Tiểu luận Một số hoạt động truyền thông của ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam

Trong bối cảnh đất nước hội nhập vào những năm 90 của thế kỷ trước, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã nhanh chóng xác định việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ là chiến lược trọng tâm, có ý nghĩa sống còn trong cạnh tranh. Một trong các hoạt động có sự phát triển đầy dấu ấn, minh chứng cho tính đúng đắn của chiến lược nói trên là những thành tựu trong mảng dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Bên cạnh dịch vụ bán buôn vốn có uy tín quốc tế dành cho các tổ chức kinh tế (corporate banking), Vietcombank hiện được biết tới như một địa chỉ tin cậy của các dịch vụ đa dạng và hiện đại dành cho khách hàng cá nhân (dịch vụ ngân hàng bán lẻ - retail banking) như các sản phẩm cho vay linh hoạt, thẻ thanh toán, hệ thống máy rút tiền tự động ATM, các sản phẩm huy động vốn đa dạng, các dịch vụ ngân hàng trực tuyến, dịch vụ chuyển tiền kiều hối. Đối với nhóm các sản phẩm bán lẻ truyền thống, nét điển hình của Vietcombank được thể hiện ở sự chú trọng tới việc gia tăng các tiện ích cho khách hàng và phân đoạn khách hàng nhằm thiết kế những sản phẩm phù hợp. Ở mảng tiền gửi, các chương trình huy động tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi có thưởng, hoặc các cách tính lãi suất linh hoạt (lãi suất bậc thang, lĩnh lãi định kỳ) được thiết kế cho phép khách hàng lựa chọn phù hợp với nhu cầu, tạo sức hấp dẫn với các sản phẩm truyền thống. Vietcombank là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam cho phép khách hàng hàng có thể gửi tiền ở một nơi và thực hiện rút tiền ở bất kỳ điểm giao dịch nào thuộc hệ thống trên toàn quốc. Từ những hoạt động cho vay cá nhân nhỏ lẻ ban đầu, trải qua thời gian, các sản phẩm tiền vay từng bước được chuẩn hoá thành nhóm sản phẩm cho từng phân đoạn khách hàng cụ thể như "Cho vay Cán bộ quản lý điều hành", "Cho vay cán bộ công nhân viên", "Cho vay mua nhà Dự án", "Cho vay mua ô tô", “Cho vay du học” và trong tương lai gần là các sản phẩm "Cho vay đối với hộ gia đình" v.v. Bằng việc sớm thiết lập quan hệ đại lý với hơn 1.000 ngân hàng trên thế giới, xử lý tự động lệnh Swift và ký hợp đồng với những tổ chức chuyển tiền nhanh quốc tế (như MoneyGram), Vietcombank luôn dẫn đầu thị trường về doanh số kiều hối trong hàng chục năm. Bên cạnh đó, công tác phân đoạn thị trường đã và đang được xúc tiến mạnh mẽ dựa trên việc nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thị trường một cách sâu sắc với mục tiêu tạo ra các sản phẩm đặc trưng cho từng đối tượng khách hàng. Vietcombank là ngân hàng đầu tiên cung cấp dịch vụ đặc biệt cho nhóm khách hàng VIP với những tiêu chuẩn riêng về chế độ phục vụ, hàng loạt các ưu đãi khi giao dịch và những sản phẩm được thiết kế phù hợp. Các sản phẩm cho vay cán bộ công nhân viên cũng được thiết kế chi tiết đến từng phân đoạn nhỏ theo nơi công tác, vị trí công tác, thu nhập hàng năm. Với sự phân đoạn thị trường phù hợp, các sản phẩm vay vốn đó đã tiếp cận được với thị trường, đáp ứng nhu cầu của từng nhóm khách hàng cũng như bảo đảm quản trị rủi ro một cách hiệu quả. Ngoài các sản phẩm, dịch vụ truyền thống được cải tiến, với nền tảng "VCB Online", nhiều sản phẩm/dịch vụ ngân hàng bán lẻ mới liên tiếp ra đời góp phần khẳng định ví trí của Vietcombank. Trong đó, không thể không kể tới sự phát triển ngoạn mục các dịch vụ thẻ được thị trường Việt Nam nồng nhiệt đón nhận. Năm 2002, hệ thống máy ATM và chiếc thẻ ghi nợ nội địa đầu tiên của Việt Nam mang thương hiệu Vietcombank Connect 24 được phát triển tại Vietcombank.

doc36 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2016 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số hoạt động truyền thông của ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệu quả của quảng cáo. Hầu hết các cách đo lường hiệu quả hoạt động của hoạt động quảng cáo đều mang tính ứng dụng, đề cập tới những chiến dịch quảng cáo cụ thể. Đánh giá hiệu quả của hoạt động quảng cáo là rất cần thiết nhưng cũng rất khó khăn. Trước hết người quảng cáo phải dựa vào doanh số bán để đánh giá hiệu quả của quảng cáo và hiệu quả của hoạt động truyền thông quảng cáo 1.5.1. Nghiên cứu hiệu quả tiêu thụ: Hiệu quả đo lường của quảng cáo thường rất khó đo lường được ảnh hưởng của nó. Ngoài quảng cáo ra mức tiêu thụ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như tính chất của sản phẩm, giá cả của sản phẩm, kênh phân phối và các hoạt động của đối thủ cạnh tranh. Những yếu tố khác này ít nhiều đều có thể kiểm soát được và rễ nhất là đo tác động của quảng cáo tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Các nhà quảng cáo cố gắng đo lường tác động của quảng cáo đến kết quả tiêu thụ bằng các phương pháp nghiên cứu số liệu lịch sử và phương pháp thử nghiệm. Phương pháp lịch sử đòi hỏi phải tìm mối tương quan giữa mức tiêu thụ trong quá khứ và chi phí quảng cáo trong quá khứ theo phương pháp đồng thời hay chỉ bằng những phương pháp thống kê tiến lên . Một số sử dụng phương pháp đánh giá hiệu quả bằng cách so sánh giữa mức khối lương bán gia tăng với chi phí quảng cáo trong thời kỳ đã qua. Hoặc có thể sử dụng phương pháp thiết kế thí nghiệm để đo lương tác động hiệu quả của quảng cáo tới mức bán. 1.5.2. Nghiên cứu hiệu quả của hoạt động truyền thông Nhằm xác định xem một quảng cáo truyền thông có hiệu quả hay không, việc thử nghiệm bài viết có thể tiến hành trước khi đăng tải trên các phương tiện truyền thông và sau khi đã đăng tải trên các phương tiện báo chí trên hệ thống truyền thanh. Có ba phương pháp chủ yếu để thử nghiệm trước quảng cáo. Thứ nhất là phương pháp đánh giá trực tiếp, tức là đề nghị người tiêu dùng đánh giá các phương án khác nhau. Các kết quả đánh giá này được sử dụng để đánh giá kết quả chú ý, đọc hết, nhận thức, tác động và dẫn tới hành động của quảng cáo. Mặc dù phương pháp định lượng của quảng cáo chưa hoàn hảo, số điểm đánh giá cao hơn vẫn cho biết hiệu quả cao hơn. Thứ hai là phương pháp thử nghiệm tập quảng cáo yêu cầu người tiêu dùng nghe và xem một loạt quảng cáo trong một thời gian mà họ cảm thấy cần thiết. Sau đó đề nghị họ nhớ lại tất cả các quảng cáo đó và nội dung của chúng có hay không có sự hỗ trợ của người phỏng vấn. Mức độ ghi nhớ của họ cho thấy khả năng của một quảng cáo được chú ý đến và thông điệp có dễ hiểu dễ nhớ. Thứ ba là phương pháp thử nghiệm trong phòng thí nghiệm sử dụng các thiết bị để đo các phản ứng tâm lý của người tiêu dùng đối với quảng cáo. Nhưng cách trắc nghiệm này cho biết khả năng thu hút sự chú ý của các quảng cáo, nhưng không cho biết gì về sự tác động của nó lên niềm tin, thái dộ hay ý định quảng cáo. 2. Xúc tiến bán ( kích thích tiêu thụ, khuyến mãi) Xúc tiến bán là nhóm công cụ truyền thông sử dụng hỗn hợp các công cụ cổ động, kích thích khách hàng nhằm tăng nhanh nhu cầu sản phẩm tại chỗ tức thì. Xúc tiến bán hàng còn gọi là khuyến mại có tác dụng trực tiếp và tích cực tới việc tăng doanh số bằng những lợi ích bổ sung cho người mua. Thực chất đây là công cụ kích thích để thúc đẩy các khâu : cung ứng, phân phối và tiêu dùng đối với một hoặc một nhóm các sản phẩm của doanh nghiệp. 