I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết trong mọi thời đại giáo dục chiếm một vị trí quan trọng trong xã hội.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân giáo viên mầm non là người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người cho xã hội tương lai. Có điều tuỳ theo mỗi thời đại mà giáo dục sẽ được tổ chức kiểu này hay kiểu khác. Tuỳ theo mỗi độ tuổi mà giáo dục khác nhau. Tuổi mẫu giáo trẻ mới bắt đầu trong quá trình học nói. Chính vì vậy hoạt động làm quen với văn học giúp trẻ hình thành và phát triển ngôn ngữ tìm hiểu về thế giới xung quanh, góp phần không nhỏ vào việc giáo dục toàn diện cho trẻ.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Thực tế cho ta thấy rằng những biểu hiện về thái độ tình cảm, suy nghĩ của con người khi tiếp xúc với một tác phẩm văn học rất đa dạng và phong phú Ví dụ: Như những vui buồn khi đọc tác phẩm văn học dẫn đến những biểu hiện khóc cười của người đọc từ đó cho ta thấy rằng nghệ thuật của các tác
MỘT VÀI KINH NGHIỆM DẠY TRẺ LÀM QUEN VĂN HỌC Ở TRƯỜNG MẪU GIÁO
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 5258 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một vài kinh nghiệm dạy trẻ làm quen văn học ở trường mẫu giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐỀ TÀI: MỘT VÀI KINH NGHIỆM DẠY TRẺ LÀM
QUEN VĂN HỌC
Ở TRƯỜNG MẪU GIÁO
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết trong mọi thời đại giáo dục chiếm
một vị trí quan trọng trong xã hội.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân giáo viên mầm non là
người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách
con người cho xã hội tương lai. Có điều tuỳ theo mỗi thời đại
mà giáo dục sẽ được tổ chức kiểu này hay kiểu khác. Tuỳ theo
mỗi độ tuổi mà giáo dục khác nhau. Tuổi mẫu giáo trẻ mới bắt
đầu trong quá trình học nói. Chính vì vậy hoạt động làm quen
với văn học giúp trẻ hình thành và phát triển ngôn ngữ tìm
hiểu về thế giới xung quanh, góp phần không nhỏ vào việc
giáo dục toàn diện cho trẻ.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Thực tế cho ta thấy rằng những biểu hiện về thái độ tình
cảm, suy nghĩ của con người khi tiếp xúc với một tác phẩm
văn học rất đa dạng và phong phú Ví dụ: Như những vui buồn
khi đọc tác phẩm văn học dẫn đến những biểu hiện khóc cười
của người đọc từ đó cho ta thấy rằng nghệ thuật của các tác
2
phẩm văn học đã có một sức mạnh kỳ diệu. nhưng đối với trẻ
ở lứa tuổi mẫu giáo vấn đề cảm thụ và hiểu tác phẩm văn học
mới chỉ là bước đầu vì tư duy của trẻ còn hạn chế, vốn kinh
nghiệm chưa cao. Trẻ em chưa thể hiểu được ý nghĩa tìm ẩn
trong mỗi câu chuyện thế nhưng trẻ rất thích được nghe người
lớn kể chuyện, thích đọc thơ hoặc những bài đồng dao, ca dao
phù hợp với lứa tuổi. Mục đích của việc cho trẻ làm quen văn
học là giúp cho trẻ hình thành và phát triển ngôn ngữ là
phương tiện hình thành đạo đức cho trẻ biết yêu ghét rõ ràng.
