* Chính sách tài chính:
Nhanh chóng hoàn thiện chính sách thuế khoá. Chính sách thuế khoá phải thực sự phù hợp, công bằng. Phải có sự phân bố gánh nặng thuế giữa các tầng lớp dân cư. Thực hiện thuế luỹ tiến đối với những nhóm dân cư có thu nhập cao để điều chỉnh mức thu nhập, tránh sự phân hoá giàu nghèo. Để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua ngân sách. Nhà nước phải xác định được trạng thái của nền kinh tế hiện đại, mức sản xuất thực tế so với tiềm năng và mức tối đa. Thông qua chính sách chỉ tiêu mà Nhà nước có thể khuyến khích phát triển giáo dục và công nghệ, thúc đẩy các doanh nghiệp, nhà sản xuất sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ cần thiết cho xã hội và cho xuất khẩu. Chỉ cần xem cách điều hành của Nhà nước về các khoản đầu tư và cho vay vào các lĩnh vực nhất định ta sẽ thấy ngay chính sách tài chính của Nhà nước tác động vào nền kinh tế mạnh đến mức độ nào.
* Chính sách tiền tệ:
Tiền tệ có tác dụng mạnh vào nền kinh tế cho nên cần phải có những chính sách đúng đắn về mặt tiền tệ. Mức cung tiền là một công cụ quan trọng hữu hiệu. Mức cung tiền tệ tác động đến lãi suất cùng khối lượng và điều kiện tín dụng. Chính lãi suất tín dụng và giảm mức độ cung tiền có thể chặn đứng được lạm phát trong một thời kỳ dài làm cơ sở để phục hồi và phát triển sản xuất. Bởi vậy cần có hệ thống lãi suất hợp lý, tạo điều kiện tập trung nguồn vốn từ dân, bình ổn giá cả, kiểm soát phần nào quá trình luân chuyển vốn.
24 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1831 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thương nhân trong nước. Như vậy đến Nhà nước tư sản, vai trò kinh tế của Nhà nước không dừng ở thuế khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị bên ngoài, bên trên quá trình sản xuất mà Nhà nước đã phát hành hối phiếu, vay nợ. Sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá trình sản xuất. Nhờ vai trò kinh tế của Nhà nước tư sản mà các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng lớn của cải và tiền tệ. Đầu thế kỉ 18, Nhà nước tư sản tập trung khuyến khích phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất, tự do cạnh tranh trở thành xu thế tất yếuvà đòi hỏi cấp bách.
Trong tình hình đó các nhà kinh tế cổ điển đã ủng hộ tự do cạnh tranh, đại biểu cho trường phái này là Adam Smith(1723- 1790) đưa ra thuyết “bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà nước không can thiệp” vào hoạt động của nền kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp. Mặc dù coi trọng “bàn tay vô hình” song Adam Smith cũng cho rằng đôi khi Nhà nước cũng có những nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là trong trường hợp các nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh nghiệp như làm đường, xây bến cảng, đào các con kênh lớn… Đầu những năm 30 của thế kỷ XX những cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra thường xuyên, đặc biệt cuộc khủng hoảng quy mô lớn 1929- 1933 chứng tỏ “bàn tay vô hình” đã không thể bảo đảm những điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát trỉên. Và nhà kinh tế học người Anh, John Maynard Keynes (1884- 1946) đã đưa ra lý thuyết “Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường”. Nhà nước can thiệp vào kinh tế ở tầm vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát, bảo hiểm, thuế, trợ cấp, đầu tư phát triển… Ở tầm vi mô, Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Học thuyết Keynes đã cứu CNTB khỏi cơn khủng hoảng lớn của những năm 30- 40, song những chấn động lớn trong nền kinh tế vẫn diễn ra, tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát vẫn xảy ra ngày càng trầm trọng. Để phê phán học thuyết Keynes, học thuyết kinh tế hỗn hợp của Paul A.Samuelson ra đời. Samuelson cho rằng “điều hành một nền kinh tế không có cả Nhà nước lẫn thị trường thì cũng như vỗ tay bằng một bàn”. Phối hợp “bàn tay vô hình” của thị trường với “bàn tay hữu hình” của Nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế thị trường đã được ra đời và phát huy tác dụng. Thị trường là động lực mạnh mẽ đối với sự tăng trưởng. Nhà nước tạo ra môi trường an toàn để thị trường phát triển và hạn chế sự dư thừa của những thị trường khó kiểm soát.
Nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản tuy có những đặc điểm riêng nhưng đều thuộc kiểu Nhà nước của giai cấp bóc lột. Cơ sở kinh tế của chúng là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và chế độ người bóc lột người. Các Nhà nước đó đều là công cụ thống trị của thiểu số giai cấp bóc lột đối với đại đa số nhân dân lao động.
Đối lập với các Nhà nước trên là Nhà nước XHCN. Đó là Nhà nước kiểu mới. Cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước XHCN can thiệp vào các quá trình sản xuất xã hội, vào các quan hệ đối ngoại, sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thể chế hoá các chủ trương chính sách thành hệ thống các luật lệ, các quy chế đồng bộ để trực tiếp tác động, khống chế, điều tiết các hoạt động kinh tế, định hướng cho sự phát triển cân đối. Tuy là Nhà nước kiểu mới, Nhà nước tiến bộ nhất nhưng vai trò kinh tế của nhà nước trong xã hội XHCN cũng trải qua nhiều thăng trầm. Thời kỳ đầu do sự can thiệp quá lớn của Nhà nước vào nền kinh tế nên đã kìm hãm sự phát triển. Chỉ sau khi chuyển đổi sang cơ chế mới, vai trò kinh tế của Nhà nước XHCN mới thực sự có hiệu quả và thể hiện rõ nét thông qua những thành quả đạt được.
Như vậy qua những chặng đường phát triển của lịch sử, chúng ta thấy rằng ở những thời kì khác nhau vai trò kinh tế của Nhà nước tuy có những điểm khác nhau nhưng suy đến cùng nó rất quan trọng và không thể thiếu được.
2. Kinh tế thị trường và tính tất yếu của vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
2.1. Khái niệm và nội dung cơ chế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh,v.v… Các quy luật đó đều biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua giá cả thị trường. Nhờ sự vận động giá cả thị trường mà diễn ra một sự thích ứng một cách tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu), tức là sự hoạt động của các quy luật đó đã điều tiết nền sản xuất xã hội.