2.1 Xác định nhiệm vụ của xúc tiến bán hàng. Việc xác định nhiệm vụ của xúc tiến bán hàng xuất phát từ mục tiêu chiến lược marketing của doanh nghiệp đối với sản phẩm hàng hoá ở thị trường mục tiêu. Đối với người tiêu dùng : thì khuyến khích họ tiêu dùng nhiều hơn, tạo nên một số người tiêu dùng thử trong số những người chưa sử dụng, lôi kéo những người tiêu dùng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Đối với các thành viên trung gian : khuyến khích các thành viên trung gian tăng cường các hoạt động phân phối nhiều hơn, đẩy mạnh các hoạt động mua bán, củng cố và mở rộng kênh phân phối, thực hiện dự trữ hàng hoá trên thị trường, phân phối thường xuyên liên tục, nhằm mở rộng mùa tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của công ty. 2.2 Lựa chọn các phương tiện xúc tiến bán. Để hoàn thành mục tiêu này có rất nhiều các công cụ kích thích khác nhau. Có thể phân chia các công cụ xúc tiến bán thành các nhóm sau : -Nhóm công cụ tạo nên lợi ích kinh tế trực tiếp thúc đẩy tiêu dùng bao gồm : hàng mẫu, phiếu tặng, hàng chung, quà tặng... Hàng mẫu có chức năng khuyến khích dùng thử. Hàng mẫu có thể phân phối tại cửa hàng hoặc gửi đến tận nhà qua đường bưu điện hay qua đội ngũ nhân viên tiếp thị. Phiếu thưởng là giấy chứng nhận cho khách hàng được giảm một khoản tiền nhất định khi mua một khối lượng hàng hóa nhất định của doanh nghiệp. Gói hàng chung : là gói hàng doanh nghiệp giới thiệu một số hàng hoá song bán với giá hạ. Quà tặng : là hàng được cho không hoặc bán với giá hạ. Quà tặng thường được phân phối với việc mua hàng . - Nhóm công cụ thúc đẩy hoạt động của các trung gian trong kênh phân phối. Các nhà sản xuất dùng kỹ thuật nhằm tăng cường sự hợp tác, đẩy mạnh sự tiêu thụ của các nhà phân phối như bán buôn, bán lẻ, các đại lý ...các kỹ thuật thông dụng là : Tài trợ về tài chính khi mua hàng là khoản tiền được giảm khi mua hàng của doanh nghiệp trong khoảng thời gian nào đó. Tài trợ quảng cáo, các nhà quảng cáo được tài trợ để khuyến khích họ giới thiệu sản phẩm của công ty. Hàng miễm phí là những lô hàng được tặng thêm cho các nhà đại lý khi họ mua hàng tới một mức nào đó. Cũng có thể dùng tiền mặt thay cho qùa tặng đối với nhà phân phối hoặc tặng cho lực lượng bán hàng của doanh nghiệp để họ đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của công ty. - Hội nghị khách hàng, hội chợ và triển lãm thương mại Các doanh nghiệp thường tổ chức khách hàng để giúp cho doanh nghiệp tiếp cận khách hàng, tìm hiểu cặn kẽ hơn nhu cầu của họ đồng thời thu nhận thông tin phản hồi. Hội chợ triển lãm nhằm giới thiệu sản phẩm, giới thiệu doanh nghiệp với khách hàng. Duy trì sự có mặt, uy tín của doanh nghiệp cũng như sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường tạo lòng tin cho khách hàng và công chúng . - Trưng bầy sản phẩm tại nơi bán, sử dụng các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm. - Các cuộc thi và trò chơi : Những hoạt động này tạo cơ hội cho khách hàng, các nhà phân phối, hoặc lực lượng bán nhận được một khoản lợi ích vật chất. Sự may rủi của các trò chơi nhằm tăng thêm sự hấp dẫn và thu hút sự hưởng ứng của nhiều người. 2.3 Soạn thoả thí điểm và triển khai chương trình xúc tiến bán Để thực hiện tốt hoạt động xúc tiến bán cần phải có chương trình phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của công ty. Muốn vậy phải giải quyết các vấn đề sau : - Cường độ kích thích : cần phải kích thích đến mức độ nào. Để đảm bảo thắng lợi cần phải có một mức độ tối thiểu. Cường độ kích thích tỷ lệ nghịch với nhịp độ tiêu dùng, vì vậy, nhu cầu càng giảm nhiều càng phải kích thích mạnh. Tuỳ theo từng công ty đối với từng mặt hàng cụ thể trong thời gian và địa điểm thị trường cụ thể mà có mức độ kích thích phù hợp. - Đối tượng tham gia. Cần có quy định cụ thể những đối tượng tham gia chương trình xúc tiến bán của công ty. Tất cả mọi người tham gia hay chỉ một nhóm nào đó. - Phương tiện phổ biến tài liệu. Các phương tiện xúc tiến như phiếu thưởng, quà tặng, gói hàng hạ giá, các cuộc thi..., được sử dụng như thế nào ? Cần quyết định về phương thức phân phát vì chúng sẽ có mức độ bao quát, yêu cầu chi phí và cường độ tác động khác nhau. - Thời gian kéo dài chương trình. Nếu thời gian khuyến khích quá ngắn, nhiều người tiêu dùng không có cơ hội thu được lợi ích do chương trình mang lại. Ngược lại nếu kéo quá dài thì tác dụng thôi thúc mua cũng bị suy giảm đi rất nhiều. Do đó cần tuỳ theo điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp thực hiện trong một khoảng thời gian hợp lý. - Lựa chọn thời gian để thực hiện chương trình xúc tiến bán. Thời điểm cụ thể cho các đợt khuyến mãi phụ thuộc và đặc điểm sản phẩm và đặc điểm thị trường. - Xác định ngân sách xúc tiến bán. Ngân sách kích thích có thể được xác định theo hai cách . Nó có thể được xây dựng từ dưới lên, nghĩa là người làm marketing lựa chọn từng biện pháp khuyến mãi rồi ước tính tổng chi phí của chúng cách thông dụng hơn là xây dựng ngân sách kích thích tiêu thụ theo tỷ lệ % thông thường của tổng ngân sách khuyến mãi, tỷ lệ % này thay đổi tuỳ theo thị trường, theo chu kỳ sống của sản phẩm và theo chi phí khuyến mãi của đối thủ cạnh tranh. Sau khi đã soạn thảo chương trình xúc tiến bán cần được thí điểm tính thích hợp. Khi đã chắc chắn chương trình đó mới được đưa vào thực hiện. 2.4 Đánh giá kết quả của chương trình xúc tiến bán Hiệu quả của chương trình xúc tiến bán được đánh giá dựa trên kết quả làm tăng doanh số. Phương thức phổ biến nhất là xem xét kỹ những số liệu trước, trong và sau khi áp dụng biện pháp khuyến mãi. Chẳng hạn, trước khi thực hiện công ty chiếm thị phần là 6% trong thời gian áp dụng biện pháp khuyến mãi nó tăng vọt lên 10% và giảm ngay xuống 5 % sau thời gian khuyến mái rồi tăng dần lên 8% thời kỳ sau khuyến mãi. Như vậy, rõ ràng thấy được tác dụng của xúc tiến bán. Việc khuyến mãi đã thu hút được những người dùng thử mới và cũng kích các khách hàng hiện có mua nhiều hơn. Do hoạt động khuyến khích bán mà trong thời gian thực hiện thị phần tăng lên 10% và sau khi kết thúc tỷ phần là 8% chứng tỏ nhiều khách hàng mới đã tin tưởng và tiêu dùng hàng hoá của công ty. Tóm lại kích thích tiêu thụ vẫn tiếp tục đóng một vai trò ngày càng to lớn trong toàn bộ hệ thống khuyến mãi. Để sử dụng có hiệu qủa kích thích tiêu thụ cần phảỉ xác định rõ mục tiêu lựa chọn những công cụ thích hợp, xây dựng chương trình khuyến mãi, thử nghiệm trước nó, thực hiện và đánh giá kết quả thu được. 3. Quan hệ cộng đồng