Làm quen văn học còn hình thành cho trẻ lòng yêu thiên
nhiên, Tổ quốc, tình yêu thương con người rộng lớn. Hình
thành và phát triển thói quen tốt trong sinh hoạt tập thể đó là
tính tổ chức kỷ luật tự chủ mạnh dạn trước mọi người. Dạy trẻ
làm quen văn học còn là phương tiện nâng cao khả năng trí
tuệ, giúp trẻ phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng, cũng cố kiến
thức trẻ qua học tập vui chơi- Cuộc sống. Không những thế
văn học còn là nguồn sữa mẹ nuôi dưỡng, phát triển tâm hồn
cho trẻ,
truyền cho các cháu vẽ đẹp truyền thống của cha ông, lòng
nhân ái thuỷ chung tính công bằng yêu lẽ phải, đức cần cù
chăm chỉ, yêu nước thương nòi tự tin, lạc quan, yêu đời.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
3
Năm nay tôi được nhận dạy lớp Mẫu giáo nhỡ Thôn Mậu
Lâm tỉ lệ trẻ chưa được học mẫu giáo bé rất cao 85%. Đa số
cháu còn khóc nhè trên lớp. Điều đó đối với tôi không quan
trọng nhưng quan trọng là trẻ rất hạn chế về ngôn ngữ. Thời
gian đầu tôi nhận thấy trẻ hay nói trổng, trả lời câu cụt, đa số
trẻ dùng từ không đúng từ. Sử dụng câu chưa đúng với ý
nghĩa trong câu. Tôi bỗng nghĩ để trẻ dễ giao tiếp và lĩnh hội
kiến thức tốt cần phải giúp trẻ hình thành và phát triển ngôn
ngữ ngay từ tuổi mẫu giáo, để trẻ hiểu vấn đề qua lời nói của
người
khác và biết diễn đạt vấn đề qua lời nói của mình. Đó là một
điều cần thiết nhưng không phải là dễ.
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Đối với trẻ ở lứa tuổi này rất dễ nhớ nhưng cũng rất
mau quên, tu duy của trẻ còn hạn chế, vốn kinh nghiệm chưa
cao, sự hiểu biết về cuộc sống chưa có kinh nghiệm. Vì vậy ta
cần cho trẻ làm quen văn học ở mọi lúc mọi nơi và trong giờ
học nhằm giúp trẻ hình thành và phát triển ngôn ngữ lĩnh hội
kiến thức được dễ dàng.
1. Làm quen văn học ở mọi lúc mọi nơi:
4
Vào buổi sáng đón trẻ, giờ hoạt động ngoài trời, ngoài
công việc nhắc trẻ chào ba mẹ, giữ vệ sinh tôi thường hay trò
chuyện với trẻ theo chủ điểm của chương trình học.
Ví dụ: Chủ điểm một số ngành nghề. Tôi trò chuyện với
trẻ về gia đình có bao nhiêu người bố mẹ con làm nghề gì, anh
chị làm nghề gì, làm ở đâu, làm ra những sản phẩm gì, hoặc
trò chuyện với trẻ về công việc của một số ngành nghề trong
xã hội, ích lợi của công việc đó, nghề đó làm ra những sản
phẩm gì, con lớn lên thích làm nghề gì... Tôi cảm thấy có tác
dụng rất lớn đối với trẻ. Trong lúc trò chuyện cô đã cung cấp
cho trẻ nhiều vốn từ giúp trẻ hiểu nghĩa của câu, nói trọn câu,
diễn đạt mạch lạc. Không những trẻ còn tìm hiểu về thế giới
xung quanh làm quen với kiến thức mới, giúp trẻ bước vào tiết
học một cách dễ dàng. Vì vậy trong lúc trò chuyện với trẻ cô
phải nói rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, đủ nghĩa giúp trẻ học
nói tốt hơn. Qua thời gian thực hiện tôi nhận thấy các cháu
mạnh dạn hồn nhiên rất thích trò chuyện với người lớn. Đặc
biệt có một vốn từ rất đáng kể.
2. Làm quen văn học qua các giờ học khác:
Trong mọi giờ học khác đều có thể tích hợp môn làm
quen văn học có thể là những bài thơ, đồng dao, câu chuyện
đã học hoặc chưa được học.
