Nhờ vai trò lịch sử to lớn và những đặc điểm ưu việt của mình mà cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được coi là con đường hữu hiệu nhất để cải tổ các doanh nghiệp nhà nước đồng thời vẫn củng cố được vai trò của khu vực kinh tế nhà nước bằng cách di chuyển linh hoạt các nguồn vốn cổ phần của mình và các công ty cổ phần ở các lĩnh vực cần thiết có sự điều tiết và kiểm soát của Nhà nước. Có thể nói cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu nếu muốn phát triển nền kinh tế trong thời kỳ hiện nay.
41 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề pháp lý trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đắn của Đảng và Nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước, tạo những động lực đáng kể để doanh nghiệp vươn lên, phát triển.
Phần II
Thực trạng cổ phần hóa thời gian qua
I. Các giai đoạn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước lần đầu tiên được nêu ra tại Nghị định hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành từ khóa VII (11/1999) và tiếp tục được cụ thể hóa tại Nghị quyết hội nghị giữ nhiệm khóa 11(1/1994), Nghị định 10/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 17/03/1995, thông báo số 63/TB-TW ngày 04/04/1997 và đã được khẳng định rõ hơn tại Nghị quyết Đại hội VII vừa qua. Nhìn chung quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được chia làm 2 giai đoạn:
1. Giai đoạn thí điểm (1992-1995): trong giai đoạn này Chủ tịch HĐBT đã ban hành các văn bản như: Quyết định số 202/CT ngày 8/06/1992, chỉ thị số 84.
2. Giai đoạn mở rộng (từ 1996 - nay): Trong giai đoạn này, cổ phần đã ban hành Nghị định 28/CP ngày 07/05/1996.
II. Đánh giá chung kết quả và những các hạn chế.
Để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, pháp luật hiện hành đã quy định doanh nghiệp được sử dụng một phần số tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước để đào tạo, đào tạo lại nhằm giải quyết việc làm mới cho người lao động, đồng thời trợ cấp cho người lao động dôi dư. Tuy nhiên, có một bất cập nảy sinh trong thực tế, đó là các doanh nghiệp cổ phần hóa (nhưng giữ nguyên phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, chỉ phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn) không biết "bám vào đâu" để trang trải cho các khoản chi phí nói trên?
Theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, có 4 hình thức để cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Hình thức thứ nhất là giữ nguyên giá trị vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu thu hút vốn, thứ hai là bán một phần giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; thứ ba là tách một bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hóa và hình thức thứ tư là bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Trong 4 hình thức nêu trên, hình thức đầu tiên được coi là có ý nghĩa nhất trong việc huy động vốn của xã hội cho phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Hơn nữa, việc cổ phần hóa theo hình thức thứ nhất sẽ nâng cao chất lượng cổ phần hóa, vì theo hình thức này, vốn điều lệ của doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa sẽ được nâng lên cao hơn. Do vậy, có thể thấy, những đơn vị lựa chọn cổ phần hóa theo hình thức này là những đối tượng thực sự có tư tưởng tích cực đối với công tác cổ phần hóa, thực sự có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh sau khi doanh nghiệp được chuyển đổi thành công ty cổ phần, chứ không phải cổ phần hóa để "đối phó", lấy số lượng thay vì chất lượng.
Trong khi đáng lẽ phải được khuyến khích, thì một số doanh nghiệp cổ phần hóa theo hình thức này lại phàn nàn rằng, họ rất lúng túng không biết mình sẽ được dùng nguồn vốn nào để trợ cấp cho số lao động dôi dư, hoặc đào tạo lại cán bộ. Đại diện của công ty cổ phần dịch vụ kỹ thuật viễn thông tâm sự với phóng viên báo Đầu tư Chứng khoán rằng, họ rất lo lắng không biết có được dùng vốn nhà nước như quy định hay không, vì chi phí cho những vấn đề phát sinh trong quá trình cổ phần hóa là rất lớn. Về phần mình, ông Nguyễn Quốc Gia, Thường trực cổ phần hóa thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông cho rằng, sẽ rất thiệt thòi cho các doanh nghiệp cổ phần hóa theo hình thức huy động thêm vốn, nếu họ không được trợ giúp của Nhà nước cho đào tạo cán bộ và trợ cấp cho lao động dôi dư.
Giải thích về vấn đề trên, ông Lê Hoàng Hải, Trưởng ban cổ phần hóa thuộc Bộ Tài chính cho biết, các doanh nghiệp cổ phần hóa theo hình thức này thì chi phí cổ phần hóa sẽ được trừ vào phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo Thông tư số 104/1998/TT-BTC hướng dẫn những vấn đề về tài chính khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần thì chi phí cổ phần hóa chỉ là những khoản chi cho lập phương án cổ phần hóa, xây dựng điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần, thuê kiểm toán… tuyệt nhiên không có chi phí cho trợ cấp cho lao động dôi dư và đào tạo cán bộ. Thông tư 104 quy định rõ ràng những chi phí về đào tạo và đào tạo lại cán bộ, cũng như trợ cấp cho lao động dôi dư được trích từ số tiền bán cổ phần thuộc vốn nhà nước. Đến đây, có thể hiểu, những lo ngại của các doanh nghiệp cổ phần hóa theo hình thức huy động thêm vốn là hoàn toàn có cơ sở.
Khi được đề nghị giải thích về sự bất hợp lý nói trên, một quan chức của Bộ Tài chính cho rằng "đối với trường hợp này, doanh nghiệp sẽ được trích từ quỹ hỗ trợ cổ phần hóa để trang trải các chi phí". Tuy nhiên, trong cả Nghị định 44 và Thông tư 104 đều không có quy định nào cho vấn đề này và điều quan trọng hơn cả là trên thực tế, các doanh nghiệp đều không nhận được tiền.
Nếu kể cả những gian truân của doanh nghiệp để có được khoản tiền từ Quỹ hỗ trợ cổ phần hóa (do chưa có hướng dẫn về quản lý, thu nộp và sử dụng Quỹ) thì rõ ràng cơ chế chính sách hỗ trợ cổ phần hóa đang bộc lộ nhiều tồn tại cần được tháo gỡ. Các doanh nghiệp mong muốn rằng, chủ trương của Chính phủ về hỗ trợ cổ phần hóa cần được thực thi một cách nghiêm túc và kịp thời, đừng để xảy ra tình trạng bất bình đẳng, gây thiệt thòi cho một số doanh nghiệp.
Từ việc thay đổi tổ chức, Ban chỉ đạo cổ phần hóa sang ban ĐMDN và tổ chức lại hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp, việc ban hành NĐ 44 vào giữa năm 1998 thay cho các NĐ 28 và 25 trước đây, dẫn tới bộ phận chuyên viên thường trực mất thêm thời gian nghiên cứu các thông tư, văn bản hướng dẫn thực hiện… để giải thích cho các doanh nghiệp. Đặc biệt là các doanh nghiệp phải điều chỉnh lại phương án cổ phần hóa cho phù hợp với nghị định mới. Các doanh nghiệp trong diện cổ phần hóa lại có ý chần chừ, chờ trung ương điều chỉnh một số nội dung liên quan đến chính sách đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ và tiêu chuẩn người lao động nghèo của doanh nghiệp. Tiếp theo là việc chuẩn bị áp dụng luật thuế giá trị gia tăng, khiến các doanh nghiệp lúng túng khi xây dựng phương án sản xuất kinh doanh trong tương lai. Sau đó là biến động tỷ giá ngoại tệ và dao động giá thị trường xuất khẩu đối với khách hàng truyền thống của doanh nghiệp, khiến họ phải thay đổi sản phẩm ngành hàng khiến cho tiến độ cổ phần hóa vẫn còn chậm chạp.
