MỤC LỤC
1- Nguyên tắc trong lãnh đạo, quản lý các phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam. 1
2- Quản lý nhà nước đối với hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng 3
a) Hệ thống quản lý nhà nước đối với hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng. 3
b) Hệ thống luật pháp về truyền thông đại chúng 3
c) Đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam. 5
d) Quy ước về tiêu chuẩn đạo nhà báo của mộtt số quốc gia: 6
· Mười quy ước về tiêu chuẩn đạo đức nhà báo các nước ASEAN (tháng 11-1997) 7
· Nguyên tắc đạo đức báo chí Ấn Độ (Áp dụng từ năm 1968) 7
Tài liệu tham khảo 10
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2061 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số nét trong lãnh đạo, quản lý và hoạt động nghề nghiệp lĩnh vực truyền thông đại chúng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số nét trong lãnh đạo, quản lý và hoạt động nghề nghiệp lĩnh vực truyền thông đại chúng ở Việt Nam.
1- Nguyên tắc trong lãnh đạo, quản lý các phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam.
Các phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội - vừa là phương tiện cung cấp thông tin, phương tiện giáo dục nâng cao trình độ văn hoá, nhận thức xã hội cho công dân, vừa là phương tiện giải trí, phương tiện mở rộng các giao tiếp của mỗi cá nhân với xã hội. Hoạt động giao tiếp này diễn ra dưới hai hướng là cung cấp thông tin và tiếp nhận thông tin, trong đó chủ yếu là cung cấp thông tin.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo truyền thông đại chúng xuất phát từ bản chất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, giành được độc lập, tự do cho đất nước, cho dân tộc. Xây dựng chế độ XHCN là con được mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, phù hợp với quy luật lịch sử cũng như thời đại.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của nhân dân và cả dân tộc. Vì thế, việc Đảng lãnh đạo hệ thống truyền thông đại chúng là một điều kiện đảm bảo cho việc bảo vệ và phát huy lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo truyền thông đại chúng cũng xuất phát từ yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Các phương tiện truyền thông đại chúng có trách nhiệm phản ánh, cổ vũ, động viên kịp thời công cuộc xây dựng, phát triển xã hội toàn diện, góp phần tổng kết thực tiễn, tham gia vào hoạt động hoạch địch các chính sách kinh tế - xã hội, giám sát hoạt động của các cơ quan quyền lực, các tổ chức kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng thông tin, giáo dục, nâng cao trình độ văn hoá và nhận thức chính trị cho nhân dân… Mặt khác, các phương tiện truyền thông đại chúng còn đấu tranh, vạch trần những âm mưu, luận điệu phá hoại của kẻ thù, định hướng dư luận xã hội tích cực, giúp nhân dân nhận thức đúng đắn bản chất của các sự kiện, biến cố trong nước và quốc tế. Hơn thế, các phương tiện truyền thông đại chúng còn tham gia tích cực vào việc giáo dục chính trị - tư tưởng, hình thành trong nhân dân năng lực nhận thức chính trị - tư tưởng tích cực, một thế giới quan đúng đắn và quan điểm xã hội tiến bộ.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo xuất phát từ vai trò xã hội ngày càng to lớn của các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong thời kỳ bùng nổ thông tin thì nhu cầu tiếp nhận thông tin của nhân dân là vô cùng bức thiết. Các phương tiện truyền thông đại chúng trở thành một bộ phận cấu thành của xã hội hiện đại, tác độngvà ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không chỉ bó hẹp trên phạm vi một quốc gia mà nó có tác động, ảnh hưởng trên toàn thế giới.
Nguyên tắc Đảng lãnh đạo các phương tiện truyền thông đại chúng còn xuất phát từ những kinh nghiệm đã được đúc kết trong quá trình đấu tranh cách mạng: giai cấp nào thì báo chí ấy. Về bản chất, Đảng lãnh đạo truyền thông đại chúng là một điều kiện để mang lại tự do cho cả nhà truyền thông và nhân dân lao động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền thông đại chúng được phát triển toàn diện phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động, vì mục tiêu mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, độc lập, hoà bình cho dân tộc và Tổ quốc.
Phát triển đi đôi với quản lý tốt các phương tiện truyền thông đại chúng là một quan điểm chỉ đạo quan trọng được tổng kết và đề ra tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng. Phát triển một hệ thống truyền thông đại chúng đủ mạnh cả về quy mô và chất lượng; xây dựng và hoàn thiện một hành lang pháp lý để đáp ứng đầy đủ các nhu cầu thông tin giao tiếp và các dịch vụ xã hội là một yêu cầu khách quan xuất phát từ tình hình thực tế quan hệ quốc tế hiện nay. Đồng thời đây cũng chính là mục đích tạo ra sự tăng trưởng hợp lý, tính hiệu quả cao và bảo đảm vai trò tích cực của lĩnh vực này đối với xã hội.