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung - cầu, cạnh tranh… trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường là một bộ máy tinh vi để phối hợp một cách không tự giác hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất. Cơ chế thị trường tự phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có thị trường và do đó có cơ chế thị trường hoạt động.
Tín hiệu của cơ chế thị trường là giá cả thị trường.
Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường của hàng hoá. Giá cả thị trường có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Chức năng thông tin: Những thông tin về giá cả thị trường cho người sản xuất biết được tình hình sản xuất trong các ngành, biết được tương quan cung - cầu, biết được sự khan hiếm đối với các loại hàng hoá. Nhờ đó mà những đơn vị kinh tế có liên quan ra được những quyết định thích hợp. Như vậy những thông tin về giá cả điều chỉnh hướng sản xuất và quy mô sản xuất, từ đó điền chỉnh cơ cấu sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu của xã hội.
- Chức năng phân bố các nguồn lực kinh tế. Sự biến động của giá cả sẽ dẫn đến sự biến động của cung - cầu, sản xuất và tiêu dùng và dẫn đến sự biến đổi trong phân bố các nguồn lực kinh tế. Những người sản xuất sẽ chuyển vốn từ nơi giá cả thấp, do đó lợi nhuận thấp đến nơi giá cả cao, do đó lợi nhuận cao, tức là các nguồn lực sẽ được chuyển từ nơi mà chúng được sử dụng với hiệu quả cao nhất, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu.
- Chức năng thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật. Để có thể cạnh tranh được về giá cả, buộc những người sản xuất phải giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Do đó thúc đẩy sự tiến bộ của kỹ thuật, công nghệ và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngoài ra giá cả còn thực hiện chức năng phân phối lại.
Trước đổi mới, ở nước ta thực hiện cơ chế hai giá: giá cả theo kế hoạch (giá bao cấp) và giá cả trên thị trường tự do. Giá cả theo kế hoạch thấp hơn rất nhiều so với giá cả trên thị trường tự do. Nói chung giá cả đó gần như không có quan hệ gì với giá trị hàng hoá, cũng như không tương quan đến cung cầu, nên mọi sự tính toán hiệu quả đều sai lệch. Bao cấp qua giá là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thâm hụt lớn của ngân sách, do đó dẫn đến lạm phát.
Việc chuyển sang cơ chế một giá - giá cả thị trường đối với tất cả các loại hàng hoá, chỉ trừ một số rất ít hàng hoá do Nhà nước định giá là bước chuyển có ý nghĩa quyết định từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường ở nước ta.
2.2. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường
Cái gì cũng có tính hai mặt của nó, cơ chế thị trường cũng vậy. Trong quá trình vận động và phát triển, cơ chế thị trường luôn nảy sinh những ưu điểm, khuyết tật. Thực tế khó đánh giá đầy đủ những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. Tuy nhiên có thể nêu lên những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường như sau:
2.2.1. Những ưu điểm của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường có những ưu điểm và tác dụng mà không có cơ chế nào hoàn toàn thay thế được.
Thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Nó tự kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyên môn hoá sản xuất. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội và phát triển kinh tế.
Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về các loại hàng hoá khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc ra quyết định.
Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất như không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
Thứ tư, cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu thông, di chuyển, phân phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường; chúng sẽ chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế được phân bố một cách tối ưu.
Thứ năm, sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước nhưng điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt nhất điều tiết nền sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, “sự thành công” của cơ chế đó là có điều kiện: các yếu tố sản xuất được lưu động, di chuyển dễ dàng; giá cả thị trường có tính linh hoạt, thông tin thị trường phải nhanh nhạy, và các chủ thể thị trường phải nắm được đầy đủ thông tin liên quan.
2.2.2. Những khuyết tật của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó.
Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo, thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền, thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật.
Thứ hai, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội không được đảm bảo.
Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, có những mục tiêu xã hội dù cơ chế thị trường có hoạt động trôi chảy cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội muốn vươn tới. Edgar Morin đã nhận xét chua chát: “Trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, tình người”.
Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp. Người ta nhận thấy rằng, một nền kinh tế thị trường hiện đại đứng trước một khó khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: không một nước nào trong một thời gian dài lại có được lạm phát và đầy đủ công ăn việc làm.
Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường, khi đó nền kinh tế, như người ta gọi, là nền kinh tế hỗn hợp.
2.3. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
Như sự phân tích ở trên thì cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách có hiệu quả, tuy nhiên cơ chế thị trường có một loạt những khuyết tật. Để khắc phục sữa chữa những khuyết tật, hạn chế của cơ chế thị trường, tất yếu khách quan phải có sự can thiệp của “bàn tay hữu hình”, đó là vai trò của Nhà nước vào thị trường, vào nền kinh tế. Do đó ngày nay ở các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết nói riêng và ở các nền kinh tế nói chung đều có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế là nhu cầu khách quan nội tại của nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. Việc điều tiết, khống chế và định hướng các hoạt động kinh tế theo phương hướng và mục tiêu như thế nào phụ thuộc vào bản chất các hình thức Nhà nước và con đường mà mỗi quốc gia lựa chọn. Đất nước Việt Nam chúng ta muốn đạt tới mục tiêu XHCN cần phải chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, song cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước là một tất yếu khách quan. Việc nước ta chọn cơ chế mới là cần thiết, tất yếu và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của nước ta trên con đường quá độ đi lên CNXH bỏ qua TBCN.
Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng XHCN là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và chưa có mô hình vạch sẵn. Vì thế nhiệm vụ cấp bách đặt ra hiện nay là xác định nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Nét tổng quát của cơ chế thị trường của ta hướng tới là “cơ chế kinh tế mà trong đó thị trường và các quan hệ thị trường ngày càng đóng vai trò quyết định đối với sản xuất kinh doanh và phân phối tài nguyên quốc gia dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, nền kinh tế nhiều thành phần thông qua cạnh tranh, liên kết hợp tác có trình độ xã hội hoá cao, thúc đẩy sự hài hoà giữa sản xuất và nhu cầu, nền kinh tế vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan và các chính sách kinh tế phù hợp bảo đảm thị trường thống nhất, mở rộng, phục vụ các mục tiêu tăng trưởng, hiệu quả, cân bằng và ổn định. Nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn dân và thực hiện công bằng xã hội”.