Quan hệ cộng đồng(PR) là một công cụ marketing quan trọng. Cộng ty không chỉ có quan hệ tốt với khách hàng và người cung ứng và các đại lý của mình mà phải có các mối quan hệ với đông đảo công chúng có quan tâm. Công chúng được định nghĩa là mọi nhóm người có quan tâm hay ảnh hưởng thực tế hay tiềm ẩn đến khả năng công ty đạt được những mục tiêu của mình. Công chúng có thể tạo thuận lợi hay gây trở ngại cho công ty đạt được những mục tiêu của mình. Một công ty khôn ngoan phải có những biện pháp cụ thể để giải quyết tốt các quan hệ với công chúng then chốt. Quan hệ công chúng là để theo dõi thái độ của công chúng thuộc các tổ chức phân phối thông tin và giao tiếp để tạo dựng uy tín. Khi xảy ra các dư luận xấu phải đứng ra dàn xếp tạo ra dư luận xã hội tốt về các tin đồn và hình ảnh bất lợi đó. Các hoạt động chủ yếu của quan hệ cộng đồng + Quan hệ với báo chí : nhằm đăng tải các thông tin có giá trị trên các phương tiện truyền thông đại chúng để thu hút sự chú ý đến một con người, sản phẩm, dich vụ hay một tổ chức. + Tuyên truyền sản phẩm : là những nỗ lực khác nhau nhằm công bố về những sản phẩm cụ thể. + Truyền thông của công ty : hoạt động này bao gồm truyền thông đối nội và đối ngoại nhằm làm cho mọi người hiểu sâu hơn về công ty. + Vận động hành lang : là việc làm việc với các nhà lập pháp và các quan chức trong chính phủ để cổ động ủng hộ hay huỷ bỏ một đạo luật hay một quy định nào đó. + Tham mưu là đề xuất với bán lãnh đạo những kiến nghị về các vấn đề có liên quan đến công chúng và về vị trí hình ảnh của công ty. 3.1 Những quyết định chủ yếu trong marketing quan hệ với công chúng 3.1.1 Xác định mục tiêu MPR Mục tiêu marketing quan hệ với công chúng cũng xuất phát từ mục tiêu marketing của công ty. Nhìn chung MPR đóng góp vào các mục tiêu sau : + Tạo ra sự biết đến : PR có thể đăng tải tư liệu trên các phương tiện truyền thông để thu hút sự chú ý đến sản phẩm, dịch vụ, con người, tổ chức hay ý tưởng. + Tạo dựng tín nhiệm. + Kích thích lực lượng bán hàng và đại lý. + Giảm bớt chi phí khuyến mãi. 3.1.2. Lựa chọn thông điệp và phương tiện quan hệ với công chúng. Thông điệp trong quan hệ cộng đồng thường là những câu chuyện lý thú, các bài viết hay về sản phẩm hoặc doanh nghiệp. Đây là một nghệ thuật sáng tạo, ở đây người tuyên truyền đang tạo tin tức chứ không còn tìm tin tức nữa, mỗi sự kiện là cơ hội tạo ra vô số câu chuyện hướng tới nhiều nhóm công chúng. Các công cụ trong quan hệ với công chúng thường là các xuất bản phẩm, các sự kiện, bài nói chuyện, hoạt động công ích... 3.1.3. Thực hiện kế hoạch MPR Việc triển khai công tác tuyên truyền đòi hỏi phải quan tâm đặc biệt công ty cần có kế hoạch chi tiết và cụ thể trong việc sáng tạo và lựa chọn các thông điệp từ lực lượng biên tập trong hoặc ngoài công ty, lựa chọn phương tiện truyền tin. Vấn đề quan trọng là khai thác được quan hệ cá nhân với những người biên tập ở các phương tiện truyền tin để đảm bảo được đăng tải. 3.1.4. Đánh giá kết quả MPR: Cũng giống như quảng cáo, đánh giá kết quả của hoạt động PR là rất khó vì những tác động của nó không trực tiếp và không dễ nhận biết. Có một số phương pháp đánh giá có thể áp dụng. + Đo lường số lần thông tin suất hiện trên phương tiện thông tin đại chúng. + Đo lường sự thay đổi thái độ của khách hàng với sản phẩm. + Đo lường sự thay đổi doanh số và lợi nhuận người ta so sánh chỉ tiêu doanh số trước và sau chiến dịch, nếu chiến dịch có hiệu quả sẽ làm doanh số tăng lên sau chiến dịch. 4. Bán hàng trực tiếp. Không giống như quảng cáo hay xúc tiến bán, bán hàng cá nhân bao gồm những mối quan hệ trực tiếp giữa người bán và các khách hàng hiện tại và tiềm năng. Nó là một loại ảnh hưởng cá nhân và là một quá trình giao tiếp phức tạp. Tầm quan trọng của hoạt động bán hàng trực tiếp phụ thuộc vào bản chất sản phẩm, nhu cầu của người tiêu dùng và giai đoạn trong quá trình mua. Tham gia vào hoạt động bán hàng gồm rất nhiều người trong doanh nghiệp như người nhận đơn đặt hàng, người bán trực tiếp... lực lượng bán hàng này cần được tổ chức và quản lý một cách khoa học. 4.1. Quá trình bán hàng Công ty thường đặt các mục tiêu khác nhau cho người bán hàng của họ. Những nhiệm vụ chủ yếu của người bán hàng là: + Thăm dò tìm kiếm những khách hàng mới + Cung cấp các dịch vụ cho khách hàng, tư vấn về các vấn đề của họ, trợ giúp kỹ thuật, giao hàng. + Nghiên cứu và thu thập những thông tin về thị trường. + Đánh giá tính chất khách hàng và điều phối hàng hoá Bán hàng trực tiếp là một nghệ thuật hơn là khoa học. Bởi vì quá trình bán hàng phải rất sáng tạo, với điều kiện như nhau, một người bán được đào tạo có thể bán được nhiều hơn một người bán không được đào tạo. người bán phải hiểu rõ quá trình bán hàng. Tất nhiên quá trình bán hàng sẽ khác theo quy mô của công ty, đặc điểm của sản phẩm, đăc điểm của thị trường và nhiều thứ khác. Về cơ bản quá trình bán hàng gồm các bước sau: + Thăm dò và đánh giá. Bước đầu tiên trong quy trình bán hàng là xác định khách hàng tiềm năng. Mặc dù công ty cung cấp những thông tin song người bán cần phải tiếp xúc với nhiều khách hàng, phát riển những mối quan hệ riêng của mình duy trì và khai thác tốt các mối quan hệ đó . + Tiền tiếp xúc. Người bán hàng cần biết về công ty, khách hàng tiềm năng và những người mua của doanh nghiệp càng chi tiết cụ thể càng tốt. Có thể suy nghĩ về cách thức tiếp cận nào là tốt nhất như thăm viếng trực tiếp, điên thoại hoặc thư từ và phác thảo mục tiêu bán hàng của mình. + Tiếp xúc. Nhân viên bán hàng phải biết cách tiếp xúc chào mời người mua để có mối liên hệ tốt ban đầu. Trong tiếp xúc, ngoại hình và trang phục phù hợp cùng với những câu hỏi then chốt và chú ý lắng nghe là rất quan trọng. Người bán cần phải phân tích để hiểu nhu cầu của người mua. + Giới thiệu và chứng minh. Nhân viên bán hàng trình bầy sản phẩm với người mua tuân theo quy luật nhận thức của truyền thông nhằm đạt được sự chú ý, duy trì sự quan tâm, khuyến khích sự ham muốn và nhận được hành động. Có nhiều kiểu giới thiệu khi bán hàng như trình bầy theo khuân mẫu, theo công thức, theo kiểu thoả mãn nhu cầu. + Xử lý những từ chối. Khách hàng hầu như luôn từ chối, sự từ chối đó phần lớn mang tính chất tâm lý do khách hàng không ưa bị quấy rầy, ưa thích nhãn hiệu hoặc nguồn cung cấp quen thuộc, không muốn từ bỏ sự ưa thích của mình, không thích phải quyết định... ngoài ra còn có sự chống đối lôgic như phải phản ứng về gía cả, thời điểm giao hàng hoặc đặc tính nào đó của sản phẩm. Để hiểu rõ nội dung phản kháng, có thể nêu câu hỏi để chính người mua trả lời về sự phản kháng của họ và biến nó thành một trong những nguyên nhân của việc mua hàng. + Theo dõi. Đây là bước cuối cùng song rất quan trọng nhằm kiểm tra đánh giá sự hài lòng của khách hàng và khả năng mua hàng lặp lại của họ. Ngay sau khi kết thúc bán, nhân viên bán hàng phải khéo léo bổ sung những thông tin cần thiết và mới cho khách hàng như : về thời gian, các điều khoản mua... nhân viên bán hàng phải có thời gian biểu theo dõi khi có đơn hàng đầu tiên và quan tâm đến việc vận hành có thông suốt hay còn trục trặc. Các cuộc thăm viếng sẽ tăng cường mối quan hệ, hạn chế rủi ro sử dụng của khách hàng và duy trì sức mua tiềm năng. 4.2. Quản trị bán hàng Quản trị bán hàng là quá trình phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra những hoạt động bán hàng. Nó bao gồm việc thiết lập các mục tiêu cho nhân viên bán hàng, thiết kế chiến lược cho lực lượng bán, tuyến mộ, lựa chọn, huấn luyện, giám sát và đánh giá những người bán của doanh nghiệp. Chiến lược cho lực lượng bán hàng thường được xác lập theo những định hướng khác nhau như bán hàng theo nhóm người mua, theo hội nghị khách hàng, theo tiếp xúc cá nhân... cấu trúc lực lượng bán hàng liên quan đến việc tổ chức lực lượng bán hàng theo lãnh thổ, theo sản phẩm, theo đối tượng khách hàng hay theo cấu trúc hỗn hợp. Quy mô của lực lượng bán thường được xác định dựa trên khối lượng công việc bán cần làm. Doanh nghiệp phải đưa ra các quyết định về tuyển chọn, và đào tạo lực lượng bán. Mỗi công ty thường đưa ra hệ thống tiêu chuẩn riêng để tuyển chọn. Họ cũng thường có những chương trình đào tạo cẩn thận những nhân viên bán hàng của họ. Quá trình quản trị bán còn quan tâm đến giám sát hoạt động của nhân viên bán hàng. Đưa ra các biện pháp khuyến khích họ tích cực hoạt động bằng chế độ trả thù lao và tiền thưởng. Người quản trị cũng thường xuyên đánh gía hoạt động của nhân viên bán hàng của mình để có những điều chỉnh phù hợp. 5. Marketing trực tiếp 5.1 Bản chất marketing trực tiếp Hầu hết các công ty đều dựa chủ yếu vào quảng cáo, kích thích tiêu thụ và bán hàng trực tiếp để đẩy mạnh tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ của mình. Họ sử dụng quảng cáo để tạo ra sự biết đến và quan tâm, kích thích tiêu thụ để khuyến khích mua hàng, và bán hàng trực tiếp để hoàn tất việc bán hàng. Marketing trực tiếp cố gắng kết hợp ba yếu tố trên để đi đến chỗ bán hàng trực tiếp không qua trung gian. Nó là hệ thống tương tác của marketing có sử dụng một hay nhiều phương tiện quảng cáo để tác động đến một phản ứng đáp lại của khách hàng hay một giao dịch tại bất kỳ một địa điểm nào. Ngày nay marketing trực tiếp đóng vai trò quan trọng và ngày càng lớn hơn trong các công cụ xúc tiến. Những người làm marketing trực tiếp này sử dụng các phương tiện quảng cáo trả lời trực tiếp để bán hàng và tìm hiểu về một khách hàng có tên và có chuyên môn đã được nhập vào cơ sở dữ liệu khách hàng nhằm thiết lập mối quan hệ thường xuyên và ngày càng phong phú hơn. Họ chào hàng cho những khách hàng cũ và những khách hàng có triển vọng và có nhiều khả năng nhất, mong muốn và sẵn sàng mua sản phẩm hay dịch vụ đó. Nếu thành công, thì họ sẽ tranh thủ được mức độ hưởng ứng cao hơn nhiều đối với các biện pháp khuyến mãi của mình. Những công cụ chủ yếu của marketing trực tiếp là : - Marketing bằng catalog. Doanh nghiệp gửi các catalog tới khách hàng tiềm năng qua đường bưu điện, dựa trên các catalog này, khách hàng sẽ đặt hàng cũng qua đương bưu điện này. - Marketing bằng thư trực tiếp. Công ty gửi qua bưu điện những thư chào hàng, tờ quảng cáo, tờ gấp và các hình thức chào hàng khác cho khách hàng qua đó hy vọng bán được sản phẩm hay dịch vụ, thu thập hay tuyển chọn được danh sách khách hàng cho lực lượng bán hàng, thông báo thông tin hay gửi quà tặng để cảm ơn khách hàng. - Marketing qua điện thoại. Công ty sử dụng điện thoại để chào hàng trực tiếp đến các khách hàng chọn lọc. Công ty cũng vó thể đặt một số điện thoại miễn phí để khách hàng đặt mua hàng mà họ biết qua quảng cáo trên truyền hình, truyền thanh, gửi thư trực tiếp, catalog hay khiếu nại và góp ý với doanh nghiệp. - Marketing trực tiếp trên truyền hình. Truyền hình được sử dụng theo hai cách để bán sản phẩm trực tiếp cho người tiêu dùng. Cách thứ nhất là phát các chương trình giới thiệu sản phẩm và cho khách hàng số điện thoại miễn phí để đặt hàng. Cách thứ hai, sử dụng toàn bộ chương trình cho bán sản phẩm và dịch vụ. - Marketing đáp ứng trực tiếp trên truyền thanh, tạp chí và báo. Các tạp chí, báo và hệ thống truyền thành cũng được sử dụng để chào hàng trực tiếp cho khách hàng. Những người nghe hay đọc về một mặt hàng nào đó sẽ quay số điện thoại miễn phí để mua hàng. - Mua hàng điện tử ( computer marketing ). Khách hàng mua hàng qua máy tính nối mạng, đặt hàng, thanh toán trực tiếp qua mạng internet. Marketing trực tiếp đã và đang được các nhà sản xuất và bán lẻ, doanh nghiệp dịch vụ, các tổ chức phi lợi nhuận sử dụng. Nó cũng phát triển trong thị trường yếu tố sản xuất. Marketing trực tiếp mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng như lựa chọn và đặt hàng thuận tiện, tiết kiệm thời gian. Đối với người bán marketing trực tiếp cho phép chọn lọc khách hàng triển vọng kỹ hơn, xác định thời gian tiếp cận chính xác hơn, giữ được bí mật cho hoạt động marketing trước các đối thủ cạnh tranh. 5.2. Những quyết định chủ yếu trong marketing trực tiếp Khi chuẩn bị một chiến dịch marketing trực tiếp người làm marketing phải quyết định mục tiêu, đối tượng chiến dịch chào hàng, các thử nghiệm khác nhau và lượng định mức độ thành công của chiến dịch. Sau đây là một số quyết định quan trọng. 5.2.1. Xác định mục tiêu. Mục tiêu của marketing trực tiếp là làm cho khách hàng tiềm năng mua hàng ngay lập tức qua mức độ phản ứng đáp lại. Chiến lược marketing trực tiếp cũng còn có mục tiêu khác là lập được danh sách khách hàng triển vọng cho lực lượng bán hàng, cung cấp thông tin để củng cố hình ảnh của nhãn hiệu và uy tín của công ty. Người làm marketing trực tiếp phải xác định rõ ràng các mục tiêu của chiến dịch. 5.2.2. Xác định khách hàng mục tiêu. Người làm marketing phải xác định ra những đặc điểm cầu khách hàng hiện có và khách hàng triển vọng có nhiều khả năng nhất, mong muốn thiết tha và sẵn sàng mua. Công ty phải xác định và phát hiện các khách hàng mục tiêu thông qua việc sử dụng tiêu chuẩn phân khúc thị trường. Có thể xác định những khách hàng triển vọng tốt căn cứ vào những biến như tuổi tác, giới tính, thu nhập, trình độ học vấn, những hàng đặt mua qua bưu điện trước đây... . Sau khi xác định xong những khách hàng mục tiêu người làm marketing trực tiếp cần có được tên tuổi của những khách hàng có triển vọng nhất trên thị trường mục tiêu đó để làm cơ sở cho chiến lược chào hàng. - Lựa chọn chiến lược chào hàng. Những người làm marketing trực tiếp phải xác định xác định chiến lược chào hàng qua việc phối hợp năm yêú tố : sản phẩm, chào hàng, phương tiện truyền thông, phương pháp phân phối và chiến lược sáng tạo. Tuỳ theo từng công cụ marketing trực tiếp được sử dụng mà họ lựa chọn và phối hợp các yếu tố nàyvới nhau một cách hợp lý để tăng khả