2- Quản lý nhà nước đối với hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng
a) Hệ thống quản lý nhà nước đối với hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng.
Ở Việt Nam, cơ quan chức năng được Chính phủ giao cho trực tiếp quản lý nhà nước đối với toàn bộ hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng là Bộ Văn hoá và Truyền thông. Với từng loại hình phương tiện thông tin đại chúng, sự phân công quản lý nhà nước có khác nhau. Ví dụ, đối với phát thanh, truyền hình, Bộ Văn hoá và Truyền thông là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động báo chí, Tổng cục Bưu điện là cơ quan quản lý nhà nước về tần số và máy phát vô tuyến điện. Đối với Internet, Tổng cục Bưu điện là cơ quan cấp phép cung cấp dịch vụ, Bộ Văn hoá và Truyền thông cấp phép và quản lý nội dung thông tin, Bộ Công an là cơ quan kiểm soát thông tin và bảo đảm an toàn thông tin trên mạng; Cùng chia sẻ trách nhiệm còn có các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố.
b) Hệ thống luật pháp về truyền thông đại chúng
Truyền thông đại chúng là một lĩnh vực rộng lớn, có vai trò quan trọng trong xã hội, liên quan, tác động qua lại với hầu như tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội hiện đại. Vì thế, hệ thống luật pháp điều chỉnh các hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng cũng rất phức tạp: Hiến pháp, các bộ luật riêng cho từng loại hình truyền thông đại chúng v.v. Hệ thống luật pháp Việt Nam bảo vệ và ủng hộ khả năng phát triển một cách toàn diện và gắn bó, ràng buộc các mặt, bao gồm sự tự do hoạt động nghề nghiệp của nhà truyền thông, quyền tự do và quyền được tiếp nhận thông tin của công dân, quyền trao đổi thông tin và quyền được sử dụng một cách tự do các dịch vụ thông tin, giải trí,..
Tính ưu việt của hệ thống pháp luật này còn thể hiện ở chỗ nó thúc đẩy và bảo vệ việc tạo ra các điều kiện để mỗi người dân đều có khả năng, đều được quyền thông tin và tiếp nhận thông tin một cách công bằng qua hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng. Đồng thời, nó cũng mở ra các khả năng điều kiện thuận lợi nhất cho việc phát triển, nâng cao trình độ chuyên môn, mở rộng quy mô và phạm vi ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng, thúc đẩy việc mở ra các nhu cầu phong phú của nhân dân về thông tin. Điều 69, Hiếp pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
Để bảo đảm quyền tự do thông tin và tiếp nhận thông tin của công dân. Điều 33 Hiến pháp khẳng định: “Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm những hoạt động văn hóa, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam”. Đó cũng là những nguyên tắc cơ bản cho việc hình thành những điều luật cụ thể điều chỉnh các hoạt động của từng loại hình truyền thông đại chúng: Luật báo chí, Luật xuất bản, các văn bản dưới luật, hệ thống các văn bản quy phạm hành chính…
Báo chí bao gồm báo in, báo phát thanh, truyền hình, các hàng thông tấn, là khu vực quan trọng nhất, nhạy cảm nhất trong toàn bộ hệ thống truyền thông đại chúng. Sau khi hoà bình lập lại, ngày 24-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 282 về chế độ báo chí. Ngày 20-5-1957, Quốc hội đã thông qua quyết định lấy Sắc lệnh này làm Luật báo chí đầu tiên của chế độ: Luật số 100/SL-L002 về chế độ báo chí.
Ngày 28-12-1989, Quốc hội thông qua Luật báo chí và ngày 2-1-1990 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký Lệnh công bố Luật này. Luật báo chí năm 1989 kế thừa những nguyên tắc đúng đắn của luật pháp về chế độ báo chí năm 1957 và bổ sung, hoàn thiện nội dung luật phù hợp với điều kiện mới. Luật báo chí năm 1989 cũng phản ánh những thay đổi to lớn trong đời sống xã hội Việt Nam, những thành tựu to lớn trong phát triển truyền thông đại chúng cách mạng.
