Tiểu luận Mối quan hệ giữa Pháp Luật Quốc Gia và Pháp Luật Quốc Tế trong việc điêu chỉnh mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Những mối quan hệ nảy sinh từ các vấn đề dân sự, kinh tế, lãnh thổ quốc gia, giữa các quốc gia với nhau rất phức tạp. Đặc biệt vấn đề tài sản và nhân thân trong dân sự đòi hỏi phải được giải quyết hợp lý, đảm bảo uy tín và danh dự của các quốc gia tham gia quan hệ dân sự. PLQG và PLQT là hai nguồn chính trong tư pháp quốc tế, chúng có mối quan hệ tương trợ lẫn nhau khi xem xét và giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Pháp luật Việt Nam qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đã xây dựng được những điều luật tương đối chặt chẽ trong điều chỉnh mối quan hệ đó. Tuy nhiên, còn rườm rà và trong thực tiễn thực hiện còn nhiều sai sót, gây thiệt hại đối với bên tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài của Việt Nam. Vì mục tiêu phát triển và lợi ích của cá nhân, nhiều nước đã lợi dụng sức mạnh của mình để chèn ép các nước nhỏ, bỏ qua những điều luật quốc tế đã được thông qua. Vì vậy, trong quan hệ với các nước khác Việt Nam cần hết sức cẩn thận, giải quyết theo những nguyên tắc chung nhất của luật quốc gia và luật quốc tế.
14 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2502 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa Pháp Luật Quốc Gia và Pháp Luật Quốc Tế trong việc điêu chỉnh mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề tài: Mối quan hệ giữa Pháp Luật Quốc Gia và Pháp Luật Quốc Tế trong việc điêu chỉnh mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
lời mở đầu:
Trong đời sống quốc tế phát sinh mối quan hệ giữa công dân và
pháp nhân của nước này với công dân và pháp nhân của nước khác.Nhóm quan hệ phát sinh giữa các quốc gia với nhau do công pháp quốc đIều chỉnh. Nhóm quan hệ phát sinh giữa công dân hoặc pháp nhân của các nước khác nhau với nhau do một nghành luật độc lập đIều chỉnh gọi là tư pháp quốc tế. Tư pháp quốc tế la một hệ thống các quy phạm pháp luật biểu hiện mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế trong việc điều chỉnh mối quan hệ dân sự giữa công dân và pháp nhân của các nước khác nhau với nhau. PLQG và PLQT là hai yếu tố không thể tách dời trong việc giải quyết mối quan hệ đó. những pháp sinh trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nhiều khi rất phức tạp,việc giả quyết không tốt sẽ gây ra những hậu quả có thể phá vỡ quan hệ của hai nước.Vì vậy tư pháp quốc tế được xây dựng dựa trên hai nguồn luật quốc gia và luật quốc tế,ngoài ra còn bao gồm tập quán quốc tế nhằm giải quyết thoả đáng theo pháp luật của hai nước tham gia vào quan hệ dân sự.
I-Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế trong việc điều chỉnh mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
1.Khái niệm dân sự có yếu tố nước ngoài:
Trong giao lưu quốc tế, những quan hệ giữa các cá nhân, pháp nhân thuộc các quốc gia khác nhau tham gia do những quy phạm thuộc lĩnh vực tư pháp quốc tế điều chỉnh. Đối tượng những quan hệ này là các quan hệ tài sản, nhân thân giữa các chủ thể tham gia các quan hệ đó.
Chủ thể tham gia các quan hệ này là các cá nhân, pháp nhân và trong một số trường hợp cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế tham gia. Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự hiểu theo nghĩa rộng-Nó không chỉ bao gồm các quan hệ dân sự hiểu theo nghĩa truyền thống mà còn bao gồm cả các quan hệ tài sản và nhân thân nảy sinh trong các lĩnh vực thương mại (kinh tế), hôn nhân gia đình, lao động, tố tụng dân sự,kinh tế (kể cả trong tố tụng trọng tài). Theo quy định tại Điều 826 Bộ luật dân sự,thì những quan hệ dân sự có một trong ba yếu tố sau đây sẽ được coi là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài:
- Có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia;
- Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt ở nước ngoài;
- Tài sản có liên quan đến tài sản đó ở nước ngoài;
(Người nước ngoài là người mang quốc tịch nước ngoài hoặc người không có quốc tịch, pháp nhân nước ngoài là tổ chức có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật nước ngoài)
2. áp dụng luật dân sự Việt Nam, điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 827 thì “ các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam được áp dụng đối với các quan hệ có yếu tố nước ngoài trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”. Như vậy, việc áp dụng pháp luật dân sự Việt Nam để giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài là định hướng đầu tiên, chỉ trừ khi “Bộ luật này quy định khác”. Những trường hợp Bộ luật dân sự quy định khác là những trường hợp áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế. Khoản 2 Diều 827 Bộ luật dân sự quy định “trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của Bộ luật này, thì áp dụng điều ước quốc tế”. Theo quy định này, các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết có hiệu lực pháp luật cao hơn so với các quy định của Bộ luật dân sự. Đay là một trong những nguyên tắc quan trọng của Công pháp quốc tế.