năng tác động tới khách hàng. Mỗi phương tiện truyền thông đều có những quy tắc riêng để đảm bảo sử dụng có hiệu quả. Bao gói sản phẩm hấp dẫn sẽ làm tăng sức dẫn của chào hàng trực tiếp qua catalog và tivi. Thư chào hàng hoặc thông điệp chào hàng phải được thiết kế hợp lý để tăng sức hấp dẫn và mức độ phản ứng đáp lại. Hiệu quả marketing qua điện thoại phụ thuộc vào việc chọn đúng người thực hiện huấn luyện kỹ hơn và có chế độ thù lao hợp lý... - Thử nghiệm các yếu tố marketing trực tiếp. Người làm marketing trực tiếp cần thử nghiệm các yếu tố của chiến lược chào hàng trong thực tế thị trừơng để đánh giá kết quả trước khi áp dụng cho toàn bộ thị trường. Họ có thể thử nghiệm tính chất của sản phẩm, thông điệp quảng cáo, giá cả, phương tiện truyền thông, danh sách khách hàng... - Đánh giá kết quả của chiến dịch marketing trực tiếp Người làm marketing trực tiếp cần đánh giá kết quả của marketing trực tiếp qua tỷ lệ đặt hàng, mua hàng của khách hàng. Họ cũng phải tính toán chi phí, doanh thu và lợi nhuận cho chiến dịch marketing trực tiếp. Tất nhiên kết quả của chiến dịch marketing trực tiếp không chỉ đánh giá bằng kết quả kinh doanh trực tiếp mà còn phải đánh giá qua khả năng tạo lập quan hệ lâu dài của công ty với khách hàng. V. VAI TRÒ TRUYỀN THÔNG MARKETING TRONG KINH DOANH HIỆN ĐẠI. 1. Những đặc trưng cơ bản của kinh doanh hiện đại. 1.1. Bùng nổ nền kinh tế toàn cầu. Ngày nay nền kinh tế thế giới đang đứng trước một xu thế lớn đó là xu thế toàn cầu hoá. Xu thế này tác động mạnh tới hoạt động sản xuất kinh doanh của rất nhiều công ty ở nhiều nước khác nhau. Sự biến đổi nền kinh tế rất nhanh chóng, với sự phát triển vượt nhiều khoảng cách về địa lý và văn hoá. Nói chung sự khác biêth về địa lý và văn hoá ngày càng bị thu hẹp khi xuất hiện về mạng Internet, máy Fax, điện thoại toàn cầu, chương trình truyền hình qua vệ tinh đI khăp thế giới. Sự thu hẹp khoảng cách đó cho phép các công ty mở rộng đáng kể thị trường địa lý cũng như nguồn cung ứng của mình. Ngày nay nhiều công ty thuộc các ngàng khác nhau phát triển những sản phẩm của mình bằng một dây chuyền lắp ráp toàn cầu, và bán chúng ở nhiều thị trường khác nhau trên thế giới. Các công ty lớn đều thực hiện toàn cầu hoá khá nhanh và đạt hiệu quả cao, họ áp dụng một chiến lược marketing duy nhất hay markering không phân biệt cho toàn bộ thị trường. Việt Nam với việc chuẩn bị ra nhập APTA và tổ chức WTO, thì xu thế toàn cầu hoá ảnh hưởng khá lớn tới các doanh nghiệp trong nước. Toàn cầu hoá làm tăng các thách thức đối với các doanh nghiệp : - Mở cửa thị trường làm giảm, thậm chí loại bỏ hàng rào thuế quan. Việc truyền tin rất nhanh chóng, tăng cường trao đổi, làm tăng mạnh khối lượng của thương mại quốc tế. Điều này gây nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp nước ta khi mà hầu hết chưa kịp chuẩn bị để cạnh tranh với các hãng sản xuất và kinh doanh nước ngoài. - Mở rộng phạm vi cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp phải phát triển mạnh các hoạt động ở bên ngoài biên giới. Đây là một thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng tạo ra các cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam : - Tăng tính đồng nhất của nhu cầu thế giới, người tiêu dùng ở các thị trường khác nhau ngày càng có nhu cầu và mong muốn giống nhau, điều này làm cho sự khác biệt giữa các khúc thị trường không còn nữa. - Nhờ thị trường bên ngoài Công ty có thể đạt được mức doanh số tối ưu, có cơ sở để mở rộng quy mô sản xuất cho phép Công ty theo đuổi chiến lược hạ thấp chi phí. 1.2. Cạnh tranh trên thế giới diễn ra rất gay gắt. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế của đất nước, mà còn phải đối mặt với sự cạnh tranh của các quốc gia khác trên thế giới. Cạnh tranh là một tất yếu, là một qui luật phổ biến của kinh tế thị trường. Nhưng cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế: thay thế những người yếu kém bằng những người có khả năng hơn, thay thế những doanh nghiệp yếu kém bằng những doanh nghiệp có khả năng hơn. Do vậy cạnh tranh là động lực để mỗi công ty không ngừng cố gắng vươn lên, nhằm nâng cao sức cạnh tranh và yêu cầu tồn tại phát triẻn của mình đồng thời góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước 1.3. Cách mạng khoa học-công nghệ diễn ra với tốc độ cao. Hiện nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ trên thế giới, ngày càng nhiều máy móc hiện đại, vật liệu mới được phát minh. Điều này tạo ra bước phát triển mới cho tất cả các ngành sản xuất. Đồng thời nó đặt ra yêu cầu đổi mới công nghệ, thay thế các dây chuyền sản xuất cũ đối với các nhà sản xuất. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết còn non trẻ hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện hiện nay có thuận lợi là chúng ta có thể tiếp xúc ngay với khoa học công nghệ hiện đại bằng việc thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu. Tuy nhiên, do sự phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ thì những dây chuyền sản xuất mà chúng ta nhập về rất nhanh bị lạc hậu. Với những nguồn lực hiện tại thì các doanh nghiệp của ta khó có thể thay đổi công nghệ dây chuyền sản xuất …. , một cách liên tục theo kịp các nước có nền kinh tế phát triển. Điều này dễ đẩy tới tình trạng ngày càng tụt hậu hơn so với thế giới. Đây quả là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp nước ta. 2. Vai trò của truyền thông marketing trong kinh doanh hiện đại Trong nền kinh tế thị trường, các công ty phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt và sự đào thải tàn nhẫn nếu họ không xác định cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp . Sản phẩm có chất lượng tốt, giá hạ không có nghĩa là người mua sẽ mua ngay. Họ phải biết được sự tồn tại về sản phẩm và công ty …những điều đó đòi hỏi phải có một chiến lược truyền thông phù hợp với công ty. Trong xu thế hội nhập hiện nay, cạnh tranh luôn diễn ra từng ngày, từng giờ, thì một chiến lược truyền thông đúng đắn sẽ thu được rất nhiêu lợi ích. Họ sẽ tạo dựng và duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng của mình, tạo nên sự yêu thích của khách hàng và xây dựng được hình ảnh tốt về công ty trong tâm trí của khách hàng. Truyền thông marketing giúp cho công ty thực hiện được những công việc như truyền tin một cách chính xác, tạo ấn tượng về sản phẩm, nhắc nhở họ về những lợi ích mà sản phẩm mang lại, giúp cho công ty xây dựng và bảo vệ hình ảnh của mình trong tâm trí khách hàng. CHƯƠNG II MỘT SỐ HỌAT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG CỦA NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM I. Giới thiệu về ngân hàng Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) Loại hình Doanh nghiệp cổ phần Thành lập 26/3/1988 Trụ sở 198 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam Lĩnh vực hoạt động Tài chính Thành viên chủ chốt