ, ngành đang thực thi, vấn đề quản lý chặt tình hình chi NSNN như: chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước, đầu tư công... thông qua việc xử lý bội chi NSNN là vô cùng cấp thiết và có ý nghĩa rất quan trọng. Nhận thức được vấn đề này ngay từ những tháng đầu năm 2008, Chính phủ áp dụng các biện pháp cắt giảm đầu tư công và chi tiêu thường xuyên từ ngân sách nhà nước. Theo báo cáo của Chính phủ tại kỳ thứ 4, quốc hội khóa XII ngày 16/10/2008, trong năm 2008 Chính phủ đã đình hoãn, giãn tiến độ thi công trên 3.100 công trình dự án với khoảng 31.000 tỷ đồng vốn từ nguồn ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước, cắt giảm khoảng 9.000 tỷ đồng vốn trái phiếu chính phủ, tiết kiệm 2.700 tỷ đồng chi thường xuyên của các cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách. Những động thái này đã góp phần làm cho tỷ lệ lạm phát 3 tháng cuối năm 2008 giảm so với những tháng giữa năm 2008. 4. Những vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm chế lạm phát tại Việt Nam Thực tế trong những năm qua, chúng ta đã kiểm soát được mức bội chi NSNN ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi đầu tư phát triển. Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy được một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Đây là những thành công bước đầu đáng ghi nhận trong công tác quản lý cân đối NSNN cũng như kiểm soát vấn đề bội chi NSNN. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý bội chi NSNN, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi vấn đề lạm phát đang gây ra những khó khăn rất lớn cho nền kinh tế và đời sống nhân dân, chúng ta cần lưu ý đến những vấn đề sau trong việc xử lý bội chi NSNN: - Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế quá lớn đòi hỏi phải đi vay để bù đắp. Điều này được thể hiện qua việc chúng ta chỉ vay để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Nhưng, trên thực tế số tiền vay, đặc biệt của nước ngoài, chưa được quản lý chặt chẽ. Tình trạng đầu tư dàn trải ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả. Chính vì vậy, các khoản đầu tư phát triển lấy từ nguồn vốn vay (cả trong và ngoài nước) cần bảo đảm các quy định của Luật NSNN và mức bội chi cho phép hằng năm do Quốc hội quyết định. - Sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua được sử dụng như một công cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta thường xác định số bội chi trước (thông thường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó không gây xáo trộn trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không. - Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách, để công trình vận hành và phát huy tác dụng, luôn phải đòi hỏi nhu cầu kinh phí cho hoạt động. Để có nguồn kinh phí này hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN. - Liệu có tồn tại vấn đề bội chi ngân sách địa phương ở Việt Nam hay không? Biện pháp xử lý ra sao? Quản lý vấn đề này thế nào? Đó là những vấn đề cần được xem xét kỹ càng hơn. Theo khoản 3, Điều 8, Luật NSNN năm 1996, ngân sách địa phương được cân đối theo nguyên tắc tổng số chi không vượt quá tổng số thu, trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng thì được phép huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và phải cân đối vào ngân sách địa phương để trả nợ khi đến hạn. Luật NSNN sửa đổi năm 2002 mở rộng thêm quyền chủ động trong việc huy động vốn của ngân sách địa phương. Vay vốn đầu tư thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm do hội đồng nhân dân tỉnh quyết định (không phải theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định như trước đây). Như vậy, mặc dù chúng ta chấp nhận về nguyên tắc là không có việc bội chi ngân sách địa phương nhưng thực tế lại vẫn cho phép địa phương vay để đầu tư.  