Sự phát triển không ngừng của truyền thông đại chúng trong môi trường xã hội luôn vận động cũng đòi hỏi phải thường xuyên bổ sung luật một cách hợp lý. Ngày 12-6-1999, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí. Đây là một bước tiếp tục hoàn thiện và cập nhật luật báo chí với những thay đổi to lớn trong xã hội nước ta. Luật báo chí năm 1999 đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề trách nhiệm nhà báo, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với thông tin đại chúng, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo vệ quyền được thông tin của nhân dân.
Các nhà báo, vừa có tư cách công dân vừa có tư cách đại diện cơ quan truyền thông đại chúng. Họ không chỉ thực hiện nhiệm vụ khai thác thông tin theo chức năng nghề nghiệp của mình, mà còn là đại diện cho công luận thực hiện nhiệm vụ giám sát xã hội. Nhà báo là người đại diện của nhân dân thực hiện yêu cầu của quyền được thông tin của nhân dân. Vì thế, nhà báo không những phải thường xuyên trau dồi tinh thông nghiệp vụ và rèn rũa đạo đức nghề nghiệp và như vậy họ xứng đáng được tôn trọng và chân thành trong giao tiếp công tác.
c) Đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam.
Cùng với việc tiếp tục hoàn thiện Luật báo chí, Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam càng ngày càng được thể hiện cô đọng và chặt chẽ. Đại hội VIII Hội Nhà báo Việt Nam thông qua Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam ngày 13-5-2005:
1- Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2- Luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân.
3- Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật.
4- Sống lành mạnh, trong sáng, không được lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật.
5- Gương mẫu chấp hành pháp luật và làm tròn nghĩa vụ công dân, làm tốt trách nhiệm xã hội.
6- Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp thông tin.
7- Tôn trọng, đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp.
8- Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, khiêm tốn, cầu tiến bộ.
9- Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các nền văn hóa khác.
d) Quy ước về tiêu chuẩn đạo nhà báo của mộtt số quốc gia:
Các quốc gia đều có những quy định về đạo đức người làm báo hay nói theo cách khách là đều đưa ra những nguyên tắc chính của báo chí và người làm báo. Nó được cập nhật và đều có chung một điểm phục vụ mục đích chính trị cho giai cấp cầm quyền, vì vậy nó được xoay quay trục chính nguyên tắc hoạt động đặc thù báo chí: quyền được thu thập thông tin và đưa tin; quyền hoạt động nghề nghiệp được pháp luật bảo hộ… Dưới đây là một số quy ước về tiêu chuẩn đạo đức nhà báo:
Mười quy ước về tiêu chuẩn đạo đức nhà báo các nước ASEAN (tháng 11-1997)
1- Chỉ sử dụng các phương tiện công khai, trung thực và rõ ràng để lấy tin, chụp ảnh, lấy tài liệu cần thiết, cho phép mình thực hiện nghiệp vụ với tư cách là một đại diện của cơ quan truyền thông.
2 - Không được phép vì động cơ hoặc lợi ích cá nhân làm ảnh hưởng hoặc thay đổi quan điểm của mình, hại đến nghề nghiệp hoặc làm suy giảm phẩm chất nghề nghiệp của mình.
3- Không yêu cầu hoặc chấp nhận bất cứ một sự trả công, quà biếu hay bất cứ một hình thức thù lao nào để tuyên bố hay công bố những thông tin sai sự thật.
4- Phản ánh, đưa tin một cách trung thực với tất cả sự hiểu biết và năng lực của mình. Không được giấu giếm những sự thật quan trọng, hay bóp méo sự thật, phóng đại hay đề cao không đúng mức.
5- Danh cho bất cứ ai bị xúc phạm, ảnh hưởng do tin tức của mình được trả lời.
6- Không vi phạm thông tin hoặc tài liệu mật mình thu thập được trong khi thực hiện những yêu cầu của mình.
7- Không làm lộ nguồn tin và chống lại bất cứ mọi ý đồ bên ngoài bắt buộc mình phải tiết lộ nguồn tin.
8- Không viết những bài báo làm ảnh hưởng đến danh dự hay uy tín của bất cứ cá nhân nào, trừ lợi ích của cộng đồng bắt buộc phải làm vậy.
9 - Nhà báo ASEAN phải quan tâm một cách đúng mức tới cơ sở hạ tầng đa sắc tộc, văn hóa và tôn giáo của các nước ASEAN.
10- Không viết bài hoặc có chính kiến, nhận xét gì đe dọa đến nền an ninh của nước mình hoặc khuấy động đối lập về quân sự của nước mình với bất kỳ nước ASEAN nào. Lúc nào cũng phấn đấu để phát triển tinh thần hữu nghị, gắn bó giữa các nước trong khu vực.