Trên lĩnh vực vay vốn và hoạt động ngân hàng, mặc dù nhà nước đã ban hành NĐ 44/NĐ-CP (điều 13 khoản 3), Thông tư 7/1998/TT-NHNN quy định doanh nghiệp cổ phần tiếp tục thừa kế và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước trước đây, được vay vốn của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính và các tổ chức tín dụng theo cơ chế lãi suất như với doanh nghiệp nhà nước song các doanh nghiệp cổ phần cũng cho biết việc vay vốn trở nên khó khăn hơn so với thời kỳ chưa cổ phần hóa, bởi lẽ công ty không còn là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nữa.
Theo ông Vũ Lục, thành viên Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp Bộ Xây dựng, Thông tư của Ngân hàng nhà nước quy định "chỉ doanh nghiệp cổ phần hóa mà nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt mới được tiếp tục vay vốn theo cơ chế và lãi suất hiện hành áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước; còn những doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì chỉ được tiếp tục vay vốn trong 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chuyển chính thức sang hoạt động theo Luật công ty. Sau thời gian này, nếu có nhu cầu về vốn thì doanh nghiệp được vay theo cơ chế tín dụng hiện hành…".
Nhiều nhà quản lý trong các doanh nghiệp đã và đang cổ phần hóa cho rằng, quy định trên của Ngân hàng Nhà nước không chỉ đi ngược lại Nghị định của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần (điều 13) mà còn triệt tiêu những động lực thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa.
Đại diện một số doanh nghiệp đã cổ phần hóa lo ngại trước thực tế này bởi "Chính phủ tuy là cơ quan cấp cao hơn, nhưng các ngân hàng mới là người trực tiếp cho vay nên ngân hàng quy định thế nào thì doanh nghiệp phải chịu vậy".
Đại diện Ngân hàng Nhà nước trong một cuộc tiếp xúc mới đây với các chủ doanh nghiệp cổ phần hóa đã thừa nhận về sự "bất hợp lý" trong Thông tư nói trên.
Tuy nhiên, quan chức này không giải thích tại sao lại có quy định này, mà chỉ hứa, "sẽ tiếp thu ý kiến của các doanh nghiệp để về xem xét, nghiên cứu, tìm ra một giải pháp xử lý cho phù hợp". Được biết hiện nay các ngành liên quan đang soạn thảo nghị định về bảo lãnh tiền vay, hoạt động của tổ chức tín dụng… Tuy nhiên sự ra đời của những văn bản này cũng như việc đổi mới và tổ chức lại hệ thống ngân hàng nhằm phục vụ hữu hiệu cho hoạt động doanh nghiệp hiện vô cùng bức thiết hàng ngày hàng giờ và là yếu tố mang tính quyết định.
Về tiền bán cổ phần thuộc phần vốn nhà nước, điều 9 NĐ 44/1998/ NĐ-CP có quy định:
Số tiền thu được từ bán cổ phần thuộc phần vốn nhà nước ở doanh nghiệp sau khi trừ đi chi phí cổ phần hóa sẽ được sử dụng để: đào tạo, đào tạo lại để giải quyết việc làm cho người lao động; trợ cấp cho số lao động dôi dư; bổ sung vốn cho các doanh nghiệp nhà nước cần ưu tiên củng cố và đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa theo phương án được duyệt.
Nhưng trên thực tế, tiền thu từ bán phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu, cổ tức, các khoản thu từ vốn góp nhà nước tại công ty cổ phần, tiền bán các tài sản không cần dùng, tài sản ứ đọng, tài sản thanh lý, tiền thu được từ công nợ khó đòi đã bị loại trừ ra khỏi doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sở hữu, tiền thu được từ thanh lý tài sản nhà nước khi doanh nghiệp nhà nước giải thể của các doanh nghiệp hạch toán độc lập là thành viên của Tổng công ty 90 đều phải nộp cho quỹ hỗ trợ và sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp ở Trung ương. Điều này đã làm cho các Tổng công ty 90 cảm thấy rằng càng cổ phần hóa thì Tổng công ty càng bị giảm vốn nhà nước, không được dùng để tái đầu tư phát triển, làm cho Tổng công ty thiếu hăng hái cổ phần hóa doanh nghiệp thành viên.
Để khuyến khích doanh nghiệp sau cổ phần sớm ổn định phát triển, nhà nước đã có một loạt các ưu đãi về thuế, kinh phí hỗ trợ... Tuy nhiên, trong hệ thống chính sách ưu đãi còn nhiều mâu thuẫn làm hạn chế mặt tích cực của nhau. Ví dụ, việc Pháp lệnh chống tham nhũng quy định lãnh đạo doanh nghiệp không được mua cổ phần quá mức bình quân của cán bộ trong đơn vị. Hay việc điều phối không đồng đều nguồn hỗ trợ cho các công ty cổ phần dưới hình thức bán cổ phần ưu đãi. Các doanh nghiệp dù ít hay nhiều đối tượng ưu đãi chỉ được hưởng một tỷ lệ nhất định từ vốn nhà nước tại doanh nghiệp, gây nên sự thiệt thòi đối với những doanh nghiệp đông lao động.
Khâu xác định giá trị của doanh nghiệp vẫn là khâu phức tạp và có nhiều vướng mắc. Việc xác định trị giá doanh nghiệp được quy định tại điều 11 Nghị định 44/1998 còn nhiều bất hợp lý vì phương thức xác định hiện nay mới chỉ phản ánh được giá trị vật chất hữu hình và ở mức tương đối. Còn giá trị vô hình, tác nghiệp dự báo rủi ro, đánh giá tiềm năng cho nhà đầu tư vẫn chưa được tính đến. Thêm nữa, trong khi số lượng doanh nghiệp cần được định giá ngày một nhiều nhưng công tác này lại được tập trung về một đầu mối là Ban Cổ phần hóa Bộ Tài chính nên thời gian tác nghiệp kéo dài. Để đi đến quyết định giá trị tài sản của doanh nghiệp cần phải có thẩm định của các chuyên gia, nhiều khi bất đồng với các cơ quan chuyên trách. Riêng trong vấn đề này có nhiều loại tài sản rất khó định giá như các tài sản hữu hình: bí quyết sản xuất công nghiệp, lợi thế của doanh nghiệp. Thêm nữa, hiện nay các văn bản nhà nước chưa đề ra được các chuẩn mực cụ thể về giá trị sử dụng còn lại của tài sản khi đưa vào cổ phần hóa, nên khi đưa ra xác định có nhiều con số khác nhau giữa doanh nghiệp và tổ nghiệp vụ giúp việc cho hội đồng thẩm tra.
Tại Nghị định 44 của Chính phủ ngày 29-06-1998 đã quy định mức ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa mỗi năm làm việc được mua tối đa 10 cổ phần theo giá ưu đãi, là giá được giảm 30% so với các đối tượng khác. Nhà nước đã cho phép dành ra 20% vốn nhà nước để làm việc này. Đó là theo quy định hiện hành. Do mức đầu tư vốn của Nhà nước vào doanh nghiệp và số lượng lao động ở các doanh nghiệp khác nhau nên khi áp dụng Nghị định 44 thực tế có sự chênh lệch khá lớn về mức ưu đãi cho người lao động.