5
Ví dụ: Giờ học: Tìm hiểu về môi trường xung quanh chủ
điểm gia đình
" Gia đình của bé". Cô trò chuyện với trẻ về gia đình, gia đình
con có những ai, có bao nhiêu người, thuộc gia đình đông con
hay ít con, gia đình lớn hay gia đình nhỏ. Trong giờ học cô
nên giáo dục trẻ thương yêu những người trong gia đình, giúp
đỡ bố mẹ, ông bà. Cho trẻ đọc thơ " Thương ông, giúp mẹ
"...Hoặc dạy trẻ "Làm chú bộ đội" .Có thể tích hợp vào văn
học cung cấp vốn từ cho trẻ qua việc cô trò chuyện với trẻ về
chú đội đưa vào bài thơ " Chú bộ đội hành quân trong mưa"...
Qua các giờ học khác ta tích hợp cho trẻ làm quen văn học vào
những lúc trò chuyện với trẻ theo đề tài đưa vào thơ chuyện,
đồng dao vào giờ học. Bên cạnh việc cung cấp vốn từ cho trẻ
còn giúp trẻ tìm hiểu về xung quanh. Hình thành cho trẻ tình
cảm đối với con người, cuộc sống, giúp cho các giờ học sinh
động, hấp dẫn tránh sự nhàm chán vào giờ học giúp trẻ lĩnh
hội kiến thức dễ dàng.
3. Làm quen văn học trên giờ hoạt động chính:
Do đặt điểm của lứa tuổi nên giáo dục học sinh mẫu giáo
cần tiến hành theo phương châm " Học mà chơi, chơi mà học"
theo chương trình đổi mới hình thức dạy học.
6
Vào đầu giờ học cô trò chuyện với trẻ theo nội dung đề
tài hoặc cho trẻ đi tham quan mô hình, tranh ảnh đồng thời trò
chuyện theo nội dung bức tranh để dẫn dắt trẻ đến nội dung
tác phẩm văn học. Khi trò chuyện cô cần sử dụng từ tượng
thanh, tượng hình, các từ láy hoặc có thể gợi hỏi để trẻ nói
cảm xúc của mình qua bài thơ, câu chuyện. Có thể tích hợp
qua một số môn học khác: Toán- Khám phá khoa học- giáo
dục âm nhạc... Một cách nhẹ nhàng thoáng qua để giờ học
sinh động phong phú, sau đó cô giới thiệu bài thơ hoặc câu
chuyện sắp học.
- Cô đọc hoặc kể diễn cảm câu chuyện bài thơ một hai
lần, giúp trẻ cảm nhận âm điệu, cảnh đẹp nội dung bài thơ câu
chuyện.
- Sau đó giảng nội dung bài thơ cho trẻ hiểu rồi cô kể
trích dẫn làm rõ những ý chính trong bài thơ, câu chuyện,
giảng một vài từ khó trong bài thơ câu chuyện, giúp trẻ hiểu
nghĩa của từ và cung cấp vốn từ cho trẻ.
- Tiếp đến đàm thoại theo nội dung bài thơ, câu chuyện
giúp trẻ hiểu nội dung và nhớ trình tự nội dung, phân biệt các
nhân vật trong chuyện nhớ lại trình tự chuyện đặc biệt là để trẻ
tự do giao lưu với cô hoặc thảo luận với nhau về các nhân vật
trong chuyện.
7
- Bây giờ cô mới cho trẻ đọc thơ cùng cô hoặc kể chuyện
khi trẻ đọc thơ cô cần chú ý sữa sai khi trẻ phát âm cách ngắt
nhịp thơ cho trẻ thi đua với nhau nhằm giúp trẻ thi đua học tốt.
- Sau đó cho trẻ đọc thơ hoặc kể chuyện theo tranh có thể
cô viết nội dung bài thơ câu chuyện dưới bức tranh để trẻ có
thể kể theo ngôn ngữ của trẻ để trẻ khắc sâu qua tranh vẽ.