Theo mô hình tổng quát nêu trên, có thể xác định những nội dung cơ bản của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là: Xã hội hoá sản xuất cao, phải có sự phân công lao động hết sức sâu sắc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho XHCN, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy tối đa mọi nguồn lực để thúc đẩy mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội phát triển, đổi mới căn bản cách tổ chức và phương thức quản lý, mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, hợp tác hoá, tiến hành cách mạng văn hoá. Nâng cao, khẳng định vai trò, địa vị làm chủ của người lao động trong nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, tự do dân chủ. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá- xã hội, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng an ninh, phải phát triển toàn diện trên mọi mặt mọi hướng, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, mở cửa hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ, tự do hoá thương mại và canh tranh… Tất cả những cái trên đều vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
Trong nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN nổi lên vai trò kinh tế của Nhà nước. Đó là vai trò điều tiết sự phát triển kinh tế và định hướng cho sự phát triển. Nhà nước điều tiết sự phát triển kinh tế bằng việc giữ ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường để kinh tế phát triển. Nhà nước vẫn sử dụng công cụ kế hoạch hoá bên cạnh đó còn sử dụng hệ thống các công cụ kinh tế như thuế, lãi suất, tín dụng, cung cầu thị trường tiền tệ, tỉ giá hối đoái… để điều tiết vĩ mô nền kinh tế nói chung, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng. Qua đó thúc đẩy các doanh nghiệp phải vươn lên làm ăn. Thông qua hệ thống pháp luật Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, bảo đảm tự do dân chủ nhưng có kỷ cương. Nhà nước tạo môi trường ổn định lành mạnh để các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tự do hoạt động, tư bản nước ngoài yên tâm đầu tư, kinh tế tư nhân hăng hái bỏ vốn làm giàu. Nhà nước định hướng sự phát triển nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Nhà nước trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt sự phát triển toàn bộ nền kinh tế theo định hướng XHCN. Nhà nước bắt buộc mọi đối tượng phải hoạt động trong một khuôn khổ nhất định cho phép để đảm bảo công bằng, hiệu quả trong kinh tế, hướng dẫn toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội đi vào quỹ đạo của CNXH.
Ở nước ta, Nhà nước đưa ra quyết định chiến lược kinh tế - xã hội, có kế hoạch triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược nhằm bảo đảm thực hiện được mục tiêu cuối cùng, tổ chức quản lý kinh tế thực hiện kế hoạch đã định, xác định cơ cấu tổ chức quản lý kinh tế, chỉ huy nền kinh tế, điều hoà phối hợp thực hiện kiểm tra giám sát việc thực hiện kế hoạch so sánh giữa mục tiêu, kế hoạch, tiêu chuẩn với thực tế hoạt động, khuyến khích và trừng phạt. Như vậy có thể thấy rằng vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta trong cơ chế thị trường định hướng XHCN có ý nghĩa hết sức to lớn và quan trọng. Kinh tế phát triển đi lên hay xảy ra khủng hoảng lạm phát tất cả đều phụ thuộc vào sự quản lý của Nhà nước.
Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là một cơ chế mới. Việt Nam chúng ta vận dụng nó là hết sức đúng đắn nhưng liệu thực sự có thành công hay không còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố mà yếu tố quan trọng nhất là Nhà nước. Nhà nước không thể thiếu được trong cơ chế thị trường định hướng XHCN nói riêng, trong mọi nền kinh tế nói chung vì thế luôn cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước. Đặc biệt Việt Nam chúng ta quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN thì vai trò của Nhà nước càng cần được tăng cường hơn nữa để chúng ta xây dựng thành công cơ chế mới, để đạt được những gì đã đề ra.
3. Mục tiêu và các chức năng của quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt Nam
Quá trình hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở Việt Nam khách quan phải có sự quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
3.1. Mục tiêu của quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt Nam
a. Mục tiêu phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, có hiệu quả
Để phân bổ các nguồn lực hợp lí có hiệu quả, Nhà nước phải dựa vào công cụ kế hoạch để hoạch định sự phát triển toàn diện nền kinh tế quốc dân. Thông qua công cụ này, Nhà nước có thể nắm bắt được những yếu tố ảnh hưởng đến mức cung- cầu, sản xuất- tiêu dùng, hàng hoá- tiền tệ, trạng thái kinh tế của các vùng trong cả nước để từ đó phân bổ các nguồn lực(vốn, lao động, công nghệ…) cho phù hợp từng vùng, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực để từ đó nâng cao sản lượng thực tế tương ứng với mức sản lượng tiềm năng, tạo điều kiện tốt cho nền kinh tế tăng trưởng và ổn định. Nhờ công cụ này mà Nhà nước khẳng định được ý đồ của mình trong nhiều lĩnh vực như xây dựng công trình công cộng, thúc đẩy sự phát triển khoa học kĩ thuật công nghệ, xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, giảm bớt độ rủi ro và hỗ trợ cho các thành phần tổ chức kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển có hiệu quả nhất.
Đây là mục tiêu quan trọng đối với Việt Nam chúng ta. Bởi chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kinh tế xã hội còn nghèo nàn lạc hậu, chưa phát triển, giữa các vùng miền còn có sự chênh lệch nhau khá lớn về điều kiện phát triển, về trình độ lao động, về sự hiểu biết,… Cho nên việc phân bổ các nguồn lực hợp lí sẽ là động lực đưa đất nước phát triển đi lên tránh khỏi sự tụt hậu so với thế giới, giúp chúng ta quá độ thành công tiến lên xây dựng CNXH.
b. Mục tiêu phân bố công bằng tổng sản phẩm quốc dân và giải quyết tốt các vấn đề xã hội
Để thực hiện tốt mục tiêu trên, Nhà nước sử dụng chính sách thu nhập và giáo dục nâng cao trình độ dân trí. Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp song bắt buộc thực hiện nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính. Việc phân phối và phân phối lại hợp lí khuyến khích mọi cá nhân tổ chức làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo, giảm sự chênh lệch quá đáng về mức sống, trình độ giữa các miền vùng, tầng lớp dân cư, giảm sự phân hoá giàu nghèo. Đối với các vấn đề xã hội, Nhà nước có các giải pháp để xoá nạn mù chữ, hoàn thành phổ cập giáo dục, giảm sự gia tăng dân số, tạo thêm công ăn việc làm, ngăn chặn và làm giảm ô nhiễm môi trường, khai thác tài nguyên bừa bãi, đẩy lùi tham nhũng, các tệ nạn xã hội, loại trừ văn hoá phẩm độc hại…
c. Mục tiêu phát triển toàn diện
Nhà nước đề ra các chính sách, biện pháp để thúc đẩy phát triển toàn diện: công, nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ. Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và đổi mới cơ cấu nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong công nghiệp chú trọng trước hết vào công nghiệp chế biến và công nghiệp hàng tiêu dùng, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng. Cải tạo, nâng cấp và xây mới kết cấu hạ tầng cơ sở. Về dịch vụ tập trung phát triển lĩnh vực vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, du lịch, các dịch vụ tài chính ngân hàng,…
Phát triển toàn diện sẽ giúp cho Việt nam nói riêng, các nước trên thế giới nói chung có một nền tảng vững chắc, làm bàn đạp thúc đẩy kinh tế xã hội ngày một phát triển đi lên. Phát triển toàn diện nhưng có chọn lọc là điều kiện cần thiết để chúng ta tiến lên XHCN, để chúng ta xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho XHCN.
d. Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế
Muốn kinh tế ổn định và tăng trưởng, Nhà nước phải tạo ra môi trường tốt cho thị trường, phát huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của nó. Ổn định và tăng trưởng kinh tế có nghĩa là duy trì sự ổn định cơ bản của mức vật giá, ngăn ngừa và kiềm chế lạm phát. Duy trì sự ổn định cơ bản của công ăn việc làm, hạn chế tỉ lệ thất nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm, xây dựng môi trường làm việc tốt. Duy trì sự ổn định cơ bản của tăng trưởng kinh tế, làm cho kinh tế ổn định hài hoà. Đảm bảo sự cân bằng cơ bản của thu chi ngân sách, sự cân bằng cơ cấu.
Đây là một mục tiêu cần có và cần phải đạt được. Kinh tế tác động đến mọi ngõ ngách của đời sống xã hội. Vì vậy ổn định và tăng trưởng kinh tế thúc đẩy đất nước phát triển toàn diện.
e. Mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh tổ quốc.
Việt Nam chúng ta đang trong thời kì quá độ lên CNXH, việc bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là hết sức quan trọng, quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế. Muốn vậy Nhà nước phải giữ ổn định chính trị, an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh, luôn sẵn sàng đối phó trong mọi tình huống.
Tóm lại, đất nước ta tiến lên XHCN với mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Các mục tiêu trên được dựa trên cơ sở lấy con người và phục vụ con người làm nền tảng, đưa đất nước và con người Việt Nam vươn tới “chân, thiện, mỹ”. Tất cả các mục tiêu trên chung quy lại đều nhằm để phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
3.2. Chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt Nam
Ta biết rằng vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là rất quan trọng, quan trọng nhất là để nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Vai trò đó được thực hiện qua các chức năng quản lý kinh tế. Các chức năng đó là gì? Đây chính là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm, tìm hiểu.
Thứ nhất: Tạo điều kiện và môi trường cho sản xuất kinh doanh.
Nhà nước đảm bảo sự ổn định về chính trị- kinh tế- xã hội cho các doanh nghiệp yên tâm làm ăn. Muốn vậy Nhà nước phải duy trì luật pháp, duy trì trật tự an toàn xã hội, khống chế lạm phát và điều tiết thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật, những quy định. Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi khủng hoảng, lạm phát. Nhà nước tuy không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo nhưng Nhà nước có thể làm giảm khủng hoảng, giảm lạm phát thông qua các chính sách tài chính và tiền tệ.
Nhà nước phải là người xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Đó là xây dựng hệ thống giao thông, hệ thống cung cấp năng lượng(điện), hệ thống cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất và hệ thống thông tin liên lạc. Để đáp ứng đòi hỏi của phát triển sản xuất, Nhà nước phải xây dựng hệ thống tài chính, tiền tệ, tín dụng. Ngoài ra Nhà nước còn phải xây dựng cơ sở hạ tầng về mặt xã hội như y tế, giáo dục đào tạo, văn hoá.
Nhà nước Việt Nam chúng ta đã, đang và sẽ thực hiện chức năng này ngày một tốt hơn. Tuy nhiên vì là một nước nghèo, một nước đi sau cho nên ta cần nghiên cứu học hỏi nghiêm túc kinh nghiệm của các nước để có hướng đi và việc làm đúng.
Thứ hai: Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông qua các kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, các doanh nghiệp được tự do trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước là người hoạch định, đưa ra các chính sách phát triển kinh tế- xã hội để dẫn dắt các doanh nghiệp đầu tư hợp lý sao cho vừa có lợi cho bản thân doanh nghiệp vừa có lợi cho xã hội. Thông qua đó Nhà nước thực hiện ý đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để Nhà nước có thể quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba: Phải là người hoạch định và thực hiện các chính sách về mặt xã hội.
Phát triển kinh tế phải thống nhất và đi đôi với phát triển xã hội. Để phát triển xã hội, Nhà nước phải có các chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách cho người khuyết tật, người mù, nâng cao sự hiểu biết cho toàn dân nói chung dân tộc ít người nói riêng, chính sách hỗ trợ vùng sâu vùng xa, hỗ trợ cho các vùng bị thiên tai, hạn hán, đầu tư xây dựng trường học, bệnh viện,…
Thứ tư: Thực hiện công bằng xã hội, công bằng trong phân phối thu nhập
Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho kinh tế đạt hiệu quả cao. Nhưng kinh tế thị trường hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo và xã hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Cho nên để đảm bảo cho sự thành công của cơ chế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước thực hiện công bằng xã hội, công bằng trong phân phối thu nhập thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội để nhằm khắc phục hạn chế, khuyết tật của cơ chế thị trường, thúc đẩy phát huy những mặt tích cực.
Thứ năm: Quản lí và kiểm soát việc sử dụng các nguồn tài nguyên quốc gia.
Tài nguyên quốc gia là hữu hạn, nếu chúng ta sử dụng không có kế hoạch thì sẽ dẫn đến việc cạn kiệt tài nguyên kéo theo sự đi xuống của nền kinh tế. Vì thế Nhà nước phải can thiệp để quản lý và kiểm soát việc sử dụng các nguồn tài nguyên quốc gia sao cho có hiệu quả cao nhất thúc đẩy kinh tế phát triển, tránh sự lãng phí.