Pháp luật nước ngoài có thể được áp dụng để điểu chỉnh các quan hệ dân sự khi được Bộ luật dân sự, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết viện dẫn hoặc khi các bên thoả thuận trong hợp đồng, nếu sự thoả thuận không trái với các quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Trong trường hợp pháp luật nước ngoài dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam, thì áp dụng luật Việt Nam. Theo quy định trên có thể hiểu pháp luật nước ngoài không chỉ được áp dụng luật nội dung mà có thể áp dụng luật xung đột.
Tập quán quốc tế là một thói quen lặp đi lặp lại nhiều lần, được đa số các nước công nhân áp dụng một cách liên tục, rộng rãi đến mức trở thành một quy tắc pháp lý mà mỗi người phải tuân theo nếu như không có quy định khác. Tập quán quốc tế có tính chất nguyên tắc là những tập quán cơ bản, bao trùm được hình thành trên cơ sở nguyên tắc chủ quyền quốc gia và bình đẳng giữa các dân tộc.
Chẳng hạn, toà án nước nào thì dùng luật tố tụng nước đó để điều chỉnh các vấn đề của một sự kiện hoặc là tập quán theo “luật quốc tịch”- công dân hay pháp nhân mang quốc tịch nước nào thì địa lý pháp lý được xác định theo luật đó vv…
Hiện tại có những quan niệm khác nhau về giá trị pháp lý của tập quán quốc tế.
Các nước tư bản coi tập quán quốc tế là nguồn luật đương nhiên của tư pháp quốc tế, tức có giá trị pháp lý như những quy phạm của các văn kiện luật. ở các nước XHCN tập quán quốc tế chỉ được coi là nguồn của tư pháp quốc tế khi nhà nước XHCN công nhận tập quán đó. Tập quán quốc tế chỉ được áp dụng khi không có luật trực tiếp điều chỉnh, không được các bên thoả thuận trong hợp đồng quy định áp dụng. Nhưng chúng chỉ được áp dụng khi việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia: không ai có thể yêu cầu hoặc buộc toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền của một nước áp dụng pháp luật của một nước khác để dẫn tới hậu quả trái với nguyên tắc cơ bản, những nền tảng chính trị, xã hội của nước mình. Nguyên tắc này được nhận định tại điều luật này, Toà án có quyền lựa chọn “pháp luật nơi xảy ra hành vi” hoặc “pháp luật nơi xả ra hậu quả” để làm căn cứ giải quyết. Nếu những phương tiện như tàu bay, tàu biển gây ra thiệt hại ở không phận, hải phận quốc tế thì sẽ áp dụng pháp luật của nước mà các phương tiện đó mang quốc tịch. Nhưng có ngoại lệ khi luật hàng không, hàng hải Việt Nam quy định khác.
Đối với hành vi thiệt hại do công dân Việt Nam thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam cho công dân Việt Nam khác, thì pháp luật Việt Nam được áp dụng để giải quyết.
3. áp dụng luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế:
Nếu toà án, trọng tài của một nước chỉ áp dụng luật nước mình để điều chỉnh mọi quan hệ có yếu tố nước ngoài hoặc bằng một cách mở rộng phạm vi hiệu lực của luật nước mình đối các quan hệ đó mà không tính được rằng trong những những trường hợp cụ thể việc áp dụng luật nước ngoài là hợp lý và không trái với nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội nước mình thì việc giải quyết tranh chấp nhiều khi mang lại kết quả không công bằng. Vì thế để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp lý cho các bên tham gia vào quan hệ vào tư pháp quốc tế, các nước đều thừa nhận và cho phép áp dụng luật nước ngoài.
Việc áp dụng luật nước ngoài có nghĩa là các nước thừa nhận rằng luật nước ngoài có thể và trong những trường hợp nhất định cần phải được áp dụng và điều chỉnh những quan hệ có yếu tố nước ngoài. Việc áp dụng luật nước ngoài theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột là một đặc thù của tư pháp quốc tế. Thực tiễn tư pháp quốc tế chứng minh rằng luật nước ngoài là một điều tất nhiên do đó có sự phát sinh và phát triển quan hệ giữa công dân, pháp nhân của các nước với nhau.
Khi luật nước ngoài được dẫn chiếu tới để giải quyết một mối quan hệ thì đặt ra vấn đề là toà án hay trọng tài phải áp dụng luật đó như thế nào, luật nước ngoài có được coi là luật hay chỉ là một sự kiện, ai sẽ xác định nội dung của luật nước ngoài. Cách thức giải quyết vấn đề này ở các nước không giống nhau.
Việc áp dụng luật nước ngoài của các nước TBCN: Nhìn chung việc áp dụng luật nước ngoài ở các nước TBCN được tiến hành một cách khắt khe và toà án tư sản giải thích, áp dụng luật nước ngoài không giống như các nước đã ban hành luật đó. Toà án tư sản không coi luật nước ngoài là luật, mà chỉ là một sự kiện, cho nên các bên đương sự phải có nghĩa vụ chứng minh sự kiện đó, tức là chứng minh nội dung luật nước ngoài. Tuy vậy ở các nước TBCN việc áp dụng luật nước ngoài cũng không giống nhau. Các toà án thuộc hệ thống luật chung như ở Anh, Mỹ, các nước thuộc địa cũ của Anhđứng trên nguyên tắc luật nước ngoài không được coi là luật, mà chỉ được coi là một sự kiện Toà án của Anh trong mọi trường hợp đều coi luật nước ngoài là một sự kiện chứ không phải là luật. Hơn nữa, nội dung của luật nước ngoài là một sự kiện mà toà án và mọi người không biết rõ cho nên các bên đương sự phải chứng minh nội dung của luật nước ngoài đó. Toà án đánh giá bằng chứng về nội dung luật nước ngoài theo những nguyên tắc chung của luật chứng cứ Anh. Toà án Anh chỉ giải quyết trên cơ sở các bằng chứng về nội dung luật nước ngoài do các bên chứng minh. Toà án không sử dụng kiến thức của mình về luật nước ngoài, cũng như những bằng chứng về luật nước ngoài đã được xác định trong các vụ kiện trước đó để giải quyết tranh chấp. Toà án của Mỹ áp dụng luật nước ngoài cũng như Anh, nhưng có điểm khác là toà án sẽ từ chối giải quyết vụ kiện nếu các bên đương sự không chứng minh được nội dung luật nước ngoài đó là luật của những nước mà toà án Mỹ không thể suy đoán giống như luật chung được. Thực tiễn xét xử ở pháp coi luật nước ngoài được toà án Pháp áp dụng chỉ là một sự kiện mà các bên đương sự có nghĩa vụ chứng minh. Nếu toá án Pháp đã biết rõ luật nước ngoài thì toà án sẽ áp dụng luật đó để xét xử, mặc dù các bên chưa chứng minh được hoặc không chứng minh được luật đó. Trong trường hợp này, sai sót trong việc áp dụng luật nước ngoài không phải lý do để kháng cáo. Toà án các nước Châu Mỹ La tinh về nguyên tắc áp dụng luật nước ngoài để giải quyết tranh chấp. Các bên đương sự có nghĩa vụ chứng minh nội dung luật nước ngoài và chứng minh bằng mọi cách, kể cả thông qua con đường ngoại giao. Việc áp dụng sai luật nước ngoài là nguyên cớ cho việc kháng cáo.