Vấn đề là ở chỗ, hiện nay, các địa phương vay vốn để đầu tư theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN tương đối lớn và chưa được quản lý một cách chặt chẽ. Với nhiều địa phương đây là điều kiện để tăng cường cơ sở vật chất, tạo điều kiện phát triển kinh tế. Điều đáng lưu ý là trong khi nguồn vốn ngân sách hiện có chưa tận dụng hết, các địa phương vẫn tiến hành vay vốn; tỷ lệ vốn vay chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đầu tư phát triển. Trong khi phải đi vay thì ngân sách địa phương lại để kết dư lớn, có tỉnh cuối năm kết dư bằng 78,5% số bổ sung từ ngân sách trung ương và bằng 24,9 % so với tổng chi ngân sách địa phương. Mặt khác, còn một số khoản vay không cân đối vào ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tạo nên khoản thu chi ngoài ngân sách và khi đến hạn, ngân sách địa phương không có nguồn để thanh toán gốc và lãi. Thực chất các khoản vay của ngân sách địa phương chính là bội chi NSNN. Một trong những nguyên tắc quản lý NSNN ở Việt Nam là tuân theo theo nguyên tắc thống nhất, tổng thể NSNN bao gồm ngân sách các cấp, điều đó đòi hỏi các khoản bội chi của ngân sách địa phương phải được tổng hợp để tính bội chi NSNN. Tuy nhiên khi vay, các địa phương phải cân đối ngân sách nên không thể hiện đầy đủ bội chi khi quyết toán NSNN. Mức bội chi NSNN hằng năm trình Quốc hội mới chỉ phản ánh được mức bội chi của ngân sách trung ương. Đây là một trong những mắt xích cần phải được giải quyết trong việc xử lý bội chi NSNN. Để giải quyết tổng thể vấn đề bội chi NSNN ở Việt Nam theo chúng tôi cần thiết phải có những quy định chặt chẽ hơn, theo đó có thể áp dụng các giải pháp sau: 1- Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tư của địa phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực hiện như vậy tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn và quản lý chặt chẽ số bội chi NSNN. Hiện tại, chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển với nguồn lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt chặt, hạn chế vay để đầu tư sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu vốn rất cao. Nhưng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ của NSNN, nhất là vay của ngân sách địa phương, thì nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia, sự bền vững của NSNN. Thực hiện đầu tư tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát triển hài hoà, cân đối giữa các vùng, miền trong toàn quốc. Kinh nghiệm của Trung Quốc: nghiêm cấm ngân sách các địa phương vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào, các khoản chi đầu tư của địa phương được xem xét tính toán và bổ sung từ ngân sách trung ương. 2 - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, nhất là ngân sách các địa phương. Do vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư, sẽ kiên quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân đối nguồn kinh phí này chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách. 3 - Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản lý và giám sát chặt chẽ việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở kinh tế. Các khoản vay của ngân sách địa phương cần được tổng hợp và báo cáo Quốc hội để tổng hợp số bội chi NSNN hằng năm. Vấn đề vay vốn của các địa phương không được kiểm soát chặt chẽ chẳng những tạo ra nguy cơ vay vốn tràn lan, đầu tư kém hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong tương lai. Bội chi NSNN hằng năm không được kiểm soát chặt chẽ trước khi trình Quốc hội, mức bội chi thực tế khác với mức bội chi báo cáo cáo Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh nặng nợ cho NSNN, bởi NSNN là một thể thống nhất và đa số các địa phương trông chờ chủ yếu vào ngân sách trung ương, do vậy suy cho cùng, các khoản nợ của ngân sách địa phương sẽ là gánh nợ của NSNN trong khi việc đầu tư lại dàn trải, kém hiệu quả. III. Kết luận Nhìn lại toàn bộ quá trình nhiều năm qua cho thấy, mối quan hệ giữa bội chi NSNN với lạm phát có thể rút ra một số kết luận sau: - NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Nếu thâm hụt NSNN quá mức có thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt NSNN bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát. - Tăng chi NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích đầu tư phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu tăng chi quá mức cho phép, tức là tăng chi đến mức làm cho thâm hụt NSNN quá cao và để bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ quá lớn thì sẽ đưa đến gánh nặng nợ. Kết quả là đưa đến kích thích tiêu dùng (kích cầu quá mức) thì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm phát, mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư phát triển và giảm đầu tư phát triển kéo theo giảm tăng trưởng. Như vậy, thực tế ở đây là cần có liều lượng của chi tiêu NSNN ở mức cho phép nhằm thúc đẩy đầu tư phát triển tăng lên và tiếp theo là đưa tăng trưởng kinh tế lên cao mà không kéo theo lạm phát cao.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doclam phat boi chi ngan sach.doc
Tài liệu liên quan