4. Các công cụ mà Nhà nước sử dụng để quản lí vĩ mô nền kinh tế
4.1. Luật pháp
Nói đến pháp luật là nói đến tính quy phạm, tính chuẩn mực. Vì thế pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng chứa đựng trong mình nó giá trị xã hội: ổn định và chuẩn mực hoá các quan hệ xã hội. Pháp luật hoàn toàn không phải là phương tiện để sáng tạo ra các quan hệ kinh tế mà nó được đẻ ra từ đòi hỏi khách quan của các quan hệ kinh tế . Nhà nước đã sớm xác định được vai trò quan trọng của công cụ luật pháp. Nhà nước thiết lập khuôn khổ pháp luật nhằm “ổn định hoá” “chính thức hoá” các giá trị vốn có của các quan hệ kinh tế. Chính vì vậy, luật kinh tế là các “hành lang”, các khung pháp lí ổn định, chính thức mà trong đó các quan hệ kinh tế tự do tồn tại và phát triển, phù hợp với giá trị vốn có của nó, được xã hội cần, xã hội thừa nhận. Các đạo luật kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, tự do dân chủ nhưng có kỉ cương. Như vậy thông qua công cụ luật pháp, Nhà nước có thể cưỡng chế các hoạt động của doanh nghiệp nếu như hoạt động đó làm tổn hại tới lợi ích xã hội. Nó còn là công cụ để Nhà nước tạo môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh, tạo hành lang pháp lý an toàn cho sản xuất kinh doanh để thành phần kinh tế trong nước yên tâm, hăng hái làm giàu, tư bản nước ngoài không phải lo sợ khi đầu tư vốn,… Có thể nói độ tin cậy của các nhà đầu tư với Nhà nước được tập trung và phản ánh ở mức độ tin cậy vào pháp luật. Công cụ luật pháp là công cụ mạnh, là công cụ quản lý rất có hiệu quả, thể hiện vai trò định hướng và điều tiết của Nhà nước, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ngày một đi lên theo đúng định hướng XHCN.
4.2. Công tác kế hoạch
Các kế hoạch phát triển kinh tế đó là những định hướng của chính phủ để nhằm vào những mục tiêu nhất định do đó nó tác dụng phát huy mọi tiềm năng tổng hợp của nền kinh tế. Thông qua kế hoạch để Nhà nước quản lí toàn bộ nền sản xuất xã hội, để điều chỉnh quá trình tái sản xuất xã hội.
Hiện nay ở nước ta đã chuyển sang cơ chế mới vì vậy công tác kế hoạch cũng phải có sự chuyển biến từ phương thức kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang phương thức xây dựng kế hoạch theo định hướng, phải coi thị trường vừa là đối tượng vừa là căn cứ của công tác kế hoạch hoá.
Công tác kế hoạch bao gồm kế hoạch vĩ mô và kế hoạch vi mô, kế hoạch dài hạn và kế hoạch ngắn hạn. Việc thực hiện công tác kế hoạch tốt, đúng hướng là điều kiện cần thiết để Nhà nước thực hiện tốt các chức năng quản lí vĩ mô nền kinh tế đạt được mục tiêu đề ra.
4.3. Chính sách về tài chính và tiền tệ
a. Chính sách tài chính:
Đây là tổng hợp các biện pháp tài chính nhằm sử dụng các quỹ tiền tệ phục vụ tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân. Có thể nói chính sách tài chính là phương tiện, là công cụ trọng yếu, là sức mạnh vật chất để Nhà nước can thiệp có hiệu lực vào nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường hiện nay.
Chính sách tài chính chủ yếu thể hiện ở hai nội dung: thu và chi tiêu chính phủ, từ đó tác động vào tổng cung và tổng cầu, sản lượng, giá cả và việc làm.
Thực hiện tốt và có hiệu quả chính sách tài chính có thể giải quyết tốt vấn đề lạm phát, suy thoái và thất nghiệp tạo nên sự ổn định và tăng trưởng kinh tế.
b. Chính sách tiền tệ:
Cùng với chính sách tài chính, chính sách tiền tệ là nhân tố quan trọng tác động đến sản lượng, thất nghiệp và lạm phát trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách tiền tệ được hình thành dựa trên cơ sở khoa học của sự thống nhất biện chứng giữa sản xuất và lưu thông. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế. Bằng công cụ tiền tệ, Nhà nước có thể tác động vào mọi khía cạnh của nền kinh tế, hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, ngăn chặn tính tự phát của TBCN.
Qua đây có thể thấy rằng bằng chính sách tài chính và tiền tệ, Nhà nước tác động để điều hoà quan hệ cung cầu về vốn và tiền mặt trong xã hội, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng tích luỹ vốn cho đầu tư, đáp ứng chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Bên cạnh đó còn nhằm làm giảm bội chi ngân sách, kiểm soát và khống chế lạm phát, ổn định sức mua. Thông qua chính sách này Nhà nước xử lý đúng mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa phát triển kinh tế và tăng cường cho an ninh quốc phòng, giải quyết mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
4.4. Điều tiết kinh tế đối ngoại
Để thực hiện tốt chiến lược kinh tế mở, xúc tiến các quan hệ kinh tế đối ngoại, Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là: thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch, tỉ giá hối đoái,…
Thông qua những công cụ này Nhà nước có thể khuyến khích việc xuất nhập khẩu đồng thời bảo hộ một cách hợp lí nền sản xuất nội địa, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài ngày càng nhiều,…
4.5. Chính sách, công cụ khác
Ta biết rằng, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng, để thực hiện tốt vai trò của mình, ngoài những công cụ kể trên, Nhà nước còn phải sử dụng những công cụ khác để tác động vào nền kinh tế thị trường nhằm đảm bảo cân đối vĩ mô, điều tiết thị trường, ngăn ngừa các đột biến xấu của thị trường,…
II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Tình hình thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Ở nước ta, trong Nghị quyết của những kỳ Đại Hội Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ đường lối kinh tế của Đảng và vạch ra các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho giai đoạn khoảng 10 năm sau. Sau đó, các mục tiêu của kế hoạch 5 năm được đưa ra trên cơ sở cụ thể hoá các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng năm trên cơ sở tiếp tục cụ thể hoá mục tiêu của kế hoạch 5 năm và có cân nhắc thêm về những điều kiện thực tiễn phát sinh tại các thời điểm cụ thể. Trong thời gian qua, tình hình thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế của Nhà nước đạt được như sau:
* Mục tiêu tăng trưởng kinh tế:
Trong 10 năm qua, GDP của Việt Nam tăng bình quân hàng năm là 7,8%, GDP tăng hơn 2,1 lần nhưng GDP bình quân đầu người chỉ tăng khoảng 1,8 lần so với năm 1994. Mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta trong những năm qua là tương đối cao so với các nước trong khu vực. Nhưng phải chú ý rằng nước ta đi lên từ một xuất phát điểm thấp kém. Năm 1998, mức sống tính theo GDP bình quân đầu người đứng thứ 134/174 nước, chỉ số phát triển nguồn nhân lực HDI đứng thứ 108/174 nước và chỉ số nghèo khổ (HPI) là 47/85 nước đang phát triển.
