Tiểu luận Ngân hàng Nhà nước Việt nam với việc điều hành chính sách tiền tệ hiện nay

Việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam hiện nay là một vấn đề rất đáng chú trọng bởi chúng ta đang trong giai đoạn đầu của việc xây dựng một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, còn rất nhiều vấn đề cần phải hoàn thiện và việc hoàn thiện chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ là một khâu căn bản trong quá trình đổi mới. Trong thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước Việt nam cùng với những nỗ lực của mình đã cố gắng tạo ra một môi trường tương đối ổn định, thu hút được đầu tư, góp phần tạo đà tăng trưởng cho nền kinh tế; đã phần nào ứng phó kịp thời với sự biến động của tình hình tài chính, kinh tế trong nước và trên thế giới giúp ổn định đồng nội tệ trong thời gian dài, tạo tâm lý ổn định cho người dân cũng như các nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt nam còn cần phải hoàn thiện và đổi mới rất nhiều, phải xác định đúng mục tiêu định hướng trong thời gian trước mắt cũng như chiến lược lâu dài; quan tâm đến các công cụ gián tiếp đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở- đây là công cụ hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường nhưng để phát huy được sức mạnh của nó thì chúng ta phải phối hợp với các công cụ khác để có thể phát huy được hiệu quả cao nhất; luôn gắn và theo sát tình hình trong nước và thế giới để có những quyết sách đúng đắn kịp thời và đạt hiệu quả cao.

doc42 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1759 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ngân hàng Nhà nước Việt nam với việc điều hành chính sách tiền tệ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y sự lệch pha giữa những tác động của chính sách tiền tệ thông qua chỉ tiêu M2 (là lượng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống + tiền gửi không kỳ hạn + tiền gửi tiết kiệm + kỳ phiếu do ngân hàng phát hành) và mục tiêu chính sách. Có thể thấy rõ điều này qua bảng sau: Năm Tỷ lệ lạm phỏt (%) Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ tăng M2 (%) Mục tiờu Thực hiện Mục tiờu Thực hiện Mục tiờu Thực hiện 1995 10 12,7 9-10 9,5 19 22,6 1996 4,5 9,5 22,7 1997 7 3,6 9 24 26,1 1998 7-8 9,2 8,5-9 5,8 20 25,6 1999 10 0,1 5-6 4,8 16-17 39,28 2000 6 -0,6 5,5-6 6,76 38 39 2001 5 0,8 7,5-8 6,8 23 25,5 2002 5 4,0 7,5 7,04 23 17,6 2003-2005 (dự bỏo) 5-6 7,5 7,5 15-20 na Sự lệch pha này có thể xuất phát từ bản thân cách xác định chỉ tiêu lạm phát của tổng cục thống kê, nhưng nó cũng đặt ra một số vấn đề liên quan đến hiệu quả tác động của chính sách tiền tệ, cũng như mối liên quan trực tiếp giữa khối tiền M2 và các biến số thực của nền kinh tế. Mục tiêu trung gian: căn cứ vào tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu trung gian, từ 1996 ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử dụng chỉ tiêu mức tổng phương tiện thanh toán M2 làm mục tiêu trung gian. Bên cạnh đó, ngân hàng Nhà nước thực hiện việc kiểm soát một cách trực tiếp mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng thông qua một hệ thống trần lãi suất, đồng thời ấn định mức tỷ giá chính thức cho các giao dịch ngoại tệ, bán lẻ với một biên độ dao động do ngân hàng Nhà nước khống chế. Hệ thống công cụ chính sách tiền tệ: Hiện nay, ngân hàng Nhà nước Việt Nam vẫn sử dụng đồng thời hai loại công cụ chính sách tiền tệ. Một là, hệ thống công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp, bao gồm các công cụ: hạn mức tín dụng, tỷ giá, lãi suất và các chính sách hỗ trợ. Hai là, hệ thống công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp, đó là: công cụ dự trữ bắt buộc, chính sách tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở. Đặc điểm cơ chế điều chỉnh của chính sách tiền tệ Việt Nam. Chính sách tiền tệ Việt Nam đang chuyển dần sang cơ chế kiểm soát tiền tệ gián tiếp (đặc biệt là công cụ nghiệp vụ thị trường mở). Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiêng về sử dụng cơ chế điều chỉnh các điều kiện tiền tệ về lượng (khối lượng tiền) hơn là sử dụng cơ chế điều chỉnh qua giá (lãi suất) trong việc điều hành chính sách tiền tệ. 2.2. Đánh giá việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua 2.2.1. Về mục tiêu của chính sách tiền tệ Trong hơn 10 năm đổi mới, mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ hướng vào kiểm soát lạm phát, tạo môi trường ổn định để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự ổn định hệ thống. Việc xác định và lựa chọn mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được thực hiện phù hợp với yêu cầu thực tiễn và đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Trong hơn 10 năm qua, ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đổi mới mạnh mẽ điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, vận hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, thực hiện cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ. Do đó, đã đảm bảo khối lượng tiền tệ, tín dụng cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng thương mại, góp phần đáng kể trong việc thay đổi bộ mặt đất nước. Từ một nước có tỷ lệ lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, thiếu hụt ngân sách triền miên, cán cân thanh toán quốc tế bội chi lớn trong nhiều năm liên tục, qua quá trình đổi mới Việt Nam đã trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục duy trì trong nhiều năm, tỷ lệ lạm phát ở mức một con số từ năm 1996 trở lại đây, dự trữ ngoại tệ tăng dần, cán cân thanh toán được cải thiện. Bên cạnh đó, Việt Nam đã giảm mạnh tình trạng đói nghèo, duy trì ổn định chính trị – xã hội, mở rộng công ăn việc làm ở cả đô thị và nông thôn. Các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả, số ngân hàng kinh doanh có lãi ngày càng tăng, đóng góp đáng kể cho Ngân sách Nhà nước. Hệ thống ngân hàng đã không ngừng đẩy mạnh công tác huy động vốn, đáp ứng nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển đất nước. Hoạt động tín dụng được mở rộng đối với mọi thành phần kinh tế để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Năm 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 9 tháng 2003 Lạm phát (CPI) 67,4 17,5 5,3 14,4 12,7 4,5 3,6 9,0 0,1 -0,6 -0,2 4,0 1,8 Tăng trởng (GDP) 5,8 8,7 8,1 8,8 9,5 9,3 8,8 5,8 4,8 6,8 6,8 7,0 7,1 Đơn vị tính: %/năm - Tăng trưởng kinh tế và lạm phát 1991 – 2003 - 2.2.2. Về điều hành chính sách tiền tệ Trước những năm 1990, chỉ tiêu phát hành tiền do chính phủ quy định và thường xuyên được dùng để bù đắp thâm hụt ngân sách. Ngân hàng Nhà nước điều hành lượng tiền cung ứng qua việc khống chế lượng tiền mặt phát hành ra lưu thông mà không quan tâm đến việc tăng M2 qua kênh tín dụng của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại và kênh tăng tín dụng cho nền kinh tế. Việc quản lý tín dụng được thực hiện theo kế hoạch vay vốn của doanh nghiệp, cho vay theo chỉ định của chính phủ. Việc cho vay này chủ yếu nhằm bù đắp vốn lưu động thiếu của các doanh nghiệp mà không dựa trên hiệu quả kinh doanh. Cùng với đó, tỷ giá được quản lý theo cơ chế tỷ giá cố định, các luồng vốn chưa được quan tâm kiểm soát, chưa hình thành cán cân thanh toán quốc tế. Chính sách tiền tệ điều hành như vậy là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát phi mã, giai đoạn 1986 – 1989. Từ 1991, ngân hàng Nhà nước đã xác định khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp với các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát. Đồng thời, ngân hàng Nhà nước đã lựa chọn sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, chủ động điều hành linh hoạt lượng tiền cung ứng được chính phủ phê duyệt hàng năm. Đặc biệt, từ năm 1996, ngân hàng Nhà nước thực hiện quản lý, điều hành hiệu quả lượng tiền cung ứng, sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và kiểm soát lạm phát ở mức một con số. Thực tế trong những năm gần đây, kinh tế trong nước và quốc tế có những tác động bất lợi đến hoạt động của thị trường tiền tệ. Những cơn sốt giá cả trên thị trường bất động sản và sự suy giảm lãi suất trên thị trường quốc tế làm chao đảo nguồn vốn