Việc áp dụng luật nước ngoài ở các nước XHCN Nếu một quan hệ có yếu tố nước ngoài chịu sự điều chỉnh của luật nước ngoài thì toà án của các nước XHCN sẽ áp dụng luật nước ngoài để giải quyết tranh chấp. Khi áp dụng, luật nước ngoài được coi là luật chứ không phải sự kiện. Toà án có nhiệm vụ giải thích và áp dụng luật nước ngoài đúng như nội dung của nó, tức là giống như việc giải thích và áp dụng của toà án ở nước đã ban hành ra luật đó. Vì coi luật nước ngoài là luật nên phải xác định nội dung luật nước ngoài, chứ không phải chứng minh nó. Việc xác định nội dung luật nước ngoài là công việc của toà án bởi vì toà án có nhiệm vụ giải thích và áp dụng nội dung luật nước ngoài. Khi đã áp dụng mọi biện pháp mà không thể xác định được nội dung luật nước ngoài thì toà án sẽ áp dụng luật nước mình để giải quyết tranh chấp.III. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài: Việc lựa chọn pháp luật của nước này hay nước khác để giải quyết các tranh chấp dân sự là một trong những vấn đề quan trọng của tư pháp quốc tế. Xuất phát từ đường lối đối ngoại rộng mở “làm bạn với tất cả” và tạo môi trường pháp lý cho các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự tại Việt Nam. Bộ luật dân sự đã quy định cách thức lựa chọn pháp luật mềm dẻo nhưng không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia của Việt Nam.1. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài (Điều 830, 831 Bộ luật dân sự) Theo quy định của các điều luật này, năng lực pháp luật dân sự của người nước ngoài ở Việt Nam được xác định như công dân của Việt Nam, còn năng lực hành vi của người nước ngoài lại được xác định theo luật mà người đó là công dân. Tuy nhiên người nước ngoài xác lập giao dịch ở Việt Nam, thì hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định theo pháp luật Việt Nam. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật nơi pháp nhân nước ngoài thành lập. Nhưng khi pháp nhân thực hiện, xác lập giao dịch tại Việt nam, thì năng lực chủ thể của pháp nhân được xác định theo pháp luật Việt Nam ( Điều 832 Bộ luật dân sự ). Ngoài ra, nếu pháp luật Việt Nam có quy định khác về năng lực pháp luật của pháp nhân, thì phải tuân theo các quy định đó.2. Quyền sở hữu tài sản ( Điều 833 Bộ luật dân sự ) Về nguyên tắc chung, quyền sở hữu đối với tài sản dược xác định theo nguyên tắc nơi có tài sản, nhưng có ngoại lệ “trừ trường hợp pháp luật Việt Nam quy định khác”. Ngoại trừ trong trường hợp này được quy định tài điều khoản 3 Điều 833- quy tắc sở hữu đối với bất động sản trên đường vận chuyển được xác định theo luật nơi động sản đến. Nhưng điều này không cấm sự thoả thuận ngược lại khi các bên giao kết hợp đồng cung ứng hàng hoá. Như vậy, các căn cứ phát sinh,chấm dứt cũng như nội dung quyền sở hữu được xác định theo luật của nước nơi có tài sản. Sự phân biệt động sản và bất động sản cũng được xác định theo nguyên tắc này mà không có ngoại lệ 3. Hợp đồng dân sự (Điều 834 Bộ luật hình sự) Hình thức của hợp đồng được xác định theo luật của nước từ nơi giao kết hợp đồng (Khoản 1).Vì vậy,nếu hợp đồng tuân thủ hình thức ở nước ngoài nơi giao kết, nhưng không đúng quy định của luật Việt Nam, vẫn có hiệu lực ở việt nam. Nhưng,nếu hợp đồng giao kết ở nước ngoài tuy không tuân thủ hình thức quy định của nước nơi giao kết lại phù hợp với quy định về hình thức của pháp luật Việt Nam vẫn có hiệu lực ở Việt Nam. Nếu hợp đồng được giao kết và thực hiện tại Việt Nam, thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam cả về nội dung và hình thức. Trong mọi trường hợp, hợp đồng liên quan đến bất động sản ở Việt Nam phải tuân thủ theo pháp luật Việt Nam không phụ thuộc vào nơi ký kết hợp đồng. Trong trường hợp này,việc phân biệt động sản và bất động sản phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Nội dung của hợp đồng do các bên thoả thuận, nếu không có thoả thuân, thì quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định theo luật của nước nơi thực hiện hợp đồng.4. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Điều 834 Bộ luật Dân sự) Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả. Căn cứ vào quy định tại điều luật này, toà án có quyền lựa chọn” pháp luật nơi xảy ra hành vi”hoặc”pháp luật nơi xảy ra hậu quả” để làm căn cứ giải quyết . Nếu nhũng phương tiện như tàu bay, tàu biển gây ra thiệt hại ở không phận,hải phận quốc tế thì sẽ áp dụng pháp luật của nước mà các phương tiện đó mang quốc tịch. Nhưng có ngoại lệ khi luật hàng không, hàng hải của Việt nam quy định khác. Đối với hành vi thiệt hại do công dân Việt Nam thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam cho công dân Việt Nam khác, thì pháp luật của Việt Nam được áp dụng để giải quyết.5. Quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp (các điều 836, 837 Bộ luật dân sự) Đây là hai loại quyền thuộc phạm trù “sở hữu trí tuệ”, chúng mang những nét đặc thù – Tính chất lãnh thổ đối với loại tài sản vô hình. Bộ luật dân sự cũng dành cho các tác giả là người nước ngoài , không có quốc tịch, các pháp nhân nước ngoài “Chế độ đái ngộ như công dân”. Những tác phẩm lần đầu tiên công bố tại Việt Nam, những đối tượng sở hữu công nghiệp đăng ký tại Việt Nam được bảo hộ theo pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết. Việt Nam đã tham gia công ước PARI 1883 về sở hữu công nghiệp; công ước MADRIT về đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ; công ước STOCKHOLM về thành lập tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới.6. Chuyển giao công nghệ (Điều 838 Bộ luật dân sự) Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài phải tuân theo quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác của Việt Nam về chuyển giao công nghệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết.III. Hạn chế áp dụng luật nước ngoài trong việc giải quyết mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài – Bảo lưu “ trật tự công cộng” Nhìn chung bất kỳ một nước nào khi áp dụng luật nước ngoài cũng không áp dụng một cách máy móc mà phải tính đến hậu quả của việc áp dụng luật đó. Theo luật của tất cả các nước, luật nước ngoài do quy phạm xung đột dẫn chiếu tới sẽ không được áp dụng nếu như việc áp dụng luật đó, trái với trật tự công cộng (public policy) của nước mình. Như vậy việc bảo lưu trật tự công cộng là một lý do để gạt bỏ việc áp dụng luật nước ngoài, nhưng như thế nào là trật tự công cộng thì luật pháp và thực tiễn tư pháp của các nước quy định, giải thích không giống nhau. Chẳng hạn điều 30 luật giới thiệu Bộ luật Đức năm1986 quy định: “việc áp dụng luật nước ngoài sẽ bị loại trừ nếu việc áp dụng luật đó trái với những đức tính tốt hoặc mục đích của luật Đức”. Điều 6 luật tư pháp quốc tế năm1965 của Ba Lan quy định rằng: không được áp dụng luật nước ngoài, nếu việc áp dụng luật đó đưa đến hậu quả trái với những nguyên tắc cơ bản của trật pháp luật Ba Lan “. Như vậy luật pháp của các nước quy định một cách chung nhất về bảo lưu trật tự công cộng còn thực tế việc giải quyết vấn đề nay thuộc quyền hạn của toà án. Thực tiễn giải thích khái niệm “ bảo lưu trật tự công cộng “ của toà án các nước khác nhau là khác nhau phụ thuộc vào các quy định của pháp luật của mỗi nước, vào quyền lợi của giai cấp mà toà án đại diện, vào quan điểm của chính toà án v.v.. Tóm lại, bảo lưu trật tự công cộng là kỹ thuật pháp lý nhằm gạt bỏ việc áp dụng luật nước ngoài. Tất cả các nước đều áp dụng bảo lưu trật tự công cộng, song ở các mức độ khác nhau.
kết luận:
Trong điều kiện hiện nay, xu hướng hội nhập quốc tế hoá là xu thế chung trên toàn thế giới. Bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và giữ mối giao hảo tốt đẹp là nguyên tắc cơ bản của các nước. Những mối quan hệ nảy sinh từ các vấn đề dân sự, kinh tế, lãnh thổ quốc gia,…giữa các quốc gia với nhau rất phức tạp. Đặc biệt vấn đề tài sản và nhân thân trong dân sự đòi hỏi phải được giải quyết hợp lý, đảm bảo uy tín và danh dự của các quốc gia tham gia quan hệ dân sự. PLQG và PLQT là hai nguồn chính trong tư pháp quốc tế, chúng có mối quan hệ tương trợ lẫn nhau khi xem xét và giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Pháp luật Việt Nam qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đã xây dựng được những điều luật tương đối chặt chẽ trong điều chỉnh mối quan hệ đó. Tuy nhiên, còn rườm rà và trong thực tiễn thực hiện còn nhiều sai sót, gây thiệt hại đối với bên tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài của Việt Nam. Vì mục tiêu phát triển và lợi ích của cá nhân, nhiều nước đã lợi dụng sức mạnh của mình để chèn ép các nước nhỏ, bỏ qua những điều luật quốc tế đã được thông qua. Vì vậy, trong quan hệ với các nước khác Việt Nam cần hết sức cẩn thận, giải quyết theo những nguyên tắc chung nhất của luật quốc gia và luật quốc tế.
Phụ lục:
Lời mở đầu
Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Việt Nam giải quyết mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Hạn chế áp dụng luật nước ngoài – Bảo lưu “ trật tự công cộng”
Kết luận
Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình pháp lý đại cương ( ĐH Ngoại Thương )
2. Bộ luật dân sự
3. Giáo trình luật dân sự Việt Nam (ĐH Luật )
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34630.doc