Cho dù tốc độ tăng trưởng trong 20 năm tới chúng ta có vượt trên các nước trong khu vực 2% đến 3% (đây là điều không đơn giản) thì khoảng cách phát triển cũng chỉ thu hẹp thêm 1,5 đến 1,8 lần thứ tự sắp xếp theo mức GDP bình quân đầu người so với các nước Đông Á và Đông Nam Á về cơ bản sẽ không thay đổi. Vì vậy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với nước ta, không có tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, chúng ta không biết bắt đầu tư đâu để rút ngắn cự li với các nước trong khu vực, càng không đuổi kịp các nước phát triển.
* Mục tiêu ổn định kinh tế
Thứ nhất, duy trì ổn định cơ bản của mức vật giá, ngăn ngừa và kiềm chế lạm phát
Lạm phát trong năm 1999 ở mức thấp là 0,1%, năm 2000 là -0,6% so với kế hoạch đặt ra là 6%. Đây là những mức lạm phát thấp nhất trong vòng 15 năm vừa qua. Nguyên nhân do sự giảm sút đáng kể của chỉ số giá cả hàng lương thực, trong khi giá các loại hàng hoá khác giữ mức giá thấp, chỉ tăng khoảng 3% vào năm 1999. Mặt khác, tình trạng cung vượt quá cầu một cách giả tạo, hàng tồn kho của nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước như sắt thép, than, xi măng, đường, giấy,… vẫn còn ở mức độ lớn, là sức ép lớn về giảm phát cũng như những cơ hội đối với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Ngược lại với tình hình của những năm trước, mức lạm phát lại có chiều hướng gia tăng vào năm 2004, nguyên nhân chủ yếu là do giá xăng dầu trên thế giới tăng đột biến. Mức lạm phát dự kiến cho cả giai đoạn 2001 - 2010 là khoảng 6,5-7% bình quân năm.
Thứ hai, duy trì sự ổn định cơ bản của công ăn việc làm trong xã hội, hạn chế tỷ lệ thất nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Trong thời gian qua, chúng ta vẫn còn tình trạng thất nghiệp với tỷ lệ tương đối cao. Nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp ở nước ta một phần do kinh tế còn phát triển chưa ổn định, mặt khác do người lao động còn thiếu kiến thức, kỹ năng và tay nghề. Tỷ lệ lao động qua đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực.
Thứ ba, về đảm bảo sự cân bằng cơ bản thu chi ngân sách: Năm 1999 là năm có mức độ thâm hụt ngân sách thấp đạt 4,9%/GDP, nằm trong mức khống chế đưa ra là 5%. Từ năm 1999, cán cân thương mại được cải thiện đáng kể.
* Mục tiêu công bằng kinh tế:
Ở nước ta hiện nay áp dụng 3 hình thức phân phối là phân phối theo lao động, phân phối theo quyền sở hữu đối với các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và phân phối qua phúc lợi xã hội, trong đó đặc biệt coi trọng hình thức phân phối theo lao động. Trong những năm qua, mặc dù thu nhập bình quân đầu người ở nước ta đã được nâng cao đáng kể, so chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và các vùng diễn biến theo hướng mở rộng thêm. Khoảng cách thu nhập giữa 20% hộ giàu và nghèo là 7,21 lần năm 1998. Con số này tuy thấp hơn các nước trong khu vực nhưng nó cho thấy rằng chúng ta cần đẩy mạnh các chính sách xã hội nữa trong điều kiện tiếp tục phát triển kinh tế thị trường.
Về công bằng trong cạnh tranh và cơ hội thị trường, hiện nay, giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân còn thiếu khía cạnh công bằng. Hơn nữa, giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước cũng còn nhiều điểm chưa thoả đáng về cơ chế khuyến khích cạnh tranh do có 2 bộ luật khác nhau điều chỉnh. Để giải quyết những vướng mắc nói trên, chúng ta cần cho ra đời Luật khuyến khích cạnh tranh và chống độc quyền hay sáp nhập Luật doanh nghiệp Nhà nước và Luật doanh nghiệp.
* Đối với các mục tiêu khác như phúc lợi kinh tế, chúng ta đang dần dần đảm bảo được các mục tiêu này.
2. Thực trạng quản lý kinh tế của Nhà nước ta hiện nay
Từ khi đổi mới nền kinh tế nước ta có những thay đổi căn bản. Nhưng nền kinh tế thị trường nước ta mới chỉ sơ khai, chưa đầy đủ, điều đó thể hiện ở những mặt sau:
- Sản xuất hàng hoá trong các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp còn ở trình độ thấp, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm làm ra chưa cao. Vì thế thị trường tiêu thụ hết sức hạn chế. Nếu có thị trường thì sức cạnh tranh của hàng hoá còn kém.
- Tuy sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp là ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn, chiếm nhiều lao động xã hội trong cơ cấu kinh tế nhưng quá trình thương phẩm hoá sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp chỉ diễn ra ở một số nơi có cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải thuận lợi, gần thị trường lớn và có bình quân ruộng đất trên đầu người tương đối cao. Chỉ có ở những nơi này là sản xuất được hàng hoá, và cũng có một số sản phẩm nông nghiệp hàng hoá, với khối lượng tương đối lớn và tỷ suất hàng hoá tương đối cao, phần còn lại vẫn trong tình trạng sản xuất tự cung tự cấp.
- Các hoạt động dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ, nhưng mới chỉ tập trung vào một số ngành như ăn uống, buôn bán nhỏ các cửa hàng công nghiệp tiêu dùng… Các ngành như du lịch, bảo hiểm, cung ứng kỹ thuật và công nghệ chưa tương xứng, chất lượng hàng hoá và dịch vụ nhìn chung còn thấp.
- Nhiều điều kiện cần thiết cho sự ra đời của sản xuất hàng hoá như đất đai, thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ chưa được thiết lập một cách hoàn chỉnh, công khai. Một số các yếu tố cấu thành đầu vào của sản phẩm chưa phải là hàng hoá, hoặc đang trong trạng thái độc quyền.