Nguyễn Hòa Bình - chủ tịch hội đồng quản trị, Nguyễn Phước Thanh - Tổng giám đốc Ngành nghề Ngân hàng Sản phẩm Dịch vụ tài chính Bất động sản 171.862 tỷ đồng (8/2007) Website [1] Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (tên giao dịch Joint stock Bank for Foreign Trade of Vietnam), còn được gọi Vietcombank hay VCB là ngân hàng lớn thứ ba (sau Agribank và BIDV) và là ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất Việt Nam tính theo tổng khối lượng tài sản. Theo báo cáo của UNDP, Vietcombank là doanh nghiệp lớn thứ sáu Việt Nam (sau Agribank, VNPT, EVN, BIDV và VietsovPetro). Ngân hàng được thành lập năm 1963 với tư cách là một ngân hàng thương mại nhà nước. Tên trước đây của ngân hàng này là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Ngày 2 tháng 6 năm 2008, ngân hàng đã chính thức chuyển đổi thành một ngân hàng thương mại cổ phần. Ngân hàng là thành viên của: Hiệp hội ngân hàng Việt Nam Hiệp hội ngân hàng châu Á Tổ chức thanh toán toàn cầu Swift Tổ chức thẻ quốc tế Visa Tổ chức thẻ quốc tế Master Card Các dịch vụ Thẻ VISA, Mastercard Tài khoản tiết kiệm Tín dụng II. Các mốc lịch sử và thành tựu - Ngày 30 tháng 10 năm 1962, NHNT được thành lập theo Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung ương (nay là NHNN). - Ngày 01 tháng 04 năm 1963, chính thức khai trương hoạt động NHNT như là một ngân hàng đối ngoại độc quyền. - Năm 1978, NHNT thành lập Công ty Tài chính ở Hồng Kông – Vinafico Hong Kong. - Ngày 14 tháng 11 năm 1990, NHNT chính thức chuyển từ một ngân hàng chuyên doanh, độc quyền trong hoạt động kinh tế đối ngoại sang một NHTM NN hoạt động đa năng theo Quyết định số 403-CT ngày 14 tháng 11 năm 1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. - Năm 1993, NHNT được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Hai. - Năm 1993, NHNT thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Hàn Quốc (First Vina Bank) nay là ShinhanVina Bank. - Năm 1994, NHNT thành lập Công ty Thuê mua và Đầu tư trực thuộc NHNT nay là Công ty Quản lý Nợ và Khai thác Tài sản. - Năm 1995, NHNT được tạp chí Asia Money – tạp chí tiền tệ uy tín ở Châu Á bình chọn là Ngân hàng hạng nhất tại Việt Nam năm 1995. - Ngày 21 tháng 09 năm 1996, Thống đốc NHNN ra Quyết định số 286/QĐ-NH5 về việc thành lập lại NHNT trên cơ sở Quyết định số 68/QĐ-NH5 ngày 27 tháng 3 năm 1993 của Thống đốc NHNN. Theo đó, NHNT được hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, 91 quy định tại Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ với tên giao dịch quốc tế: Bank for Foreign Trade of Viet Nam, tên viết tắt là Vietcombank. - Năm 1996, NHNT thành lập Văn phòng đại diện tại Paris – Cộng hòa Pháp, tại Moscow – Cộng hòa liên bang Nga. - Năm 1996, NHNT khai trương Công ty liên doanh Vietcombank Tower 198 với đối tác Singapore. - Năm 1997, NHNT thành lập Văn phòng đại diện tại Singapore. - Năm 1997, NHNT đăng ký nhãn hiệu kinh doanh độc quyền tại Cục sở hữu Công Nghiệp, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. - Năm 1998, NHNT thành lập Công ty cho thuê tài chính NHNT – VCB Leasing. - Năm 2002, NHNT thành lập Công ty TNHH Chứng khoán NHNT – VCBS. - Năm 2003, NHNT được Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Ba. - Năm 2003, NHNT được tạp chí EUROMONEY bình chọn là ngân hàng tốt nhất năm 2003 tại Việt Nam. - Năm 2003, sản phẩm thẻ Connect 24 của NHNT là sản phẩm ngân hàng duy nhất được trao giải thưởng "Sao vàng Đất Việt". - Năm 2004: NHNT được tạp chí The Banker bình chọn là "Ngân hàng tốt nhất Việt Nam" năm thứ 5 liên tiếp. - Năm 2005: NHNT được trao giải thưởng Sao Khuê 2005 – do Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam (VINASA) tổ chức dưới sự bảo trợ của Ban chỉ đạo quốc gia về công nghệ thông tin và Bộ Bưu chính Viễn thông. NHNT là đơn vị ngân hàng duy nhất được nhận giải thưởng này. - Năm 2005: NHNT chi nhánh Đồng Nai vinh dự là chi nhánh đầu tiên của hệ thống NHNT được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu cao quý "Anh hùng lao động" vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới từ năm 1995-2004, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. - Năm 2005, NHNT góp vốn thành lập Công ty liên doanh quản lý Quỹ đầu tư Chứng khoán – VCBF. - Năm 2006: Tổng Giám đốc NHNT nhận giải thưởng "Nhà lãnh đạo ngân hàng châu Á tiêu biểu". - Năm 2006: NHNT vinh dự là 1 trong 4 đơn vị được trao danh hiệu "Điển hình sáng tạo" trong Hội nghị quốc gia về thúc đẩy sáng tạo cho Việt Nam. - Năm 2006: Tổng Giám đốc NHNT được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Châu Á. - Năm 2007, NHNT được trao tặng giải thưởng Thương hiệu mạnh Việt Nam 2006 do Thời báo Kinh tế và Cục xúc tiến Bộ Thương mại tổ chức. Đặc biệt thương hiệu Vietcombank lọt vào Top Ten (mười thương hiệu mạnh nhất) trong số 98 thương hiệu đạt giải. Đây là lần thứ 3 liên tiếp Vietcombank được trao tặng giải thưởng này. - Năm 2007, NHNT được bầu chọn là "Ngân hàng cung cấp dịch vụ ngoại hối cho doanh nghiệp tốt nhất năm 2007" do tạp chí Asia Money bình chọn. III. Giới thiệu chung về hoạt động truyền thông của ngân hàng Luôn tiên phong trong việc cung cấp  cho khách hàng các giải pháp tài chính tối ưu nhất, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt nam (Vietcombank) là ngân hàng  thương mại đầu tiên và đứng đầu ở Việt Nam triển khai dịch vụ thẻ - dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt hiệu quả, an toàn và  tiện lợi nhất hiện nay. Với kỷ lục “Ngân hàng có sản phẩm thẻ đa dạng nhất Việt Nam” được Bộ sách kỷ lục Việt Nam công nhận vào ngày 28/06/2008 và là ngân hàng duy nhất tại Việt Nam chấp nhận thanh toán cả 6 loại thẻ ngân hàng thông dụng trên thế giới mang thương hiệu Visa, MasterCard, JCB, American Express, Diners Club và China UnionPay, đến nay, Vietcombank luôn tự hào với vị trí dẫn đầu về thị phần phát hành và thanh toán thẻ trên thị trường thẻ Việt Nam. Đến với dịch vụ thẻ của Vietcombank, khách hàng có thể lựa chọn cho mình từ sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa đang được hơn 3 triệu khách hàng lựa chọn: Vietcombank Connect24, thẻ ghi nợ quốc tế sành điệu: Vietcombank Connect24 Visa và Vietcombank MTV Mastercard hoặc các sản phẩm thẻ tín dụng cao cấp mang các thương hiệu nổi tiếng toàn thế giới: Visa, MasterCard và American Express.  