Có những doanh nghiệp ít lao động, nhất là ngành thương mại, ngành công nghiệp sản xuất bằng cơ khí hóa, tự động hóa thì lao động rất ít nhưng vốn nhà nước nhiều cho nên 20% này sử dụng không hết để chi cho người lao động mỗi một năm 10 cổ phần ưu đãi. Ngược lại có nhiều doanh nghiệp mới thành lập sau này hoặc là những doanh nghiệp có nhiều lao động thủ công nhưng vốn nhà nước rất ít. Cho nên có nơi chỉ được 3-4% ưu đãi, tạo ra tình trạng chênh lệch: cùng làm việc nhà nước, nhưng người ở doanh nghiệp này được 10 cổ phần, người ở doanh nghiệp khác được 3-4 cổ phần, không bình đẳng. Để tạo ra sự công bằng, theo đó mỗi người đều được hưởng số cổ phần ngang nhau tính trên số năm công tác thì cần phải có sự điều hòa vốn từ xí nghiệp thừa sử dụng không hết sang cho những xí nghiệp thiếu.
Điều 12 NĐ 44/1998 quy định: khi xác định giá trị doanh nghiệp, chỉ doanh nghiệp nào không thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán thống kê thì cơ quan quyết định xác định giá trị doanh nghiệp xem xét thuê kiểm toán độc lập xác định, quy định này hoàn toàn không đúng. Cổ phần hóa là bán một tài sản của Nhà nước cho nhiều đối tượng khác. Những người mua không có đủ điều kiện để thẩm tra công ty được cổ phần hóa. Theo Thông lệ quốc tế, kiểm toán viên chính là người đại diện cho người mua cổ phần xem xét và xác nhận thông tin và kiểm toán viên chịu trách nhiệm hoàn toàn với người mua cổ phần xem xét và xác nhận thông tin và kiểm toán viên chịu trách nhiệm hoàn toàn với người mua cổ phần.
Từ ngày 13-07-1999, quyết định số 145 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài có hiệu lực thi hành. Các nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội mở rộng thị trường tuy vẫn chưa được hài lòng. Lý do là vì Chính phủ quy định người nước ngoài chỉ được mua số cổ phiếu tối đa bằng 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp cổ phần hóa. Số vốn này chưa thỏa mãn khả năng tham gia của các nhà đầu tư. Danh mục các doanh nghiệp nhà nước được bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài còn chưa có nhiều ngành nghề hấp dẫn. Hiện nay mới chỉ có 4 công ty tiến hành bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài là công ty đồ hộp Hạ Long, công ty may Bình Minh (Tổng công ty may Việt Nam) công ty chế biến hạt điều Long An và công ty cổ phần cơ điện lạnh. Tuy nhiên việc phát hành một loại cổ phiếu riêng cho người nước ngoài hiện gây một tâm lý không tốt, làm cho nhà đầu tư nước ngoài chưa tin tưởng vào chính sách của Việt Nam.
Phần III
Các quan điểm và giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới
I. Những thuận lợi và khó khăn cho việc đẩy mạnh cổ phần trong thời gian tới.
1. Các thuận lợi của việc cổ phần hóa trong giai đoạn tiếp theo.
Thuận lợi đầu tiên mà chúng ta phải kể đến đó là môi trường chính trị xã hội tiếp tục được ổn định. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự nhất trí cao của Đảng cũng như của Quốc hội, của Chính phủ, ở sự tin tưởng của nhân dân đối với các cơ quan lãnh đạo nhà nước. Kinh nghiệm của Nga và các nước Đông Âu trước đây cũng như ở Indonexia, Thái Lan… vừa qua cho thấy môi trường chính trị xã hội ổn định là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của bất kỳ một chương trình kinh tế nào. Chính vì vậy mà có thể được coi là một trong những thuận lợi cơ bản nhất cho sự thành công của chương trình CPH ở nước ta.
Nền kinh tế đất nước phát triển trong suốt hơn 10 năm đổi mới vừa qua đã tạo ra tiền đề vật chất cho chủ trương CPH. Điều đó thể hiện trước hết ở mức độ tích lũy trong dân cư ngày càng cao. Qua các đợt thu đổi tiền tệ cho thấy nguồn vốn bằng tiền trong dân chúng luôn chiếm từ 65-70% khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Một bằng chứng cụ thể hơn về khả năng tích lũy của dân cư đó là việc toàn dân tham gia mua công trái trong thời gian qua. Chỉ trong vòng 2 tháng mà tổng số mua công trái đã lên tới trên 4.600 tỷ đồng. Ngoài ra còn một khối lượng lớn vàng bạc, quý kim và ngoại tệ. Đây là cơ sở vật chất khách quan có ý nghĩa to lớn đối với chương trình CPH DNNN ở nước ta. Thêm vào đó, cùng với việc tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, khả năng thu hút các nguồn lực từ bên ngoài của nước ta ngày càng tăng lên. Đây là một thuận lợi cho quá trình CPH DNNN, đặc biệt là khi những quy định về việc bán cổ phần cho người nước ngoài được hoàn thiện hơn, hấp dẫn hơn.
Ngoài ra, chúng ta còn có thuận lợi của một bước đi sau trong công việc tiếp thu kinh nghiệm CPH của các nước đi trước như Nga, các nước Đông Âu, Trung Quốc, các nước Mỹ La Tinh và các nước đang phát triển khác.
Những thành quả cũng như kinh nghiệm thu được của các giai đoạn trước cũng là những thuận lợi không nhỏ cho quá trình CPH tiếp theo. Nhiều khó khăn từ giai đoạn trước đã được từng bước khắc phục. Điều đó thể hiện ở việc khung pháp lý cho CPH ngày càng được hoàn thiện, nhận thức tư tưởng của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là của các cấp lãnh đạo DN và CBCNV trong nhiều DN đã có những chuyển biến tích cực. Công việc tổ chức chỉ đạo thực hiện được tập trung hơn, hiệu quả hơn, năng lực chỉ đạo thực hiện, giải quyết các vấn đề phát sinh của cơ quan chỉ đạo cũng được nâng cao đáng kể.
Những thuận lợi cơ bản nêu trên cho phép chúng ta có cơ sở để tin rằng mục tiêu CPH cho năm 1999, 2000 có khả năng sẽ thành công.
Mặc dù vậy, con đường phía trước của CPH không hề suôn sẻ. Điều đó sẽ được trình bày ở phần sau đây.
2. Tiến trình cổ phần hóa vẫn gặp những trở ngại.
2.1. Vấn đề nhận thức tư tưởng vẫn còn nhiều hạn chế.
Cuộc khảo sát thăm dò một số DN ở Hà Nội vào tháng 9/1998 cho thấy những tinh thần, nội dung mới trong chính sách CPH được các DN tiếp cận và tìm hiểu rất chậm, có trường hợp chưa hiểu rõ nội dung mới. Nguyên nhân là do công tác tuyên truyền phổ biến các chính sách mới cho CNVC trong DN chưa được đẩy mạnh. Điều đó rất dễ dẫn đến tâm trạng nghi ngờ, thiếu tin tưởng trong ban lãnh đạo các DN cũng như trong tập thể CNVC.
Về phía người dân, cho đến thời điểm này, nhiều người vẫn còn thực sự chưa hiểu được CPH là gì và để làm gì.
Những nội dung chưa thật sự hợp lý trong chính sách của Nhà nước như những quy định về ưu đãi cổ phiếu cho cán bộ, quản lý, lãnh đạo DN; Những vướng mắc xung quanh việc xác định tiêu chuẩn lao động nghèo cũng là một trong những nguyên nhân gây ra sự cố ý chần chừ, chờ cho các quy định trên được điều chỉnh. Do đó đã làm chậm tiến trình CPH.
Mặt khác, xuất phát từ lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ mà nhiều cơ quan Trung ương, nhiều cấp bộ ngành không sẵn sàng phê chuẩn các phương án CPH của các DN lớn, làm ăn có hiệu quả. Tâm lý thích làm việc trong DNNN hơn tuy đã được khắc phục một phần song vẫn còn tồn tại trong tư tưởng của CBCNV ở nhiều DN.