- Có câu chuyện cô cho trẻ đóng kịch theo nội dung
chuyện trẻ tự phân các vai đóng kịch. Nhằm giúp trẻ nhớ lại
trình tự chuyện có thể trẻ thể hiện bằng ngôn ngữ vì đóng kịch
là một hình thức để phát triển ngôn ngữ, phát triển trí nhớ và
giáo dục tinh thần tập thể cho trẻ. Qua đóng kịch trẻ truyền lại
được nội dung chuyện làm sống lại tâm trạng hành động ngôn
ngữ của các nhân vật trong chuyện đồng thời thể hiện tình cảm
và sự đánh giá của trẻ đối với các nhân vật.
- Kết thúc giờ học cho trẻ chơi một trò chơi nhẹ có nội
dung phù hợp với nội dung bài thơ, câu chuyện đang học.
- Trẻ làm tranh chuyện, cắt dán tranh để trẻ nhớ lại trình
tự nội dung câu chuyện.
Kinh nghiệm qua việc dạy trẻ tôi nhận thấy: Muốn cho
trẻ cảm thụ tốt âm điệu, nhịp điệu bài thơ khi đọc mẫu cho trẻ
nghe cô nên đọc thật êm dịu, nhẹ nhàng, chú ý ngắt nhịp, đọc
nhấn mạnh vào các từ mang tính nhịp điệu hoặc khi kể chuyện
8
trẻ nghe cô kể phải diễn cảm, thể hiện giọng nói điệu bộ,cử chỉ
từng nhân vật trong truyện.
Những bài đồng dao,ca dao có thể cô ngâm cho trẻ
nghe. Trong một hoạt động chung làm quen với văn học cần
đảm bảo các nội dung : thay đổi các hình thức giới thiệu, cô kể
chuyện hoặc đọc thơ hay, Kết thúc cho trẻ chơi một trò chơi
nhẹ có nội dung phù hợp,trong một tiết học được tổ chức thực
hiện như trẻ được chơi với cô,được gần gũi trò chuyện cùng
cô để trẻ thoải mái không gò bó trẻ. Về đội hình không cứng
nhắc mà thay đổi liên tục nhiều đội hình khác nhau trong một
giờ học để trẻ thoải mái, nhanh nhẹn.
Trong một giờ học cô nên tuyên dương lớp kiệp thời
những trẻ đọc thơ, kể chuyện hay, đóng kịch tốt để khuyến
khích trẻ học tốt hơn. Tuyệt đối không chê trẻ, nhẹ nhàng sửa
sai đối vơi những trẻ thực hiện chưa đúng. Việc dạy học phụ
thuộc vào việc giáo dục.Do đó nội dung các bài dạy không chỉ
đôn thuần là một nội dung cần dạy cho trẻ, mà còn là một
phương tiện giáo dục,. Vì vậy tôi luôn quan sát và nhận xét
xem trong quá trình học tập trẻ có có hoạt động không? Tìm
hiểu nguyên nhân vì sao trẻ không hoà đồng cùng với bạm để
có hướng tìm cách đưa trẻ hoà nhập với bạm bè .
4. Làm quen văn học thông qua giờ hoạt động góc :
9
Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể thuộc
được câu chuyện hoặc thuộc bài thơ, vì ở lứa tuổi này trẻ rất
dể nhớ mà mau quên. Ta cần cho trẻ làm quen văn học ở mọi
lúc mọi nơi và hoạt động góc. Gìờ hoạt động góc trẻ được
tham gia chơi rất hồn nhiên mạnh dạn, có thể chơi trò chơi :"
cô giáo " ở góc phân vai, một cháu làm cô giáo dạy cháu đọc
thơ hoặc kể chuyện giúp trẻ nhớ lại trình tự chuyện hoặc cũng
cố những bài thơ đã được học .