Hơn nữa, Vietcombank đã và đang liên kết với các đối  tác lớn, uy tín như Vietnam Airlines và Kênh ca nhạc giải trí MTV Châu Á để cho ra đời các dòng sản phẩm thẻ liên kết có nhiều ưu đãi vượt trội phục vụ các khách hàng. Phong phú và đa dạng, tiện lợi và ưu việt, sành điệu và tinh tế, sản phẩm thẻ Vietcombank thực sự giúp Bạn khẳng định phong cách của mình. Để phục vụ các chủ thẻ một cách tốt nhất, Vietcombank không ngừng mở rộng mạng lưới Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) cũng như mạng lưới ATM. Đến nay, hệ thống thanh toán của Vietcombank đạt gần 10.000 ĐVCNT và gần 1250 máy  ATM  trên khắp các tỉnh và thành phố sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng thẻ của Quý khách trong và ngoài nước. Sử dụng dịch vụ thẻ Vietcombank, khách hàng có thể hoàn toàn yên tâm về chất lượng dịch vụ, Trung tâm dịch vụ khách hàng của Vietcombank luôn sẵn sàng hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc của Quý khách 24/24h theo số máy điện thoại: -          Hà Nội: 04 - 38243 524 / 38245 716 -          TP. Hồ Chí Minh: 08 – 3526 2153 Thẻ Vietcombank SG24 - công cụ tài chính ưu việt và đắc lực, sát cánh cùng mọi thành công của khách hàng trong cuộc sống hiện đại Ngày 19 tháng 12 năm 2006, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cùng công ty Truyền thông sáng tạo Việt Nam (CMVN) tổ chức lễ ra mắt sản phẩm thẻ thanh toán Vietcombank SG24 - Thẻ thanh toán hiện đại kết nối các tiện ích độc đáo, cùng các ưu đãi bất ngờ, năng động suốt 24 giờ. Thẻ Vietcombank SG24 là thẻ ghi nợ nội địa được kết nối trực tiếp với tài khoản cá nhân của khách hàng mở tại Vietcombank. Với logo Connect24 được in trên thẻ, khách hàng sử dụng thẻ Vietcombank SG24 để thanh toán hàng hóa dịch vụ tại hàng ngàn Đơn vị chấp nhận thẻ và hưởng hàng loạt tiện ích tại hệ thống ATM của Vietcombank và các Ngân hàng trong liên minh như chuyển khoản, thanh toán phí điện thoại, điện, nước, phí bảo hiểm, rút tiền, ... Là sản phẩm thẻ liên kết đầu tiên được phát triển dựa trên nền tảng Vietcombank Connect24, thẻ Vietcombank SG24 không chỉ là một phương thức thanh toán tiện dụng mà còn mang lại cho chủ thẻ nhiều tiện ích vượt trội chưa từng có như các chương trình ưu đãi, giảm giá tại hệ thống nhà hàng, khách sạn, quán cafe, bar, spa, mỹ phẩm, khu nghỉ mát, các phòng khám, các trung tâm ngoại ngữ, du học, ... cao cấp và sang trọng hàng đầu tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành khác trên toàn quốc. Hơn nữa, sử dụng thẻ Vietcombank SG24, chủ thẻ còn được hưởng gói dịch vụ bảo hiểm tai nạn của một hãng bảo hiểm uy tín. Phát biểu về sự kiện này, Ông Vũ Viết Ngoạn - Tổng Giám đốc Vietcombank nói “Là Ngân hàng hàng đầu trong việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng đặc biệt là dịch vụ thẻ, Vietcombank luôn xác định mục tiêu chiến lược của mình là đa dạng hóa sản phẩm, không ngừng đưa ra các sản phẩm mới có nhiều tính năng vượt trội phù hợp với từng nhóm khách hàng mục tiêu. Hôm nay chúng tôi rất vui mừng công bố sự ra đời của sản phẩm mang tính sáng tạo, của lòng nhiệt huyết và mang tính thời đại: Thẻ Vietcombank SG24” Cùng với ý kiến này, Ông Allen Wu, người sáng lập ra CMVN cho biết “Thẻ Vietcombank SG24 là sản phẩm của sự kết hợp tuyệt vời giữa một tên tuổi lớn trong lĩnh vực tài chính – Vietcombank và một thương hiệu trẻ trong lĩnh vực truyền thông - CMVN” Ông cho biết thêm: “Nằm trong chiến lược tiếp cận và hỗ trợ thông tin về thẻ Vietcombank SG24, chúng tôi cũng nhân dịp này giới thiệu đến khách hàng trang web www.sg24.com.vn và số điện thoại (08) 824.24.24, qua đó, quý khách hàng có thể dễ dàng tra cứu các thông tin về Thẻ, các chương trình khuyến mãi của thẻ, của các đối tác cũng như các chương trình khuyến mãi của chính đối tác dành riêng cho chủ thẻ Vietcombank SG24.” Là sản phẩm thẻ hiện đại và mang tính đột phá, sự ra đời của sản phẩm thẻ Vietcombank SG24 mang lại sự lựa chọn mới cho nhóm khách hàng có thu nhập cao, năng động, yêu thích sự tiện lợi. Cùng với sự phát triển thương mại điện tử trong lĩnh vực truyền hình tại Việt nam, sản phẩm Vietcombank SG24 sẽ sớm trở thành công cụ thanh toán hữu hiệu nhất giữa các doanh nghiệp Việt Nam và người sử dụng thẻ. Phát biểu về vấn đề này, ông Vũ Văn Hiến - Tổng Giám đốc Đài truyền hình Việt Nam nói: “Truyền hình ngày nay không chỉ đơn thuần là kênh thông tin thời sự và giải trí mà với sự kết hợp với ngành ngân hàng, truyền hình sẽ trở thành kênh phân phối và giao dịch hàng hoá, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế và mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.” Vietcombank khẳng định thương hiệu ngân hàng bán lẻ Trong bối cảnh đất nước hội nhập vào những năm 90 của thế kỷ trước, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã nhanh chóng xác định việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ là chiến lược trọng tâm, có ý nghĩa sống còn trong cạnh tranh. Một trong các hoạt động có sự phát triển đầy dấu ấn, minh chứng cho tính đúng đắn của chiến lược nói trên là những thành tựu trong mảng dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Bên cạnh dịch vụ bán buôn vốn có uy tín quốc tế dành cho các tổ chức kinh tế (corporate banking), Vietcombank hiện được biết tới như một địa chỉ tin cậy của các dịch vụ đa dạng và hiện đại dành cho khách hàng cá nhân (dịch vụ ngân hàng bán lẻ - retail banking) như các sản phẩm cho vay linh hoạt, thẻ thanh toán, hệ thống máy rút tiền tự động ATM, các sản phẩm huy động vốn đa dạng, các dịch vụ ngân hàng trực tuyến, dịch vụ chuyển tiền kiều hối. Đối với nhóm các sản phẩm bán lẻ truyền thống, nét điển hình của Vietcombank được thể hiện ở sự chú trọng tới việc gia tăng các tiện ích cho khách hàng và phân đoạn khách hàng nhằm thiết kế những sản phẩm phù hợp. Ở mảng tiền gửi, các chương trình huy động tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi có thưởng, hoặc các cách tính lãi suất linh hoạt (lãi suất bậc thang, lĩnh lãi định kỳ) được thiết kế cho phép khách hàng lựa chọn phù hợp với nhu cầu, tạo sức hấp dẫn với các sản phẩm truyền thống. Vietcombank là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam cho phép khách hàng hàng có thể gửi tiền ở một nơi và thực hiện rút tiền ở bất kỳ điểm giao dịch nào thuộc hệ thống trên toàn quốc. Từ những hoạt động cho vay cá nhân nhỏ lẻ ban đầu, trải qua thời gian, các sản phẩm tiền vay từng bước được chuẩn hoá thành nhóm sản phẩm cho từng phân đoạn khách hàng cụ thể như "Cho vay Cán bộ quản lý điều hành", "Cho vay cán bộ công nhân viên", "Cho vay mua nhà Dự án", "Cho vay mua ô tô", “Cho vay du học” và trong tương lai gần là các sản phẩm "Cho vay đối với hộ gia đình" v.v... Bằng việc sớm thiết lập quan hệ đại lý với hơn 1.000 ngân hàng trên thế giới, xử lý tự động lệnh Swift và ký hợp đồng với những tổ chức chuyển tiền nhanh quốc tế (như MoneyGram), Vietcombank luôn dẫn đầu thị trường về doanh số kiều hối trong hàng chục năm. Bên cạnh đó, công tác phân đoạn thị trường đã và đang được xúc tiến mạnh mẽ dựa trên việc nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thị trường một cách sâu sắc với mục tiêu tạo ra các sản phẩm đặc trưng cho từng đối tượng khách hàng. Vietcombank là ngân hàng đầu tiên cung cấp dịch vụ đặc biệt cho nhóm khách hàng VIP với những tiêu chuẩn riêng về chế độ phục vụ, hàng loạt các ưu đãi khi giao dịch và những sản phẩm được thiết