Nhiều vị Giám đốc thiếu năng lực, lâu nay vẫn trực tiếp hoặc gián tiếp tồn tại nhờ vào sự bảo trợ của Nhà nước, vì lợi ích cá nhân đã gây không ít trở ngại cho quá trình CPH. Họ cố tình kéo dài thủ tục, gây tâm trạng lo lắng băn khoăn cho CNVC trong DN.
Có thể nói cho đến nay, những tồn tại trong nhận thức tư tưởng vẫn là một trong những trở lực lớn nhất cho bánh xe CPH ở nước ta.
2.2. Những tồn tại trong chính sách của Nhà nước.
2.2.1. Chính sách đối với người lao động.
a. Về vấn đề tài chính.
Nghị định 44/1998/NĐ-CP đã mở rộng mức ưu đãi cho người lao động tới 205 giá trị vốn nhà nước. Giá trị ưu đãi này thực hiện thông qua bán giảm giá 30% so với giá trị cổ phần thường và những cổ phần này hoàn toàn được thừa kế và chuyển nhượng. Tuy vậy lại nảy sinh vấn đề là chính sách ưu đãi mới chỉ đáp ứng được một phần nguyện vọng của người lao động: Đó là đảm bảo sự công bằng song chưa đảm bảo cho người lao động thực hiện được. Trên thực tế, người lao động ở DN đa phần là người nghèo, không có hoặc không đủ tiền để mua cổ phần nên cơ hội đã được ưu đãi là rất hạn chế. Như vậy, nếu ai đó không thuộc diện người lao động nghèo nhưng lại không có tiền mua cổ phần thì họ hoàn toàn không được hưởng những ưu đãi từ phía nhà nước.
Hoặc xét trên một khía cạnh khác: Giả sử một người lao động có thâm niên 30 năm công tác tại DN, họ được mua 300 cổ phần, có giá trị 30 triệu đồng và phải trả 27 triệu đồng. Đây là một món tiền lớn mà người lao động rất khó có được. Những điều đó chưa quan trọng bằng vấn đề liệu đồng tiền bỏ ra có sinh lợi không? Họ nên sử dụng biện pháp gửi tiền tiết kiệm hoặc chuyển thành USD để giữ giá đồng tiền hay nên đầu tư mua cổ phiếu trong khi tỷ suất lợi nhuận trên vốn của đa số các DNNN chỉ đạt khoảng 5%/năm mà đồng Việt Nam thì mất giá đến 9-10%? Đây cũng là một trong những vướng mắc khiến người lao động cảm thấy không đảm bảo khi đầu tư vào DNNN CPH.
Đối với người lao động nghèo, nhà nước có những ưu đãi đặc biệt. Tuy nhiên số lượng cổ phần ưu đãi này rất nhỏ, chỉ chiếm có 20% tổng số cổ phần nhà nước bán ưu đãi cho người lao động, có nghĩa là chỉ 4% số vốn nhà nước tại DN. Đáng chú ý là còn nhiều khó khăn trong việc xác định tiêu chí người nghèo để giải quyết chính sách ưu đãi. Mới đây Bộ LĐTB-XH hướng dẫn lại với mức 300.000 đồng bình quân đầu người là tiêu chuẩn để xác định. Theo ông Nguyễn Minh Thông - phó trưởng ban, Ban đổi mới quản lý DNTW thì quy định này đang làm nảy sinh 2 vướng mắc:
Thứ nhất, xác định như thế nào đối với thu nhập bình quân, đặc biệt khi một người trong gia đình làm trong DNNN còn người khác buôn thúng bán bưng, nghĩa là không có mức thu nhập ổn định.
Thứ hai, trên thực tế mỗi vùng, mỗi địa phương có mức thu nhập khác nhau, do đó nếu quy định mức tuyệt đối sẽ là quá cao đối với vùng này nhưng lại thấp với vùng kia. Do đó mức 300.000 đồng được chấp nhận ở một số địa bàn còn một số địa bàn khác thì không. Vì thế tiêu chí này vẫn chưa được áp dụng cho năm 1999. Chính tính thiếu ổn định trong chủ trương của Nhà nước tạo ra những lỗ hổng cơ bản trong tiến trình CPH DNNN.
Ngày 09/01/1999 Bộ LĐTB-XH đã ban hành Thông tư 03/1999/TT-LĐTBXH sửa tiêu chuẩn người lao động nghèo trong Thông tư số 11 theo tinh thần mở rộng hơn, giao cho Giám đốc DN, Đảng ủy, Công đoàn lựa chọn và thông qua hội nghị CBCNV trong khuôn khổ 20% tổng số cổ phần bán ưu đãi cho từng DN. Liệu đây có phải là giải pháp tốt nhất cho vấn đề này không? Liệu người lao động có phải chịu thêm những phiền hà hay nạn quan liêu không? Điều này vẫn còn khiến cho người lao động lo ngại khi DN được CPH.
b. Về vấn đề việc làm.
Mặc dù điều 6 Nghị định 44/CP có quy định "DN tiến hành CPH có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng hết số lao động hiện có tại DN...". Lẽ ra người lao động có thể tương đối an tâm về việc làm nhưng điều 14.3 lại quy định "sau 12 tháng, kể từ khi DNNN chuyển thành CTCP, nếu do nhu cầu tổ chức lại SXKD, thay đổi công nghệ, dẫn đến người lao động mất việc làm thì chính sách đối với những người lao động này được giải quyết theo những quy định hiện hành của Chính phủ". Điều này có nghĩa là họ chỉ được tiếp tục làm việc ổn định trong vòng 12 tháng, còn sau đó tùy thuộc vào tình hình thực tế của DN. Rõ ràng điều này chưa đủ sức thuyết phục đối với họ. Điều mà người lao động luôn quan tâm hơn hết là việc làm ổn định thì chính sách của Nhà nước lại chưa đáp ứng được, chưa đảm bảo được. Mặc dù trên thực tế, hầu hết ở các DNNN đã CPH đều có số lao động tăng lên nhưng điều đó không có nghĩa là toàn bộ số người lao động của DNNN đó trước CPH hiện vẫn còn đang có việc làm. Đây chính là điểm mà chủ trương của nhà nước vẫn chưa giải quyết được.
2.2.2. Những tồn tại trong các quy định liên quan đến vấn đề tài chính.
Đây là một trong những vấn đề khá phức tạp, có một số điểm mà nhiều DN cho rằng quy định của Nhà nước chưa bình đẳng giữa lợi ích của Nhà nước, DN và người lao động.
Thứ nhất, là việc xử lý vốn tự có và vốn tự bổ sung của DN khi CPH. Theo quy định hiện hành thì toàn bộ số vốn này được coi là của Nhà nước và được nộp vào số vốn DN đã được cấp trước đây để hình thành phần vốn thuộc sở hữu nhà nước tại DN. Xét về phần vốn tự có thì tất nhiên một phần cơ bản thuộc về nhà nước và DN do nhà nước thành lập, cấp vốn ban đầu và từ số vốn ban đầu này, DN kinh doanh có lãi. Tuy nhiên khi xét về phần vốn tự bổ sung thì có công đóng góp của mỗi DN vì nhiều DN đã tiết kiệm, bớt chi tiêu các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi để bổ sung vốn cho SXKD trong khi vẫn luôn hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước. Hiện tại, một số ngành có tỷ trọng vốn tự bổ sung cao như ngành vận tải. Vì vậy nếu đánh đồng tất cả các DN để coi toàn bộ số vốn này là của Nhà nước thì có lẽ còn nhiều điều bất hợp lý.