trên thị trường tiền tệ Việt Nam. Song với quan điểm điều hành trên, ngân hàng Nhà nước đã kịp thời điều tiết cung – cầu vốn trên thị trường thông qua các công cụ tiền tệ gián tiếp, thực hiện đổi mới chính sách lãi suất và tỷ giá, qua đó đưa thị trường tiền tệ hoạt động theo xu hướng ổn định. 2.2.3. Về sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ Trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, ngân hàng Nhà nước thực hiện kiểm soát tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp kết hợp với các công cụ gián tiếp và tong bước đổi mới chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước. Nhận thức rõ tầm quan trọng của các công cụ chính sách tiền tệ trong việc nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong những năm qua, ngân hàng Nhà nước rất chú trọng hoàn thiện và đổi mới các công cụ này. Công cụ dự trữ bắt buộc: Công cụ dự trữ bắt buộc được chính thức thực hiện từ năm 1992. Từ đó đến nay, công cụ này không ngừng được hoàn thiện. Lúc đầu, tiền dự trữ bắt buộc được duy trì tại một tài khoản riêng và tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Theo đó, vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc là để đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát tiền cung ứng nhưng lại hạn chế ngân hàng Nhà nước dự báo nhu cầu tăng, giảm dự trữ của các ngân hàng thương mại và vốn của các ngân hàng thương mại không được sử dụng linh hoạt. Để khắc phục hạn chế trên, năm 1995 công cụ dự trữ bắt buộc đã được đổi mới: tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% áp dụng cho các loại tiền gửi dưới 1 năm, và trong cơ cấu tiền dự trữ bắt buộc có 70% phải gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc phải gửi tại ngân hàng Nhà nước. Theo đó, ngân hàng Nhà nước có thể dự báo nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng thông qua theo dõi mức dự trữ vượt nhưng việc khống chế theo ngày cùng với sự phát triển thị trường tiền tệ ở mức độ thấp khiến cho công cụ này trở nên cứng nhắc, các tổ chức tín dụng luôn để dự trữ vượt, hạn chế khả năng sử dụng vốn hiệu quả của tổ chức tín dụng. Bước đổi mới tiếp theo gắn liền với hai luật ngân hàng. Từ năm 1999, công cụ dự trữ bắt buộc được áp dụng mở rộng thêm với các đối tượng: ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 0-20%; đặc biệt là số tiền dự trữ bắt buộc được tính bình quân số dư tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước trong kỳ duy trì. Theo đó các tổ chức tín dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn, ngân hàng Nhà nước có thể dự đoán được nhu cầu dự trữ của ngân hàng thương mại, tăng khả năng kiểm soát tiền tệ của ngân hàng Nhà nước. Thêm nữa, từ năm 1999 tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều chỉnh ngày càng linh hoạt phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Đặc biệt năm 2000, ngân hàng Nhà nước thực hiện điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ từ 5% lên 8% (từ 10/10/2000) sau đó tiếp tục tăng lên 12% (từ 1/12/2000) và đến tháng 5/2001 tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đã tăng lên 15%. Đồng thời ngân hàng Nhà nước đã quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND xuống 3%. Việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã có tác động nhất định đến việc hạn chế dòng chuyển đổi từ VND sang USD, khắc phục tình trạng khan hiếm VND của các tổ chức tín dụng, góp phần thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Công cụ hạn mức tín dụng Công cụ này áp dụng từ năm 1994, xuất phát từ thực tế lạm phát có xu hướng tăng cao, tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh. Trong điều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, ngân hàng Nhà nước chưa thể sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng Nhà nước đã sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để hạn chế số nhân tiền tệ, qua đó kiểm soát sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán. Việc áp dụng công cụ hạn mức tín dụng từ năm 1994 đến 1997 đã góp phần kiểm soát mức độ gia tăng