kế phù hợp. Các sản phẩm cho vay cán bộ công nhân viên cũng được thiết kế chi tiết đến từng phân đoạn nhỏ theo nơi công tác, vị trí công tác, thu nhập hàng năm. Với sự phân đoạn thị trường phù hợp, các sản phẩm vay vốn đó đã tiếp cận được với thị trường, đáp ứng nhu cầu của từng nhóm khách hàng cũng như bảo đảm quản trị rủi ro một cách hiệu quả. Ngoài các sản phẩm, dịch vụ truyền thống được cải tiến, với nền tảng "VCB Online", nhiều sản phẩm/dịch vụ ngân hàng bán lẻ mới liên tiếp ra đời góp phần khẳng định ví trí của Vietcombank. Trong đó, không thể không kể tới sự phát triển ngoạn mục các dịch vụ thẻ được thị trường Việt Nam nồng nhiệt đón nhận. Năm 2002, hệ thống máy ATM và chiếc thẻ ghi nợ nội địa đầu tiên của Việt Nam mang thương hiệu Vietcombank Connect 24 được phát triển tại Vietcombank. Sau hơn 5 năm, cơ cấu các sản phẩm thẻ của Vietcombank đã đầy đủ, bao gồm thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng, nội địa và quốc tế; hoạt động thanh toán và phát hành thẻ luôn được song song chú trọng với công tác chăm sóc khách hàng. Hiện tại, Vietcombank chấp nhận thanh toán tất cả 5 loại thẻ tín dụng phổ biến nhất trên thế giới (Visa, MasterCard, American Express, Diner Club và JCB); phát hành thẻ tín dụng Vietcombank Visa, Vietcombank MasterCard Cội nguồn, Vietcombank American Express, thẻ ghi nợ Vietcombank Visa Debit, Vietcombank MTV và Vietcombank Connect 24. Hoạt động thẻ của Vietcombank đã có thương hiệu với việc luôn giữ vững vị trí hàng đầu trong phát triển dịch vụ, cung cấp tiện ích mới, tiên tiến và an toàn. Tới cuối năm 2007, Vietcombank đã phát hành hơn 100.000 thẻ tín dụng quốc tế, hơn 2.5 triệu thẻ Vietcombank Connect 24; phát triển hơn 1.000 máy ATM và gần 6000 đơn vị chấp nhận thẻ. Thị phần thanh toán thẻ chiếm 50%, thị phần phát hành thẻ quốc tế chiếm 40% và thị phần phát hành thẻ ghi nợ chiếm trên 30% thị trường Việt Nam. Cùng với dịch vụ thẻ, các dịch vụ ngân hàng trực tuyến như internet banking (VCB-iBanking), SMS banking (VCB SMS-Banking) và thanh toán hóa đơn tự động (billing payment) đã và đang đem lại cho khách hàng nhiều tiện ích, góp phần củng cố hình ảnh một Vietcombank năng động trong ứng dụng công nghệ hiện đại. Ngay từ năm 2001, khách hàng đã có thể sử dụng dịch vụ VCB-iBanking với chức năng truy vấn thông tin tài khoản và hiện nay, bằng việc hợp tác với nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ, Vietcombank gia tăng tiện ích cho khách hàng sử dụng VCB-iBanking với các giao dịch chuyển khoản, thanh toán các dịch vụ du lịch, cước phí điện thoại/internet, tiền vé máy bay, v.v... Chính việc gia tăng tiện ích đã giúp số lượng khách hàng sử dụng Internet banking của Vietcombank tăng rất đáng kể. Nếu vào tháng 5/2007 chỉ có 42.000 khách hàng thì tới cuối năm 2007, con số đó là 82.500 người. Dịch vụ VCB SMS-Banking của Vietcombank cũng được đón nhận rất tích cực từ phía khách hàng. Chính thức đưa vào hoạt động tháng 11/2006, sau 06 tháng triển khai, Vietcombank đã có hơn 16.000 khách hàng và tới cuối năm 2007 là 78.000 khách hàng. Tổng đài SMS banking 8170 của Vietcombank đã trở nên quen thuộc với nhiều khách hàng và trong năm 2008, dịch vụ nhắn tin chủ động khi có sự thay đổi số dư tài khoản sẽ được tiếp tục triển khai. Dịch vụ thanh toán hóa đơn tự động (billing payment) và dịch vụ trả nhận lương qua tài khoản ngân hàng là những ví dụ tiêu biểu khác của việc phát triển mạnh mẽ các sản phẩm bán lẻ dành cho khách hàng cá nhân. Hiện nay, VietcombankK đang cung cấp dịch vụ billing cho khách hàng tại hầu hết những mảng dịch vụ quan trọng như thanh toán hóa đơn điện, nước, viễn thông, bảo hiểm với đa số các nhà cung cấp dịch vụ tên tuổi trên thị trường. Ngoài việc thanh toán qua dịch vụ VCB-iBanking, khách hàng còn có thể thực hiện giao dịch tại hệ thống ATM của ngân hàng. Bên cạnh đó, với sự tiên phong trong áp dụng core banking và phát triển mạng lưới ATM cùng thẻ ghi nợ nội địa, Vietcombank tự hào là ngân hàng hoạt động mạnh và chất lượng nhất dịch vụ trả và nhận Vietcombank. Vietcombank đã ký kết hợp đồng trả lương cho hơn 4000 đơn vị là doanh nghiệp và các tổ chức hành chính sự nghiệp; kèm theo đó là gần 1 triệu lao động sử dụng dịch vụ nhận lương qua tài khoản tại Vietcombank, góp phần đáng kể vào chiến lược thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt chung của đất nước. Và mới đây nhất, Vietcombank đã chính thức triển khai dịch vụ VCB Securities-online - một dịch vụ kết nối trực tuyến tài khoản tiền gửi của nhà đầu tư tại ngân hàng với tài khoản đầu tư chứng khoán của họ tại Công ty chứng khoán. Dịch vụ này một mặt hỗ trợ các công ty chứng khoán và nhà đầu tư thực hiện quy định của nhà nước về việc tách bạch trong quản lý tài khoản tiền của nhà đầu tư mặt khác tạo điều kiện cho nhà đầu tư có thể linh hoạt trong sử dụng đồng vốn của mình thông qua các tiện ích thanh toán nổi trội trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại Vietcombank. Đây cũng là cơ hội cho nhà đầu tư tiếp cận và sử dụng các dịch vụ đa dạng khác của ngân hàng. Có thể nói, khoảng thời gian từ năm 1995 đến nay là khoảng thời gian không dài trong lịch sử 45 năm của Vietcombank nhưng lại chính là khoảng thời gian chứng kiến nhiều thay đổi đối với phương thức và hoạt động bán lẻ tại ngân hàng vốn có thế mạnh chuyên doanh trong hoạt động bán buôn. Từ con số vài nghìn khách hàng lẻ những năm đầu thập kỷ 90, tới nay, số lượng khách hàng cá nhân của Vietcombank đã đạt con số 3 triệu (chiếm trên 30% thị phần tại Việt Nam) và không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Từ một vài sản phẩm bán lẻ truyền thống đơn giản, đến nay Vietcombank đã phát triển được hàng chục loại hình sản phẩm khác nhau trên nhiều loại hình dịch vụ truyền thống cũng như hiện đại. Tất cả các thành tựu nói trên trong hoạt động kinh doanh bán lẻ có được là nhờ định hướng đúng đắn của Ban lãnh đạo Vietcombank qua các thời kỳ về chiến lược phát triển bán lẻ, chiến lược phát triển mạng lưới, sự tâm huyết của đội ngũ cán bộ thiết kế và cung ứng sản phẩm bán lẻ cũng như chiến lược ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng ngay từ các năm đầu nền kinh tế mở cửa. Tuy nhiên, khi các đối thủ cạnh tranh trong nước ngày một lớn mạnh và đặc biệt là sự tham gia vào thị trường bán lẻ của các ngân hàng nước ngoài hàng đầu trên một thị trường dù có nhiều thuận lợi cho dịch vụ bán lẻ phát triển (dân số trẻ, đông, độ thâm nhập dịch vụ ngân hàng còn thấp) nhưng có độ cạnh tranh gay gắt như hiện nay, dịch vụ ngân hàng bán lẻ của Vietcombank chắc chắn sẽ cần tiếp tục được định hướng đúng đắn và đầu tư cả về nhân lực và công nghệ một cách bài bản nhằm giữ vững và phát triển hơn nữa, tận dụng và tạo ra các yếu tố thành công trong bản thân chặng đường sắp tới: thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21246.doc
Tài liệu liên quan