Thứ hai, là còn gặp khó khăn trong việc xác định giá trị DN, đặc biệt là việc xác định hệ số lợi thế và giá trị chuyển quyền sử dụng đất. Ngoài ra, còn nhiều khía cạnh mà chủ trương của DN còn chưa rõ ràng. Ví dụ phần vốn góp liên doanh của DN CPH không được hướng dẫn cụ thể trong trường hợp CPH cả phần vốn đất nước góp vào liên doanh. Do đó ảnh hưởng đến giá trị DN, đến các nhà đầu tư và giá trị phần vốn nhà nước. Thực tế cho thấy việc xác định giá trị DN là khâu rắc rối và mất nhiều thời gian nhất dẫn đến tình trạng chậm trễ trong tiến trình CPH. Ngoài ra việc xử lý các khoản nợ khó đòi đang là vấn đề gây ra rất nhiều khó khăn cho các nhà chỉ đạo.
2.2.3. Về việc bán cổ phần cho người nước ngoài.
Ngày 28/06/1999, Chính phủ ra quyết định về ban hành quy chế bán cổ phần cho người nước ngoài với mức khống chế 30% vốn điều lệ công ty làm cơ sở pháp lý cho việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên việc triển khai bán cổ phần cho người nước ngoài vẫn gặp phải một số hạn chế:
- Theo quy chế quy định việc xác định giá trị DN được bán cổ phần cho người nước ngoài áp dụng các quy định tại Nghị định 44/CP bằng phương pháp lợi nhuận thặng dư. Trong khi đó nhà đầu tư nước ngoài lại muốn giá trị DN phải được xác định thông qua các công ty kiểm toán và các chuyên gia về định giá chuyên nghiệp.
- Các quy định về triển khai bán cổ phần cho người nước ngoài chưa được hoàn thiện, chưa có những hướng dẫn cụ thể về cổ phiếu giành cho nhà đầu tư nước ngoài.
II. Một số giải pháp đẩy mạnh nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.
1. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng.
Như đã phân tích trong phần trên, những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực lớn nhất, đầu tiên trong việc tiến hành CPH ở bất cứ một DNNN nào. Do đó, giải đáp những thắc mắc cho CBCNV trong DN cũng như những người có liên quan phải được coi là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên cần làm, và nên làm trước khi công việc CPH được tiến hành.
Bởi vì chủ trương CPH ở nước ta hiện nay là ưu tiên cho CBCNV trong DN cho nên đối tượng đầu tiên cần được phổ biến chính là họ. Việc phổ biến chủ trương theo chúng tôi cần phải đạt được những yêu cầu tối thiểu sau:
- CBCNV trong DN phải ý thức một cách rõ ràng CPH là một yêu cầu tất yếu khách quan, không sớm thì muộn cũng phải thực hiện. Trong giai đoạn này, tiến hành càng sớm thì DN càng được lợi do nhà nước vẫn còn dành rất nhiều ưu đãi cho các DNNN tiến hành CPH. Kinh nghiệm của các DN đi trước đã được đúc kết tương đối đầy đủ. Hơn nữa CPH sớm sẽ giúp cho DN có điều kiện hơn trong việc ổn định tổ chức SXKD, chuẩn bị tốt hơn cho việc cạnh tranh khốc liệt trong tương lai khi chúng ta tham gia AFTA. Trông chờ, ỷ lại lúc này chính là con đường ngắn nhất dẫn đến chỗ phá sản.
- Họ cũng cần hiểu rằng, CPH trước hết là vì lợi ích của các DN, của CBCNVcủa DN. Sau khi trở thành CTCP, họ sẽ được hoàn toàn độc lập tự chủ trong SXKD, song tất nhiên họ cũng phải biết tự mình chống đỡ với những cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường. Đây là điều không thể tránh khỏi. Nhưng đây cũng là cơ hội để cho những người có thực lực, thực tài, những DN thực mạnh vươn lên tự khẳng định mình. Còn đối với những DN yếu, những người thiếu năng lực, trình độ thì cũng phải nhận ra một điều là đã đến lúc họ phải thay đổi, phải tự vươn lên hoàn thiện mình nếu không họ sẽ bị đào thải theo quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
- Phải làm rõ cho người lao động hiểu những lợi ích mà họ được hưởng khi DN của họ tiến hành CPH. Song cũng đồng thời phải làm cho họ hiểu rõ cả những trách nhiệm mà họ sẽ phải gánh vác, những rủi ro có thể xảy ra để họ có cái nhìn đẩy đủ toàn diện, làm cơ sở cho nỗ lực quyết tâm của họ.
- Ngoài ra một vấn đề nữa cần lưu tâm giải thích là vấn đề phân định rạch ròi giữa quyền của một cổ đông với quyền của một người lao động trong DN, tránh để rơi vào tình trạng CBCNV mua cổ đông để giữ vị trí, giữ công việc. Và cũng tránh để xảy ra những rắc rối khi DNCP cần phải sắp xếp lại nhân sự sau này.
Để hỗ trợ việc tuyên truyền các mục tiêu thì đài, báo vô tuyến truyền hình là những phương tiện hết sức đắc lực. Tuy nhiên để công tác tuyên truyền thực sự đi sâu, đi sát với CBCNV thì cần phải có nhiều biện pháp khác, sát sườn hơn. ở đây, chúng tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm mà nhiều DN đã áp dụng tốt. Đó là việc cung cấp cho CBCNV trong DN những văn bản, có nội dung liên quan trực tiếp đến chủ trương CPH. Sau đó tổ chức các buổi nói chuyện có mời các chuyên gia giỏi về nhằm giải đáp những thắc mắc của họ đồng thời cũng tạo điều kiện cho họ được góp ý kiến tham gia việc xây dựng đề án CPH... Ngoài ra, để công tác phổ biến, tuyên truyền được đều đặn và kịp thời, theo chúng tôi, các cơ quan có chức năng nên tổ chức các lớp tập huấn cho những cán bộ chủ chốt trong DN như Giám đốc, lãnh đạo Đảng, lãnh đạo công đoàn trong DN. Ngoài việc phát huy vai trò lãnh đạo tư tưởng của tổ chức Đảng trong DN cần có một cơ quan thường trực bao gồm những người có uy tín, nắm vững chủ trương của Đảng và Nhà nước để giải đáp những thắc mắc cho CBCNV đồng thời tiếp thu những ý kiến của họ phản ánh lên cơ quan cấp trên. Cơ quan này nên là một bộ phận của tổ chức công đoàn DN.
Đối với các cổ đông tiềm năng bên ngoài DN thì không có biện pháp tuyên truyền nào hiệu quả bằng các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là những tờ báo có uy tín cũng như đài phát thanh và truyền hình TW. Chương trình thời sự cũng như các bộ phim, những câu chuyện truyền thanh là những chương trình mà theo chúng tôi thu hút được rất nhiều khán thính giả. Việc đưa tin về các CTCP làm ăn có hiệu quả, những buổi phỏng vấn trực tiếp trên đài truyền thanh, truyền hình về chủ trương CPH; những bộ phim hay, thiết thực về CPH chắc chắn sẽ đóng góp rất nhiều cho việc tuyên truyền cho đông đảo công chúng các chủ trương đúng đắn của Nhà nước nói chung, chủ trương CPH nói riêng.
Đối với những hành động chây ỳ, có ý cản trở việc thực hiện chủ trương này thiết nghĩ, cần có những chế tài xử lý nghiêm minh, có như vậy vai trò chỉ đạo của các cơ quan, tổ chức mới được đảm bảo, trên cơ sở đó tiến hành đẩy nhanh các công đoạn của quy trình CPH.
2. Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý.
Theo tin từ ban CPH DNNN thì nhà nước đã có chủ trương phân loại DNNN thành 4 nhóm.
- Nhóm DN làm ăn có hiệu quả.
- Nhóm DN có khó khăn về tài chính.
- Nhóm DN có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
- Nhóm DN thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở lên).