của tổng phương tiện thanh toán, góp phần kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, hạn mức tín dụng là công cụ điều hành mang tính trực tiếp, chỉ được phân bổ đối với một số các ngân hàng thương mại nên phần nào hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Từ 1998 đến nay, trong điều kiện nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển rất lớn, lạm phát có xu hướng giảm thấp, việc áp dụng công cụ này phần nào ảnh hưởng đến việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Từ quý II/1998, ngân hàng Nhà nước quyết định không sử dụng hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ, chỉ dùng đến khi cần hạn chế sự gia tăng tín dụng nhanh chóng có nguy cơ lạm phát cao. Công cụ tái cấp vốn Công cụ tái cấp vốn đã được từng bước đổi mới theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ này, tỷ trọng tái cấp vốn theo hình thức thế chấp các chứng từ có giá tăng dần, tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định ngày càng giảm. Bên cạnh hai hình thức tái cấp vốn trên, từ năm 1991 ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cho vay bù trừ – một hình thức tái cấp vốn ngắn hạn đối với các ngân hàng thương mại để bù đắp thiếu hụt thanh toán tạm thời. Trong hình thức cho vay thế chấp chứng từ thì chứng từ thế chấp từ chỗ chỉ gồm: tín phiếu kho bạc chưa đến hạn thanh toán, khế ước cho vay ngắn hạn; sau được mở rộng đối với cho vay thế chấp bằng ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại ngân hàng Nhà nước. Quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được từng bước đổi mới phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Từ năm 1994 đến đầu năm 1997, lãi suất tái cấp vốn được quy định theo tỷ lệ phần trăm trên lãi suất cho vay áp dụng đối với dự án cho vay của tổ chức tín dụng. Nhưng từ cuối tháng 5/1997, lãi suất tái cấp vốn được xác định mức cụ thể để phù hợp với thông lệ quốc tế và để cung cấp tín hiệu về mục tiêu chính sách tiền tệ (nới lỏng hay thắt chặt). Đặc biệt từ năm 1999, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với diễn biến cung cầu vốn trên thị trường và phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở Ngày 12/7/2000, ngân hàng Nhà nước khai trương nghiệp vụ thị trường mở. Việc ngân hàng Nhà nước chính thức thực hiện nghiệp vụ thị trường mở là một bước tiến mới trong đổi mới điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng phát triển của nền kinh tế. Trong năm 2000, nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện an toàn, đúng quy định với định kỳ 10 ngày/lần. Tuy tác động của nghiệp vụ thị trường mở đến những điều kiện của thị trường tiền tệ chưa đáng kể, việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Nhà nước phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, bám sát diễn biến thị trường, phần nào điều chỉnh vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, thu hút khi thừa và bơm thêm vốn khả dụng khi thiếu hụt. Sau một số năm hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở đã bước đầu phát huy hiệu quả số phiên giao dịch dần được tăng cường, thời gian thanh toán cũng được thực hiện ngay trong ngày giao dịch (T+O). Việc sử dụng linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở đã có tác động đến quá trình điều tiết và ổn định tiền tệ – lãi suất. Đặc biệt, cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác như nghiệp vụ SWAP tiền tệ (nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ), tái cấp vốn, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần giải quyết khó khăn về vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng trong một số thời điểm thiếu hụt. Tăng cường nghiệp vụ thị trường mở còn tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại nâng cao khả năng quản lý vốn khả dụng, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và có giải pháp kịp thời về nguồn vốn. Tuy nhiên, cho đến nay, số lượng thành viên tham gia còn hạn chế, chỉ bao gồm 20 tổ chức tín dụng (năm 2002). Tại mỗi phiên giao dịch chỉ có 1-5 thành viên tham gia. Hàng