Chính vì nền kinh tế còn đang trong bước quá độ của sự chuyển đổi như vậy nên Nhà nước cũng chưa kiên quyết từ bỏ ngay cách quản lý trực tiếp đối với nền kinh tế để chuyển hẳn cách quản lý gián tiếp được mà vẫn phải tiến hành đan xen cả hai phương thức, điều này thể hiện rõ trên các mặt sau:
Mặt thứ nhất: Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh như trước nữa. Tuy nhiên trong thực tế nhiều cơ quan Nhà nước, nhiều cấp chính quyền vẫn không muốn từ bỏ sự can thiệp này. Một số địa phương vẫn còn sản xuất theo kế hoạch giao nộp. Trong sản xuất công nghiệp chế độ bao cấp vẫn còn trên thực tế.
Mặt thứ hai: Để cho sản xuất hàng hoá phát triển nhanh, phát triển đúng quy luật, Nhà nước phải là người tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho nó. Bằng chủ trương xoá bỏ ngăn sông cấm chợ, xoá bỏ chế độ nhiều giá, chúng ta đã khuyến khích sự ra đời nhanh thị trường hàng hoá, thị trường vật tư kĩ thuật thông suốt và thống nhất trong cả nước. Đây là điều tốt song những thị trường khác rất cần thiết đối với sự hình thành và phát triển của sản xuất hàng hoá như thị trường sức lao động, thị trường vốn, thị trường công nghệ,… thì Nhà nước vẫn chưa có giải pháp rõ ràng và dứt khoát có hiệu lực để hình thành nó. Đây chính là một trong những trở ngại lớn đối với sự phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta hiện nay.
Mặt thứ ba: Trong nền kinh tế thị trường, công cụ chủ yếu để Nhà nước quản lí nền kinh tế là hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật càng đầy đủ, đồng bộ bao nhiêu thì việc quản lý của Nhà nước càng chặt chẽ, thuận lợi bấy nhiêu. Trong thời gian qua Nhà nước ta cũng đã cố gắng giải quyết vấn đề này song phải nói rằng chưa làm được bao nhiêu, những luật cơ bản hầu như chưa có. Chính vì thế nên trong cách giải quýêt công việc hàng ngày các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước còn rất lúng túng trong quản lý cả tầm vi mô lẫn tầm vĩ mô, còn buông lỏng quản lí để mặc các doanh nghiệp tự do hoạt động sản xuất kinh doanh gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân.
Mặt thứ tư: Trong nền kinh tế thị trường, bắt buộc bộ máy Nhà nước phải được tổ chức gọn nhẹ nhưng hiệu quả hoạt động phải cao. Việc cải tổ bộ máy Nhà nước tháng 5- 1992 đã tạo điều kiện và đặt ra những yêu cầu mới cho việc nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Tuy nhiên trong thực tiễn công việc này còn chậm, còn nhiều vướng mắc như bộ máy Nhà nước vẫn chưa hợp lí, có nhiều cơ quan chưa rõ chức năng, nhiệm vụ, nhiều người đứng đầu chưa thực sự xứng đáng, chức năng nhiệm vụ và cách tổ chức bộ máy chính quyền ở các cấp vẫn chưa được phân định rõ ràng, luật viên chức Nhà nước chưa có, người tài chưa thực sự được quan tâm trọng dụng, tiền lương còn nhiều bất cập, tham nhũng hối lộ trở thành quốc nạn.
Những thiếu sót trên đã làm cho công việc quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế kém hiệu lực và hiệu quả thấp.
Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý của Nhà nước được tiến hành thông qua các chính sách của Nhà nước như thuế, giá cả, tiền tệ, tín dụng, lãi suất, tỉ giá hối đoái,… Những năm vừa qua Nhà nước ta cũng đã đề ra được nhiều chính sách nhằm khuyến khích sản xuất hàng hoá phát triển. Tuy nhiên còn thiếu lộ trình tổng quát để chỉ đạo quá trình đổi mới bộ máy Nhà nước, đổi mới các phương thức sử dụng các công cụ quản lý kinh tế cho phù hợp với cơ chế mới. Vì vậy để thúc đẩy nhanh việc chuyển đổi sang cơ chế mới, Nhà nước cần phải xác định lại vai trò của mình, đổi mới và hoàn thiện hệ thống công cụ quản lý kinh tế. Đó là một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của đổi mới.
3. Một số giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta hiện nay
Bài học kinh nghiệm quan trọng đầu tiên đối với nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là không phải hạ thấp mà là tăng cường hơn nữa, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước. Để tăng cường vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường cần phải hoàn thiện và đổi mới hệ thống công cụ quản lý kinh tế ở nước ta qua một số biện pháp sau:
* Về pháp luật:
- Nhà nước pháp quyền là trước hết phải thể hiện ở những bộ luật đồng bộ, đầy đủ, nhất quán và khoa học. Luật pháp đồng bộ giúp ta dễ dàng hơn trong quá trình thực hiện, giữa các điều luật có sự ăn khớp với nhau thì việc áp dụng luật cũng chính xác và thuận tiện hơn. Mặt khác, luật đồng bộ, đầy đủ và khoa học làm cho nhân dân tin tưởng vào pháp luật, có như vậy công cuộc đổi mới mới thu được hiệu quả.
- Thực hiện pháp luật phải nghiêm minh, bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn của mọi công dân trước pháp luật. Mọi công dân, mọi doanh nghiệp, cơ sở sản xuất… nhìn vào sự nghiêm minh, công bằng của pháp luật mà điều chỉnh hành vi của mình theo pháp luật. Việc thực hiện luật pháp nghiêm minh là công cụ hữu hiệu để quản lý kinh tế xã họi của Nhà nước.
- Phải có quá trình tổ chức giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện pháp luật. Để tránh được tiêu cực xã hội do khuyết tật của cơ chế thị trường gây ra thì Nhà nước phải quản lý các cá nhân, tập thể vi phạm bằng pháp luật và thường xuyên giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật của họ. Ngoài ra phải cải cách hệ thống các cơ quan tài phán để nâng cao năng lực, đặc biệt là tính công minh, liêm chính của người cầm cân nảy mực. Có thể nói độ tin cậy của các nhà đầu tư, của nhân dân và Đảng, Nhà nước được phản ánh thông qua mức tin cậy vào pháp luật. Mức độ tin cậy này góp phần quyết định sự thành công của Nhà nước trong công cuộc đổi mới.