Ví dụ : Chơi về chủ điểm : " Trường Mầm non " thì
cháu ở góc phân vai trò chơi " Cô giáo " dạy cháu đọc thơ :"
Cô giáo của em ", "Trường em "... Hoặc trẻ được chơi ở góc
học tập xem sách, truyện tranh chữ to, tạo cho trẻ cảm giác là
trẻ có thể đọc được quyển truyện đó hoặc có kể biết rằng
quyển truyện đó nói về cái gì? trẻ có thể dựa vào tranh để
khám phá ra các nhân vật, khám phá nghĩa của từ của câu,
hoặc trẻ có thể tự vẽ, cắt dán tập làm sách, truyện tranh theo
chủ điểm. Tôi nhận thấy qua giờ họat động góc trẻ mạnh dạn,
thích giao tiếp và phát triển nhiều vốn từ, cũng cố lại những
kiến thức đã học. Đặc biệt là trẻ rất thích tự lập trong lúc tự
làm sách truyện tranh,phấn khởi và rất thích tham gia chơi ở
góc này .
10
5. Làm quen văn học thông qua góc Phát triển ngôn
ngữ .
Trong lớp tôi có làm một góc gọi là góc phát triển
ngôn ngữ. Vào lúc chiều tôi dành thời gian tôi đưa các cháu
chơi ở góc này, cô đọc tranh truyện, thơ cho trẻ nghe, trước
khi đọc tôi trao đổi với trẻ về nội dung quyển truyện tranh,
thơ, gợi ý nội dung qua trang bìa nói tên truyện, tên bài thơ,
miêu tả hình ảnh của từng trang, tôi chỉ noí về tranh minh hoạ
về nội dung câu chuyện bài thơ được thể hiện trong tranh như
thế nào. Sau đó đàm thoại với trẻ về nội dung câu chuyện và
giúp trẻ hiểu rõ về câu chuyện, thơ.Qua việc thực hiện hoạt
động chơi ở góc này trẻ tạo thành thói quen rất thích tham gia
chơi cùng cô.
6. Làm quen văn học thông qua các ngày hội, ngày
lễ :
Qua các buổi sinh hoạt ngày hội, ngày lễ cũng cần cho
trẻ Làm quen với văn học, trong đó có hát múa đọc thơ, kể
chuyện, đóng kịch, có chuẩn bị mũ các con vật, hoa văn nghệ
... Nhận thấy trẻ rất thích đến buổi chiều cuối tuần, giống như
trẻ được chơi thoải mái, được nghỉ sau một tuần học, thế nào
trẻ vẫn có học,cũng cố lại kiến thức đã học, học dưới hình
thức biểu diễn văn nghệ. Cứ vài tháng tôi lại tổ chức hội thi "
11
Bé kể chuyện, đọc thơ hay " có nhận xét và có quà cho những
cháu đạt giải. Trong hội thi có mời đông đảo phụ huynh của
lớp tham dự. Nhận thấy nhiều phụ huynh rất phấn khởi về
những kết quả của con mình, có tác dụng rất lớn đến việc đưa
con tới lớp Mẫu giáo. Để phụ huynh có hướng phát huy năng
khiếu ở trẻ, trong cuộc thi trẻ rất hào hứng, mạnh dạn, tự tin
tham gia vào hoạt động, thích được biểu diễn và say mê khi
biểu diễn .
Trong các ngày hội, ngày lễ tôi hay bàn bạc với nhà
trường nên dành nhiều thời gian cho các cháu được tham gia
kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch. Đó cũng là một hình thức
tuyên truyền ngành học rất lớn, trẻ rất thích tự làm và được
khen giúp trẻ phát triển về trí tuệ, nhanh nhẹn, mạnh dạn trước
mọi người và cảm nhận được vẽ đẹp,cái hay của văn học .
Qua việc áp dụng một số biện pháp trong và ngoài giờ
học. Lớp tôi chất lượng về môn Làm quen năn học tăng lên
khá rõ, Các cháu rất thích học bộ môn này,rất mạnh dạn khi
giao tiếp, thích trò chuyện cùng người lớn và đặc biệt rất thích
tham gia vào hoạt động không chỉ có làm quen văn học .