Ba nhóm đầu thuộc diện CPH, còn nhóm thua lỗ kéo dài, nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi CPH, đấu thầu cho thuê, bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoài DN, thực hiện biện pháp khoán hoặc cho phá sản.
Những biện pháp nói trên áp dụng cho nhóm 4 theo chúng tôi là hợp lý. Tuy nhiên, nhiều biện pháp trong số đó như khoán kinh doanh, cho thuê vẫn còn nhiều mới mẻ. Do đó cơ sở pháp lý cho chúng vẫn chưa hoàn thiện. Song nếu các biện pháp khoán kinh doanh cho thuê mà thành công thì đây sẽ được coi là những giải pháp quá độ có nhiều tác dụng thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả SXKD của các DNNN để tiến tới CPH.
Còn đối với các DNNN gặp khó khăn về tài chính thì việc thành lập quỹ hỗ trợ CPH sẽ là một giải pháp quan trọng. Nhiệm vụ và vai trò của quỹ CPH không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ cho các DN gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên, hỗ trợ tài chính cho các DN vẫn là một trong những chức năng chính của quỹ này.
Nguồn vốn của quỹ có thể hình thành từ 3 nguồn chính.
- Tiền thu từ việc bán cổ phiếu thuộc vốn nhà nước tại DN.
- Vốn trợ cấp từ NSNN.
- Vốn tài trợ lần đầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (chủ yếu là vốn vay ưu đãi).
Ngoài ra còn có thể là những khoản thu từ việc thanh lý tài sản trong DNNN khi tiến hành CPH.
Hoạt động hỗ trợ của quỹ có thể được thực hiện dưới một hình thức sau:
- Kế thừa hoặc mua lại nợ của DN.
- Cho DN vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi. Như vậy, quỹ CPH cũng góp phần giải quyết vấn đề nợ đọng trong nhiều DNNN hiện nay.
Sự hỗ trợ của quỹ CPH sẽ có tác dụng giải quyết nhiều khó khăn cho DN, từ đó giúp DN nâng cao hiệu quả SXKD, tiến tới làm ăn có lãi. Có thể nói "làm ăn có lãi" là điều kiện rất quan trọng, nhiều khi là nhân tố có tính quyết định cho sự thành công của việc CPH nhiều DN.
Với ý nghĩa đó, việc nâng cao hiệu quả SXKD cũng chính là mục tiêu cơ bản của những giải pháp đối với các DN gặp khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
Giá thành sản xuất lên cao có thể có nhiều nguyên nhân song suy cho cùng nguyên nhân quan trọng nhất vẫn nằm trong khâu quản lý. Người quản lý tốt có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất sẽ biết phải làm gì khi thua lỗ xảy ra. Khi thua lỗ do nguyên nhân khách quan đưa lại, không thể khắc phục được thì người đó cần tìm cách chuyển hướng SXKD hoặc tuyên bố phá sản. Những DN không có khả năng khắc phục đã được xếp vào nhóm 4. Những DN có khả năng khắc phục nhưng do quản lý tồi, người quản lý kém năng lực, trình độ thậm chí mất phẩm chất thì cách giải quyết duy nhất theo chúng tôi là thay đổi nhân sự trong ban quản lý DN. Việc lựa chọn người lãnh đạo mới không phải là việc dễ dàng, song nên đưa ra một tiêu thức để lựa chọn là người lãnh đạo đó phải lập được phương án SXKD có hiệu quả và khả thi trên cơ sở của máy móc, công nghệ, lao động của DN hiện tại. Một số tiêu chí nữa có thể kể đến là uy tín của người đó đối với CBCNV trong DN, khả năng tổ chức nhân sự.
Với biện pháp cải cách như trên chúng tôi có nhiều tin tưởng là hiệu quả SXKD của DN sẽ được nâng lên. ở đây cũng xin lưu ý là chúng ta phải có những ưu đãi, khuyến khích đối với các nhà quản lý, gắn trách nhiệm của họ với quyền lợi, gắn lợi ích của họ với hiệu quả SXKD của DN.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin đề nghị với Chính phủ và Nhà nước nên sớm có chủ trương củng cố công tác đào tạo trong ngành quản trị kinh doanh. Khi nền kinh tế phát triển, công tác quản lý được chuyên môn hóa thì nhu cầu đối với các Giám đốc giỏi sẽ không nhỏ. Trong khi đó công tác đào tạo ngành quản trị kinh doanh hiện nay xem ra vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu nhất là yêu cầu về chất lượng, vì rằng nếu không có các nhà quản lý giỏi thì các động lực về kinh tế cho dù có mạnh đến đâu cũng khó có thể bù đắp được cho những thiếu hụt về trình độ.
3. Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến hành CPH.
Cơ chế biên chế trong giai đoạn trước đã dẫn đến tình trạng tuyển chọn lao động tràn làn, bất chấp trình độ nghề nghiệp và hiệu quả SXKD trong nhiều DNNN. Theo ước tính, tổng số lao động đang làm việc tại 5.790 DNNN vào khoảng 1,8 triệu người. Song chất lượng lao động rất thấp: Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chỉ chiếm 10-12% số còn lại chủ yếu là lao động phổ thông. Những con số này cũng phản ánh phần nào những khó khăn đối với việc giải quyết vấn đề lao động dôi dư sau khi tiến hành cải cách DNNN cũng như CPH. Bởi vì cùng với việc chú trọng nâng cao hiệu quả SXKD thì việc làm tất yếu của các DN là phải giảm bớt số lao động dư thừa, không đủ trình độ. Con số này quả là không nhỏ trong nhiều DNNN hiện nay.
Giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề rất phức tạp, có tính xã hội sâu sắc. Song đó là việc mà chúng ta không thể né tránh.
Trước hết chúng ta phải thống nhất với nhau một điều là việc giải quyết vấn đề lao động dôi dư đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía là DN và nhà nước cụ thể hơn là Chính phủ và các cấp Bộ, ngành có liên quan. Trong sự hợp tác đó thì DN là người có trách nhiệm trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, còn nhà nước chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ và phân giải các mâu thuẫn giữa DN với người lao động.
Về các giải pháp cụ thể, sau một quá trình nghiên cứu, tham khảo tài liệu, chúng tôi nhận thấy những giải pháp mà tác giả Đặng Quyết Tiến trong bài "Lao động dôi dư - những hướng giải quyết" (Báo Tài chính) số tháng 10 năm 1998, 25) đưa ra là những giải pháp khá sâu sắc và toàn diện. Nội dung của các giải pháp đó chúng tôi xin phép được trình bày tóm tắt như sau:
- Đối với DN: Phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên cơ sở đề án SXKD của DN với một số nội dung chính là:
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra các hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu (người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưu) có thể trợ cấp để đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại (chiếm đa số), có nhiều hướng giải quyết như tái sử dụng sau khi đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới.
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện có tại DN có thể lấy từ các nguồn quỹ sau: Quy khen thưởng, phúc lợi, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào tạo của đơn vị (nếu có).
- Đối với nhà nước: Nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián tiếp.
+ Hỗ trợ trực tiếp theo tác giả chỉ tập trung vào: Hỗ trợ một phần kinh phí cho DN. Mà nguồn hỗ trợ chính có thể lấy ra từ quỹ CPH DNNN. Những hỗ trợ này nên nhằm vào việc đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động: Hỗ trợ bổ sung cho người lao động nghèo tại DN để họ có thể đảm bảo đời sống trong thời gian đầu bị mất việc (khoảng từ 6 tháng đến một năm).
+ Hỗ trợ gián tiếp: Hỗ trợ về cơ chế và chính sách lập nghiệp đối với lao động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê đất, về thuế SXKD.