* Kế hoạch hoá định hướng:
Kế hoạch hoá không phải là những chỉ tiêu pháp lệnh như trước đây mà chủ yếu là những thông tin, chỉ tiêu hướng dẫn để các doanh nghiệp có được cái nhìn dài hạn. Với cơ chế hiện nay, Nhà nước không còn can thiệp sâu vào hoạt động của các cơ sở sản xuất kinh doanh nhưng không có nghĩa là thả lỏng cho họ hoạt động, Nhà nước cần có công cụ kế hoạch hoá định hướng để hướng dẫn tầm xa. Và nếu như chỉ dựa vào sự điều chỉnh của thị trường mà không có kế hoạch định hướng phát triển trung hạn và dài hạn thì sẽ không đạt được kết quả lâu dài. Mặt khác, kế hoạch định hướng còn có tác dụng như một diễn đàn hoà hợp cá lợi ích kinh tế của các tầng lớp, các giai cấp khác nhau và tạo ra một sự nhất trí trong nhân dân.
* Chính sách tài chính:
Nhanh chóng hoàn thiện chính sách thuế khoá. Chính sách thuế khoá phải thực sự phù hợp, công bằng. Phải có sự phân bố gánh nặng thuế giữa các tầng lớp dân cư. Thực hiện thuế luỹ tiến đối với những nhóm dân cư có thu nhập cao để điều chỉnh mức thu nhập, tránh sự phân hoá giàu nghèo. Để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua ngân sách. Nhà nước phải xác định được trạng thái của nền kinh tế hiện đại, mức sản xuất thực tế so với tiềm năng và mức tối đa. Thông qua chính sách chỉ tiêu mà Nhà nước có thể khuyến khích phát triển giáo dục và công nghệ, thúc đẩy các doanh nghiệp, nhà sản xuất sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ cần thiết cho xã hội và cho xuất khẩu. Chỉ cần xem cách điều hành của Nhà nước về các khoản đầu tư và cho vay vào các lĩnh vực nhất định ta sẽ thấy ngay chính sách tài chính của Nhà nước tác động vào nền kinh tế mạnh đến mức độ nào.
* Chính sách tiền tệ:
Tiền tệ có tác dụng mạnh vào nền kinh tế cho nên cần phải có những chính sách đúng đắn về mặt tiền tệ. Mức cung tiền là một công cụ quan trọng hữu hiệu. Mức cung tiền tệ tác động đến lãi suất cùng khối lượng và điều kiện tín dụng. Chính lãi suất tín dụng và giảm mức độ cung tiền có thể chặn đứng được lạm phát trong một thời kỳ dài làm cơ sở để phục hồi và phát triển sản xuất. Bởi vậy cần có hệ thống lãi suất hợp lý, tạo điều kiện tập trung nguồn vốn từ dân, bình ổn giá cả, kiểm soát phần nào quá trình luân chuyển vốn.
* Dự trữ quốc gia:
Dự trữ quốc gia cũng vô cùng cần thiết. Dự trữ quốc gia và trợ giá có tính chất hỗ trợ cho nhau nhằm tạo sự ổn định của quan hệ cung cầu trên thị trường. Quan hệ cung cầu không phải lúc nào cũng cân bằng, khi cung lớn hơn cầu thì sử dụng trợ giá, còn dự trữ là để đề phòng khi xuất hiện cung nhỏ hơn cầu. Gặp phải thời điểm cung nhỏ hơn cầu, Nhà nước cần kịp thời tung ra thị trường mặt hàng dự trữ để định lại thị trường. Dự trữ quốc gia để phòng những lúc thiên tai mất mùa, những lúc có biến cố xảy ra… Trong cơ chế mới hiện nay, Nhà nước phải liên tục duy trì nguồn dự trữ quốc gia để đáp ứng ngay khi cần thiết, có như vậy mới quản lý nền kinh tế hiệu quả.
* Sự đổi mới của bộ máy Nhà nước:
Bộ máy quản lý kinh tế được cải cách. Vai trò lập pháp, kiểm soát, giám sát của quốc hội được tăng cường. Phương thức điều khiển nền kinh tế được từng bước chuyển từ trực tiếp sang gián tiếp. Năng lực nghiệp vụ cán bộ được nâng cao, người có đức có tài được trọng dụng, từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ và trân trọng phát huy kiến thức kinh nghiệp ở cán bộ tuổi cao.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN do dân, vì dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước phải kiên quyết đấu tranh chống quan liêu cửa quyền, chống tham ô lãng phí, đặc quyền, đặc lợi, lập lại kỷ cương, chống biểu hiện cực đoan, xây dựng hệ thống luật pháp đồng bộ.
KẾT LUẬN
Nhà nước ra đời và phát triển qua nhiều thời đại lịch sử, song song với nó là sự xuất hiện vai trò Nhà nước nói chung và vai trò kinh tế của Nhà nước nói riêng. Vai trò kinh tế của Nhà nước được thể hiện ở việc Nhà nước sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô để điều tiết nền kinh tế.
Ở Việt Nam từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế nước ta tương đối ổn định và phát triển, đời sống người dân được nâng cao, bộ mặt xã hội có sự đổi mới rõ rệt. Đảng ta không chủ trương chuyển sang một nền kinh tế thị trường tự do mà có sự định hướng XHCN. Tính định hướng của nền kinh tế đất nước đòi hỏi phải kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Chúng ta có thành công với cơ chế quản lý kinh tế mới hay không, điều đó tuỳ thuộc chủ yếu vào vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước. Đất nước ta với một nền kinh tế còn phân tán mạnh, cán bộ quản lý còn chưa có kinh nghiệm thì vai trò quản lý của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước đóng vai trò là kim chỉ nam cho thị trường phát triển đúng hướng, phát triển theo đúng quỹ đạo đã vạch ra. Nhà nước kích thích thúc đẩy phát triển các mặt tích cực đồng thời khắc phục, hạn chế các khuyết tật của cơ chế mới.
Chúng ta hy vọng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành quả hơn trong tương lai, những gì đã đạt được thì tiếp tục phát triển lên, những gì chưa đạt được thì cố gắng vươn tới, những gì còn thiếu xót thì nhanh chóng khắc phụ và Việt Nam trong tương lai không xa sẽ bắt kịp sự phát triển của toàn thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28298.doc