V. Kết quả nghiên cứu :
Làm quen học đối với các cháu Mẫu giáo là một vấn
đề thiết thực mới là khó. Nhưng chúng ta biết rằng văn học là
12
kho kinh nghiệm quý báu về phương diện, nó là nơi lưu trữ
truyền thống dân tộc. Trẻ em làm quen với văn học ngay từ
những bài hát ru đầu tiên mà trẻ em ghi nhận qua lời ru à ơi
của mẹ. Rồi trẻ được làm quen với bài thơ, câu đố, những câu
chuyện lôi cuốn các cháu vào các hoạt động tập thể, hoạt động
nhận thức. Từ đó mà chất lượng lớp tôi tăng lên rất đáng kể.
Đến nay cháu đọc thơ, kể chuyện, chất lượng rất cao đạt từ 80-
85%. Tôi rất tự hào và phấn khởi, không những các cháu đọc
thuộc những bài thơ, đồng dao, câu chuyện mà còn rất hồn
nhiên, mạnh dạn mê say khi biểu diễn trẻ mạnh dạn khi giao
tiếp những câu nói của trẻ đã khác đi rất nhiều so sánh đầu
năm, trẻ đã nói trọn câu, biết dùng từ ngoài sự tưởng tượng .
VI. Kết luận :
Đúng vậy giáo dục Mầm non giữ một vị trí quan trọng
trong sự phát triển của xã hội, trong quá trình hình thành nhân
cách con người. Do vậy công tác giáo dục Mầm Non phải
được tiến hành một cách khoa học có mục đích có hệ thống
nhằm tạo dựng những nền tảng ban đầu vững chắc đúng đắn
cho quá trình phát triển sau này của mỗi cá nhân trẻ là chủ
nhân tương lai của xã hội. Nhận thức được điều đó tôi đã
không ngừng học hỏi nghiên cứu để chăm sóc giáo dục các
cháu ở tất cả các hoạt động nhằm tạo điều kiện cho trẻ phát
13
triển ngôn ngữ trong giao tiếp nhằm làm quen văn học được
tốt hơn, góp phần đào tạo cho thế hệ trẻ thành những con
người phát triển toàn diện.Vì trẻ em hôm nay thế giới ngày
mai .
VII. Đề nghị :
Trong phạm vi nhà trường tạo điều kiện cho các cháu
học tốt hơn như :
Môi trường hoạt động phải có sân chơi,bóng mát
...một số giờ hoạt động cho trẻ hoạt động ngoài trời sẽ đạt hiệu
quả cao hơn .
Đại Hưng,ngày 28 tháng 02
năm 2009
NGƯỜI NGHIÊN
CỨU
Nguyễn Thị Mỹ
Miều
14
VIII.Tài liệu tham khảo :
- Tài liệu thử nghiệm tổ chức hoạt động phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mầm non theo hướng tích hợp chủ đề do
trung tâm nghiên cứu chiến lược và phát triển chương trình
giáo dục mầm non thực hiện .
- Tạp chí giáo dục mầm non số 4 - 2007.
15
16
X. Mục lục :
Trang
I. Tên đề tài
1
II. Đặt vấn đề
1
III. Cơ sở lý luận
1
IV. Cơ sở thực tiễn
1
17
V. Nội dung nghiên cứu
2
1. Làm quen văn học ở mọi lúc mọi nơi .
2
2. Làm quen văn học qua các giờ học khác .
2
3. Làm quen văn học thông qua Hoạt động chính
2
4. Làm quen văn học thông qua Gìơ hoạt động góc
4
5. Làm quen văn học thông qua góc Phát triển ngôn
ngữ 4
6. Làm quen văn học thông qua các Ngày hội, Ngày
lễ 4
VI, Kết quả nghiên cứu
5
VII. Kết luận
5
VIII. Đề nghị
6
18
IX, Tài liệu tham khảo
7
X. Mục lục
8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26_8742.pdf