Trong các giải pháp nêu trên, cũng như tác giả của bài báo, chúng tôi nhất trí rằng giải pháp khuyến khích lập nghiệp, tự tạo việc là giải pháp cần được nhân rộng. Đây là giải pháp có tác dụng kích thích sự sáng tạo tự chủ của người lao động. Đã đến lúc người lao động phải chủ động, sáng tạo vươn lên đối mặt với những khó khăn, thách thức để có những bước phát triển vững vàng. Tư tưởng cầu an, ỷ lại vào nhà nước cần phải được khắc phục. Có như vậy nền kinh tế đất nước mới phát triển.
Ngoài ra, đào tạo, và đào tạo lại nghề nghiệp cho số lao động dôi dư cũng cần phải được xem là giải pháp vừa mang tính sách lược lừa mang tính chiến lược. Thực tế CPH trong những năm qua đã cho thấy nhiều DN CPH sau khi đi vào SXKD ổn định thì thường có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Song những lao động đó phải là người có tay nghề, đã qua đào tạo. Về mặt lâu dài, khi kinh tế phát triển, sẽ có ngày cần nhiều những ngành đòi hỏi công nhân có tay nghề và trình độ chuyên môn. Nếu chúng ta không chuẩn bị ngay từ bây giờ thì e rằng tình trạng "thừa việc, thiếu người" trong nhiều DN, nhất là các DN có vốn đầu tư nước ngoài như hiện nay sẽ càng trầm trọng thêm.
4. Giải pháp cho những tồn tại trong vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp.
Nghị định 44/CP ra đời với những quy định cụ thể, rõ ràng hơn đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề rất nan giải trong quá trình xác định giá trị DN trước đây. Ví dụ như việc các tài sản DN không có nhu cầu sử dụng bao gồm tài sản không cần dùng và tài sản không có khả năng phục hồi cho quá trình SXKD đã được loại trừ ra khỏi giá trị DN khi tiến hành CPH. Các tài sản hình thành từ quỹ phúc lợi tiếp tục quản lý sử dụng. Hay như vấn đề công nợ khó đòi cũng được quy định rất rõ ràng. Với các khoản công nợ khó đòi nếu có chứng cứ hợp lệ cũng không tính vào giá trị DN CPH.
Những quy định mới này đã góp phần đẩy mạnh công tác CPH trong suốt giai đoạn từ nửa cuối năm 1998 đến nửa đầu năm 1999.
Tuy nhiên xung quanh vấn đề xác định giá trị DN vẫn còn một số tồn tại.
Thứ nhất, việc xác định còn phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc chồng chéo, nhiều khi gây ra tình trạng phân công trách nhiệm không rõ ràng, đã làm chậm quá trình này.
Để giải quyết tình trạng trên thì phân cấp trách nhiệm là rất cần thiết. Theo đó, chỉ có DN TW mới do Bộ Tài chính thẩm định giá trị và Bộ Tài chính giao cho Tổng cục quản lý vốn, còn địa phương thì giao cho Cục Quản lý vốn.
Trong quá trình thẩm định, nếu giá trị tài sản cao hơn so với sổ sách 30% thì vẫn cho phép cấp dưới tiến hành mà không phải gửi lên trên.
Thứ hai, trong thực tế, đối với tài sản cố định, đặc biệt là đối với máy móc thiết bị tại DN sản xuất thường xuất hiện sự mâu thuẫn giữa giá trị ghi trong sổ sách. Nguyên nhân là do nhiều trường hợp DN trước đây đã mua về các thiết bị đã lối thời, hỏng hóc nhưng được tân trang, làm mới với giá gốc khi mua cao hơn rất nhiều so với giá trị thực tế. Do đó, nên chăng để tạo điều kiện tốt hơn cho DN, Ban thẩm định nên đánh giá dựa trên giá trị sử dụng thực tế còn lại theo giá trị trường hiện tại. Như thế, sẽ phản ánh đúng hơn giá trị của tài sản.
Thứ ba, nhiều DN chuẩn bị không đầy đủ tài liệu, nhất là cơ sở pháp lý về nhà cửa, đất đai, các biên bản kiểm tra quyết toán, quyết toán thuế do đó đã làm chậm lại hoạt động của ban thẩm định. Nếu như các DN CPH chuẩn bị tài liệu, hồ sơ đầy đủ thì việc xác định giá trị DN có thể không quá 15 ngày kể từ ngày thành lập Hội đồng xác định giá trị DN.
Do vậy, Bộ Tài chính nên sớm có hướng dẫn những hồ sơ tài liệu mà DN nhất thiết phải chuẩn bị đồng thời cũng cần có những biện pháp xử lý đối với những cá nhân đã không hoàn thành công tác này. Về mặt lâu dài thì việc yêu cầu các DN áp dụng nghiêm ngặt chế độ kế toán thống kê, công khai tài chính sẽ là những giải pháp quan trọng một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị sổ sách giấy tờ, mặt khác cũng tạo giúp DN chuẩn bị tốt hơn cho quá trình gia nhập TTCK sau này.
5. Một số giải pháp cho việc khuyến khích việc thu hút vốn đầu tư của các cổ đông ngoài DN
5.1. Thúc đẩy sự ra đời của TTCK
Ông Bùi Nguyên Hoàn - Vụ trưởng UBCKNN đã có một câu nói rất hay: "Nếu ta coi đồng tiền như những giọt máu của nền kinh tế, thì muốn cho hết thảy mọi đồng tiền trong xã hội đến được với các tế bào kinh tế, một cơ chế nền kinh tế hoàn chỉnh phải có "hai con tim" "con tim ngân hàng và con tim TTCK". Quả thực là như vậy, TTCK chính là nơi gặp gỡ của những người cần có vốn để kinh doanh và những người có vốn và muốn kinh doanh (trực tiếp và gián tiếp). Sự gặp nhau qua TTCK trực tiếp hơn so với việc thông qua Ngân hàng. Nó thường đem lại nhiều lợi ích hơn cho cả DN lẫn nhà đầu tư. Sự phát triển của các TTCK trên thế giới hiện nay là một chứng thực tế cho tính ưu việt của loại thị trường đặc biệt này. Đối với tiến trình CPH ở nước ta sự ra đời của TTCK sẽ thực sự tạo ra một lực đẩy mới đẩy nhanh quá trình này. Điều này đã được phân tích nhiều ở các phần trước đặc biệt là phần bài học kinh nghiệm của Trung Quốc. ở đây chỉ xin nhắc lại một số tác dụng cơ bản.
Thứ nhất, TTCK góp phần làm tăng khả năng chuyển nhượng của các CK, trong đó có cổ phiếu do đó sẽ làm tăng sức hấp dẫn của hình thức đầu tư dưới dạng cổ phiếu.
Thứ hai, TTCK cho phép các nhà đầu tư có nhiều thông tin hơn về các DN thông qua sự biến động của các chỉ số trên thị trường này. Nó tạo ra sự giám sát công khai, khách quan đối với DN do đó làm tăng niềm tin của các nhà đầu tư, nhất là những người ở ngoài DN.
Thứ ba, Nó làm tăng khả năng thu hút vốn các nhà đầu tư nước ngoài của các DN CPH, do đó sẽ đem lại nhiều động lực thúc đẩy DN tiến hành CPH.
Với những ưu điểm cơ bản nêu trên có thể thấy sự ra đời của TTCK ở nước ta sẽ là một sự hỗ trợ đắc lực cho việc đẩy mạnh CPH trong thời gian tới, Điều này đã được chứng minh qua thực tế CPH ở Trung Quốc.
Vấn đề trước mắt cần làm là Nhà nước nên sớm xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động giao dịch cổ phiếu của các CTCP qua TTCK, hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, thúc đẩy các DN làm quen với chế độ công khai tài chính trên TTCK qua đó làm cho hoạt động của TTCK được diễn ra một cách suôn sẻ, thực sự phát huy được những tác dụng tích cực của mình.