Nguyên tắc đạo đức báo chí Ấn Độ (Áp dụng từ năm 1968)
1- Báo chí có một vai trò thiết yếu trong việc hoàn thiện những mục tiêu cơ bản đề ra trong hiến pháp, như dân chủ, chủ nghĩa thế tục (phi tôn giáo), sự thống nhất đất nước và hòa hợp, và pháp trị. Nhiệm vụ của báo chí là giúp thúc đẩy sự hợp nhất và đoàn kết trong trái tim và khối óc của mọi người, và không xuất bản những tài liệu kích động sự căm thù giữa các tộc người.
2- Để làm được việc này, báo chí nên theo những hướng dẫn sau khi tường thuật những sự việc xảy ra trong đất nước:
a) Nên thận trọng trong tất cả các bình luận, xã luận và thể hiện ý kiến, dù qua các bài viết báo, thư gửi tổng biên tập, hoặc bất kỳ thể loạinào và không có những công kích tục tĩu chống lại lãnh đạo hoặc cộng đồng, hoặc kích động bạo lực.
b) Tránh những lời cáo buộc chung chung khi chưa có đủ bằng chứng, tạo sự nghi ngờ và vu khống bôi nhọ đối với lòng yêu nước và sự trung thành với bất kỳ cộng đồng nào.
c) Tương tự như vậy, tránh những cáo buộc chung chung chống lại bất kỳ cộng đồng nào dựa trên sự phân biệt không công bằng, gây nên sự thù ghét và căm giận giữa các cộng đồng.
d) Nhưng dù vậy, không nên bác bỏ sự thật, hay cố tình làm méo mó tin tức.
e) Tin về những tai nạn liên quan đến sự mất mát cuộc sống, vô luật pháp, đốt phá, v.v, nên được miêu tả, tường thuật, và đặt tít trong điều kiện nghiêm khắc khách quan và không nên thể hiện một cách nặng nề.
f) Các loại tin tức giúp ích cho hòa bình, hòa hợp và giúp lập lại hoặc duy trì luật pháp và trật tự nên được ưu tiên trước các loại tin khác.
g) Sự cẩn trọng lớn nhất cần được thực thi trong việc chọn lựa và xuất bản hình ảnh, tranh biếm, thơ… để tránh tạo ra cảm xúc mạnh mẽ hoặc sự thù hận giữa các tộc người.
h) Tên của các tộc người không nên được đề cập kém với từ “cộng đồng chiếm đa số” hay “cộng đồng chiếm thiểu số” trong tường thuật tin tức.
i) Nguồn tin cung cấp số liệu thương vong luôn nên được đề cập đến (trong bài viết).
j) Không sự thật hoặc con số nào nên được xuất bản nếu trước đó không có sự xác minh đầy đủ theo khả năng của phóng viên. Tuy nhiên, nếu sự xuất bản tin tức hoặc con số đó có thể có ảnh hưởng tới cảm xúc mạnh mẽ của cộng đồng, những tin tức và con số này có thể không nên đưa ra.
3- Biết nghi ngờ một cách lành mạnh: Phóng viên đó không dễ tin. Họ nên đặt câu hỏi về những gì họ nghe thấy, đọc được, nhìn thấy. Họ không muốn bị lừa. Song song với nó, họ không nghi ngờ một cách mù quáng, nghi ngờ tất cả những gì họ được nghe. Thay vào đó, họ sẵn sàng đặt câu hỏi cho nguồn tin và kiểm chứng với những thông tin khác mà họ có được.
Và cuối cùng, các phóng viên có thể tồn tại được với nghề trong một môI trường cạnh tranh là vì họ có “giác quan làm người tốt hơn”.
Họ tin rằng họ làm báo là vì lý do khác hơn là vì kiếm được nhiều tiền và sống sung sướng, hay là vì thỏa mãn ước vọng của cá nhân.
Họ luôn tin rằng thông tin tốt quan trọng cho xã hội. Và chia sẻ thông tin đó giúp xã hội hoạt động tốt hơn.
Tài liệu tham khảo
1- Luật báo chí của nước Việt Nam các năm 1957, 1990, 1999. NXB Pháp luật.
2- Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 2002. Báo Nhà báo và công luận, ngày 15-5-2002.
3- Tài liệu về đạo đức báo chí của Việt Nam, Liên đoàn báo chí ASEAN, Ấn Độ (Sưu tầm)
4- Nghị quyết Trung ương 5, Khóa X, Đảng Cộng sản Việt Nam.NXB CTQG.H., 2007.
5- Quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực, NXB Khoa học và kỹ thuật, H., 2007.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TBC 57.doc