5.2. Thành lập các quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là một loại định chế tài chính trung gian trên thị trường vốn do công ty đầu tư lập ra, huy động tiền của nhiều nhà đầu tư bằng cách bán cổ phiếu của Quỹ cho các cổ đông rồi dùng khoản tiền đó mua trái phiếu hoặc cổ phiếu của nhiều hạng mục đầu tư để sinh lợi và bảo toàn vốn. Cổ đông của Quỹ có thể bán cổ phần của Quỹ bất kỳ lúc nào tại TTCK hoặc bán lại cho Quỹ tùy hình thức hoạt động Quỹ.
- Mỗi quỹ có một nhà quản lý chuyên nghiệp, và một đội ngũ chuyên viên phụ tá, có trách nhiệm phân tích chọn danh mục đầu tư, theo dõi tình hình hoạt động của các công ty nằm trong danh mục đầu tư và đưa ra những quyết sách khi có biến động ảnh hưởng đến hậu quả đầu tư của quỹ. Quỹ được tiếp thị rộng rãi đến nhà đầu tư bằng cách quảng cáo, thư mời hay qua các trung gian khác.
Đầu tư vào các quỹ đầu tư là một hình thức đầu tư có nhiều ưu đãi hơn so với đầu tư mua cổ phiếu trực tiếp của các công ty nhất là trong điều kiện TTCK chưa ra đời và phát triển. Các nhà đầu tư cá biệt thường khó có khả năng và điều kiện tìm hiểu vì hoạt động của các công ty, do đó thường gặp khó khăn khi ra quyết định đầu tư. Vì vậy họ thường phải đầu tư thông qua các tổ chức hoặc cá nhân môi giới trung gian mà quỹ đầu tư là một trong số đó. Với đội ngũ chuyên viên có trình độ, lại có nhiều điều kiện thuận lợi, quỹ đầu tư sẽ giúp các cổ đông của mình giảm bớt rủi ro khi ra quyết định đầu tư mà vẫn có khả năng thu được lãi suất khá cao.
Hơn nữa, đầu tư vào quỹ đầu tư còn giúp các nhà đầu tư phân tán rủi ro. Nếu đầu tư với tư cách là một nhà đầu tư cá biệt thì các nhà đầu tư thường khó có khả năng đầu tư vào nhiều công ty mà nếu có đầu tư thì cũng rất khó có thể theo dõi hoạt động của các công ty đó để cho ra các đối sách phù hợp. Khi đầu tư vào quỹ số vốn của các cổ đông cá biệt sẽ được tập hợp lại và đem đầu tư vào nhiều công ty khác mà vẫn đảm bảo khả năng theo dõi tốt hoạt động của các công ty đó. Hơn nữa, với việc tập hợp cổ phiếu cổ đông, các quỹ đầu tư sẽ có khả năng bảo vệ tốt hơn lợi ích của các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nhỏ tại DN.
Một nhân tố rất quan trọng làm cho đầu tư vào các quỹ đầu tư trở nên hấp dẫn hơn, nhất là đối với người dân Việt Nam hiện nay trong điều kiện chưa có TTCK là khả năng hoàn vốn. Tâm lý lo sợ đầu tư dài hạn vẫn là tâm lý chung của phần đông người dân Việt Nam. Trong khi đó, đầu tư vào các CTCP trong điều kiện TTCK chưa ra đời thì các cổ đông với khả năng chuyển nhượng thấp, thường chỉ nhận lại vốn khi công ty phá sản hoặc giải thể. Như vậy thì rủi ro quá lớn. Nhưng nếu đầu tư vào quỹ đầu tư thì nhà đầu tư có thể bán lại cho quỹ sau một thời hạn nhất định (có những loại quỹ không mua lại, nhưng trong điều kiện Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi nên khuyến khích thành lập các quỹ có hoàn vốn). Thời hạn hoàn vốn phù hợp (theo nghiên cứu của nhiều chuyên gia) nên là 3 năm vì như vậy đảm bảo.
- Ngang với thời gian huy động vốn trung hạn ở ngân hàng.
- Đủ thời gian cho các DNNN được CPH phát huy những tiềm năng hiện nay.
- Người dân không sợ bị chôn vốn quá lâu.
Công ty đầu tư sẽ lần lượt thành lập các quỹ đầu tư sau 3 năm khi quỹ đầu tư trước ra đời. Quỹ đầu tư sau sẽ có thể tái đầu tư vào những DNNN được CHP mà công ty đã được đầu tư trước đó và đầu tư vào các DNNN CHP sau này.
Kết luận
Nhờ vai trò lịch sử to lớn và những đặc điểm ưu việt của mình mà cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được coi là con đường hữu hiệu nhất để cải tổ các doanh nghiệp nhà nước đồng thời vẫn củng cố được vai trò của khu vực kinh tế nhà nước bằng cách di chuyển linh hoạt các nguồn vốn cổ phần của mình và các công ty cổ phần ở các lĩnh vực cần thiết có sự điều tiết và kiểm soát của Nhà nước. Có thể nói cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một xu hướng tất yếu nếu muốn phát triển nền kinh tế trong thời kỳ hiện nay.
Hiện nay cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang là một vấn đề rất được nhà nước và Chính phủ quan tâm. Nhà nước đã ban hành một số bộ luật để tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho các doanh nghiệp nhà nước như Luật doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, Luật phá sản..., gần đây nhất là Nghị định 44/1998/NĐ-CP về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Những văn bản đó đã là cơ sở bước đầu giúp doanh nghiệp nhiều điều kiện thuận lợi trong tiến trình thực hiện cổ phần hóa. Tuy nhiên,với một loại hình doanh nghiệp mới mẻ như công ty cổ phần, không thể tránh khỏi những sai sót và vướng mắc trong quá trình thực hiện, đặc biệt là trong việc thi hành các bộ luật và văn bản dưới luật. Do vậy tạo ra một môi trường pháp lý đồng bộ, là nền tảng để các doanh nghiệp nhà nước có thể tiến hành cổ phần hóa một cách hiệu quả nhất, Chính phủ cần xem xét và nhanh chóng ban hành một số văn bản luật quan trọng làm cơ sở pháp lý vững chắc và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước như Luật cổ phần hóa hay Pháp lệnh về cổ phần hóa.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước các văn bản hiện hành.
NXB chính trị quốc gia.
2. PTS: Trần công Bẩy
Tiến trình và triển vọng cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam.
TCPTKT 89/98
3. PTS: Nguyễn đăng Liêm
Cổ phần hoá DNNN định hướng xã hội chủ nghĩa.
TCPTKT 57/98
4. Ngô xuân Lộc
Cổ phần hoá-một yêu cầu bức thiết của cải cách DNNN.
TCCS số 17/9-1998
5. Đoàn văn Mạnh
CPH và chuyển DNNN thành CPH.
6. Nghị quyết 44/1998 ND-CP ngày 26/9//1998 của chính phủ về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần.
7. Ngô đức Nguyên
CPH nhìn lại và hướng tới
GTVT 10/98
8. Tào hữu Phùng
CPH nhiệm vụ quan trọng và bức bách
TCCS số 13(tháng 7/1998)
9. Nguyễn Ngọc Quang
-Cổ phần hoá DNNN cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn.
-Cổ phần hoá DNNN. (NCKT 6/94)
10. Hoàng đức Tảo
Cổ phần hoá DNNN - Kinh nghiệm thế giới.
11. Doãn quang Thiện
CPH con đường tất yếu nhưng không êm ả (TCDL 8/97
12.Bùi đức Thụ
DNNN thực trạng quá trình CPH (TTGC 5/96)
13. Phan văn Tiệm
Tình hình cổ phần hoá DNNN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35224.doc