hóa trên thị trường còn rất hạn hẹp hiện tại chỉ bao gồm tín phiếu ngân hàng Nhà nước và tín phiếu kho bạc Nhà nước. Công cụ lãi suất Năm 1992, ngân hàng Nhà nước đã thực hiện một bước chuyển đổi quan trọng chuyển từ chính sách lãi suất âm sang chính sách lãi suất dương. Việc chuyển đổi này là bước khởi đầu tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hóa lãi suất, tạo đòn bẩy cho các ngân hàng thương mại chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi. Từ tháng 8/2000, ngân hàng Nhà nước đã thay thế cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ. Lãi suất cơ bản được xác định trên cơ sở lãi suất thị trường với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự kiểm soát lãi suất của ngân hàng Nhà nước. Từ tháng 6/2002, ngân hàng Nhà nước thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Như vậy, tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng VND trên cơ sở cung-cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay. Trong những năm gần đây, việc xử lý mối quan hệ giữa lãi suất VND và lãi suất USD, quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá ngày càng được ngân hàng Nhà nước coi trọng. Thực tế, việc điều hành linh hoạt lãi suất và tỷ giá đã làm chúng trở thành công cụ hỗ trợ hiệu quả cho việc thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ. Về tỷ giá Năm 1994, cùng với sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hành tỷ giá theo cơ chế mới: ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá chính thức giữa ngoại tệ và đồng Việt Nam, tỷ giá mua bán trên thị trường được phép dao động trong biên độ cho phép. Năm 1999, ngân hàng Nhà nước đã thực hiện đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá theo các nguyên tắc thị trường bằng việc hàng ngày công bố tỷ giá chính thức là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Việc điều hành tỷ giá theo hướng sát với diễn biến cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Với cơ chế điều hành tỷ giá và việc can thiệp kịp thời của ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại tệ trong những năm qua tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD tương đối ổn định, góp phần thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, qua đó cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước. Có thể nói việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện, những nỗ lực của ngân hàng Nhà nước trong việc đổi mới các công cụ chính sách tiền tệ đã góp phần thực hiện được các mục tiêu của chính sách tiền tệ đảm bảo tăng trưởng kinh tế liên tục, duy trì ổn định tiền tệ và tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân và đảm bảo được các mục tiêu kinh tế – xã hội khác. 2.3. Những thành quả từ việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2.3.1. Góp phần tăng trưởng kinh tế Kể từ khi có hai pháp lệnh ngân hàng đến nay, hệ thống ngân hàng đã không ngừng được tăng cường và mở rộng nguồn vốn tín dụng để cung cấp vốn, đầu tư cho các doanh nghiệp, từ đó giúp nền kinh tế Việt Nam nói chung và từng ngành sản xuất nói riêng đạt tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Xét trên giác độ vĩ mô, thông qua việc thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở hai khía cạnh: Thứ nhất, chính sách tiền tệ góp phần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định để thu hút được nguồn vốn đáng kể cho đầu tư; Thứ hai, gián tiếp tạo vốn và kích thích đầu tư phát triển kinh tế. Việc sử dụng linh hoạt và mềm dẻo chính sách lãi suất trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ đã khiến các tổ chức tín dụng điều chỉnh mức lãi suất huy động một cách hợp lý làm cho nguồn vốn huy động trong nước tăng liên tục; thêm vào đó, nguồn vốn huy động từ nước ngoài cũng được hệ thống ngân hàng khai thác triệt để, đáp ứng chiến lược vốn phục vụ tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.3.2. Góp phần làm giảm lạm phát Có thể thấy rằng, trong nhiều năm qua ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đóng vai trò chủ chốt trong việc ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam, góp phần ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát, phục vụ sự tăng trưởng kinh tế. Trong thời kỳ 1986-1989, nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng lạm phát phi mã, người dân mất lòng tin vào đồng Việt Nam, nhưng đến nay sau hàng loạt đổi mới hệ thống ngân hàng, đổi mới công cụ chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt và phù hợp với từng thời kỳ thì ngân hàng Nhà nước đã dần lấy lại được lòng tin, nhờ đó nền kinh tế đi dần vào ổn định, tỷ lệ lạm phát trong nhiều năm được kiềm chế ở mức một con số, giá trị của VND được coi là khá ổn định trong khu vực. Điều này chứng tỏ cho sự đúng đắn của đường lối đổi mới kinh tế nói chung và vận hành có hiệu quả chính sách tiền tệ của hệ thống ngân hàng nói riêng. 2.3.3. Góp phần thực hiện ổn định công ăn việc làm Ngoài những thành quả kể trên, việc thực thi chính sách tiền tệ đúng đắn đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Sự ổn định môi trường vĩ mô tạo lợi thế cho môi trường đầu tư, thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các ngành, mở rộng sản xuất. Từ đó tạo thêm công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Trong những năm gần đây, Việt Nam có tỷ lệ tạo việc làm nhanh hơn tỷ lệ tăng dân số, vì vậy tỷ lệ thất nghiệp có chiều hướng giảm đi. Trong thời kỳ 1995-1998 ước tính Việt Nam đã giải quyết được 1,3 triệu việc làm mới mỗi năm. Rõ ràng, việc mở rộng đầu tư tín dụng cho các thành phần kinh tế khiến cho công ăn việc làm được cải thiện rõ nét. 2.3.4. Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội khác Việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua mang lại nhiều hiệu quả góp phần ổn định tỷ giá hối đoái, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển, đặc biệt là xuất khẩu. Năm 1997, trong khu vực xảy ra cuộc khủng hoảng tiền tệ nhưng với sự điều chỉnh kịp thời của ngân hàng Nhà nước mà nền kinh tế Việt Nam không bị ảnh hưởng lớn, xuất khẩu vẫn tăng 4% (năm 1998). Từ đó kích thích sản xuất trong nước phát triển. Quá trình thực thi chính sách tiền tệ tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong những năm qua còn góp phần đáng kể vào các quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo, … Những thành công có được từ việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với nền kinh tế Việt Nam là rất đáng ghi nhận, tuy nhiên việc điều hành chính sách tiền tệ cũng vẫn còn những hạn chế, tồn tại cần khắc phục để ngày càng hoàn thiện, nhằm phục vụ tốt nhất cho quá trình phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập. 2.4. Những tồn tại trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam 2.4.1. Tồn tại trong điều hành chính sách tiền tệ Thứ nhất, việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam mới ở điểm “sơ khai”, “xuất phát”.Thường thì ngân hàng Nhà nước dựa vào các tín hiệu của nền kinh tế để xác định lượng tiền cung ứng, trình chính phủ phê duyệt, bổ sung, điều chỉnh, vẫn mang nặng tính đối phó trước mắt mà còn chưa có tính chiến lược lâu dài nên dễ rơi vào bị động, hiệu quả và độ tin cậy chưa cao. Thứ hai, kinh doanh của hầu hết các ngân hàng thương mại còn gò bó, thiếu chủ động, tự chủ. Phần lớn các ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay đều trong tình trạng thua lỗ. Nguồn vốn tín dụng hạn hẹp, mất cân đối cơ cấu với việc sử dụng, cho vay còn phân tán, hiệu quả thấp. Rủi ro tín dụng ngân hàng là đáng lo ngại và luôn thường trực. Thứ ba, hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển, chưa có những điều kiện căn bản để thả nổi tỷ giá hối đoái, còn đang trong quá trình từng bước tiến tới tự do hóa lãi suất. Việc tạo lập các công cụ và thể chế phát triển thị trường tiền tệ và thị trường vốn còn gặp không ít khó khăn. Thứ tư, sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánh nặng nợ từ nước ngoài cũng như gánh nặng của bội chi ngân sách tạo nên những áp lực đe dọa tính ổn định, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ do sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ tín dụng và ngân hàng sau một số vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua lãi suất ưu đãi, qua áp lực chỉ định cho vay, … 2.4.2. Những tồn tại trong sử dụng công cụ chính sách tiền tệ Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: cho đến tháng 8/2003, tiền gửi dự trữ bắt buộc còn quy định hạn hẹp ở loại tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở xuống nên khả năng kiểm soát và điều tiết M2 của ngân hàng Nhà nước còn hạn chế. Việc ngân hàng Nhà nước trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc đã không khuyến khích các ngân hàng thương mại tận dụng tối đa nguồn vốn, dẫn đến tình trạng có thời kỳ các ngân hàng thương mại để dự trữ thừa nhiều, hạn chế các hoạt động cho vay ngắn hạn nhất là cho vay qua đêm. Đối với công cụ tái cấp vốn: vai trò của công cụ tái cấp vốn đối với quá trình kiểm soát và điều tiết tiền tệ vẫn còn hạn chế. Mặc dù cơ chế tái cấp vốn không có sự phân biệt đối với các ngân hàng khác nhau nhưng thực tế tái cấp vốn vẫn chủ yếu thực hiện đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, các ngân hàng thương mại cổ phần ít được tái cấp vốn do thường không đủ các điều kiện tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn chưa gây tác động hiệu ứng với lãi suất thị trường và chưa phát huy tốt vai trò kích thích nhu cầu tiền tệ. Đối với nghiệp vụ thị trường mở: hàng hóa trên thị trường hạn hẹp về chủng loại, thời hạn cũng như số lượng số tín phiếu kho bạc là công cụ chủ yếu, trên thị trường lại chỉ tập trung vào các ngân hàng thương mại quốc doanh nên thực tế số thành viên tham gia giao dịch rất hạn chế. Do đó, tác động của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và các điều kiện thị trường tiền tệ là còn rất khiêm tốn. Đối với công cụ lãi suất, tỷ giá: cũng như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất trên thị trường mở chưa phát huy vai trò lãi suất định hướng, chỉ đạo thị trường, tác động đến các nhu cầu về dự trữ của các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất này chưa có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Cơ chế điều hành tỷ giá nhiều giai đoạn còn chưa linh hoạt, sức mua đối ngoại của đồng Việt Nam chưa ổn định, bền vững. Và chính sự phát triển ở mức độ thấp của thị trường tiền tệ Việt Nam đã có ảnh hưởng ngược trở lại đến việc thực hiện vai trò kiểm soát và điều tiết tiền tệ của ngân hàng Nhà nước. 2.5. Nguyên nhân của những tồn tại trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam Ngân hàng Nhà nước còn can thiệp quá sâu vào việc ấn định các mức lãi suất của các ngân hàng thương mại, vẫn còn quy định nhiều mức lãi suất khống chế khác nhau. Hiện nay, việc quy định mức lãi suất thống nhất chưa tạo được sự mềm dẻo, linh hoạt theo yêu cầu của từng vùng, từng khu vực. Cũng như thị trường hàng hóa, thị trường vốn, mức cung cầu vốn khác nhau ở từng vùng, khu vực đòi hỏi giá cả của vốn cũng khác nhau. Vì vậy, việc quy định một mức lãi suất sẽ dẫn đến tình trạng kém linh hoạt của công cụ lãi suất. Thị trường chứng khoán ở nước ta còn ở tình trạng sơ khai, chưa hoàn chỉnh, các sản phẩm trên thị trường tiền tệ chưa nhiều, hoạt động đơn giản, thuần tuý nên chưa tạp môi trường tốt cho việc sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở – một công cụ chính sách tiền tệ sẽ đạt được hiệu quả rất cao khi có một môi trường tài chính phát triển. Cũng vì thế mà các ngân hàng còn thiếu các công cụ huy động vốn dài hạn do thiếu thị trường thứ cấp để luân chuyển và tạo ra tính thanh khoản của các công cụ này. Ngoài ra, hệ thống pháp luật còn thiếu cũng là nguyên nhân của những tồn tại trên, thiếu quy định toàn diện trong việc điều chỉnh các hoạt động huy động vốn, dịch vụ ngân hàng, … còn thiếu những giải pháp đồng bộ. Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn là một nền kinh tế thị trường chưa hoàn chỉnh, đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện hóa và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài đặc điểm ấy, vẫn đang trong giai đoạn đổi mới hệ thống ngân hàng nên còn nhiều hạn chế trong việc kiểm soát mọi hoạt động chu chuyển vốn kinh doanh của doanh nghiệp và hoạt động của chính các ngân hàng. Việc thanh tra, giám sát của ngân hàng Nhà nước có lúc còn chưa thật sự nghiêm chỉnh dẫn đến thất thoát và quản lý chưa nghiêm dẫn đến những mặt tiêu cực, xâm hại đến lợi ích của cả nền kinh tế. Để chính sách tiền tệ được thực thi đúng đắn và mang lại hiệu quả tích cực thì cần phải có những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ từ đó tác động có lợi cho nền kinh tế và sự phát triển ổn định bền vững của đất nước. Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ 3.1. Định hướng về mục tiêu của chính sách tiền tệ Việt Nam Một chính sách tiền tệ có hiệu quả hay không thì không chỉ phụ thuộc vào cách thực hiện chính sách đó mà hiệu quả của chính sách còn phụ thuộc vào định hướng ban đầu, có tác dụng “dẫn đường chỉ lối” đối với chính sách. Vì vậy, để thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, việc làm đầu tiên của các nhà quản lý là làm thế nào vạch ra được những hướng đi đúng và tạo điều kiện để chính sách tiền tệ phát huy được thế mạnh thực sự của mình, trong việc định hướng về mục tiêu của chính sách tiền tệ là rất quan trọng để từ đó có thể đề ra các biện pháp thực hiện có kết quả. Nếu giai đoạn 1991-1995 được coi là giai đoạn kiểm soát lạm phát, giai đoạn 1995-2000 là thời kỳ đẩy mạnh tốc độ, đưa nền kinh tế sang giai đoạn công nghiệp hóa đất nước thì giai đoạn 2000-2005 được coi là thời kỳ ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế. Trong nghị quyết Đại hội Đảng IX đã định hướng: xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô được hiểu là trước hết phải ổn định tiền tệ, cần phải kiểm soát chặt chẽ lạm phát, tăng cường sự ổn định cho đồng tiền, trên cơ sở đó huy động nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ cho phát triển kinh tế vững chắc. Hơn nữa, ổn định kinh tế còn có nghĩa tốc độ tăng trưởng kinh tế đồng đều trong các năm, gần với năng lực của nền kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp thấp, tỷ lệ lạm phát không dao động quá mạnh, cán cân thanh toán quốc tế cân bằng và không có sự dao động lớn của các biến số qua các năm. Phải chú ý giải quyết thấu đáo mâu thuẫn giữa hai mục tiêu: lạm phát và tăng trưởng kinh tế, để giải quyết vấn đề này ta sẽ phải chấp nhận một sự đánh đổi trong hai phương án lựa chọn của mục tiêu chính sách tiền tệ: Một là, giữ cho tỷ lệ lạm phát dưới mức 10%/năm và như vậy sẽ hạn chế đầu tư, tốc độ phát triển kinh tế có thể khoảng 6-7%/năm, nền kinh tế sẽ ổn định. Hai là, giữ cho tỷ lệ lạm phát ở mức 10-15%/năm, thạm chí có những năm có thể phải chấp nhận 17-18%/năm và như vậy vốn đầu tư cao, khả năng tăng trưởng kinh tế có thể đạt 9-11%. Nhưng nền kinh tế một lúc nào đó có thể mất ổn định, cần có sự phản ứng tốt của các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước, nếu không sẽ có nguy cơ lạm phát ở mức cao 25-30%, làm xói mòn lòng tin đối với người đầu tư trong nước, như vậy luồng vốn có thể chuyển ra ngoài. Hai phương án đều có ưu và nhược điểm nhưng với các quốc gia còn đang phát triển và có nguy cơ tụt hậu thì nên chọn phương án hai. Hàn Quốc cũng chọn phương án hai cho giai đoạn 1960-1979, mãi sau năm 1980 mới nhấn mạnh ổn định kinh tế vĩ mô khi nền kinh tế đã công nghiệp hóa xong. 3.2. Những quan điểm định hướng nhằm nâng cao hiệu quả của công cụ chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, là chính sách hoạt động quan trọng của ngân hàng Nhà nước, mục tiêu lâu dài của chính sách tiền tệ là duy trì sự ổn định và nâng cao dần giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam, tiến tới để đồng Việt Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi, từ đó tạo sự ổn định trong hệ thống tài chính Việt Nam. Để khắc phục những tồn tại trong điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải đi theo các định hướng sau: Việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ một mặt phải hoà nhập và thích nghi nhanh với cơ chế thị trường, phải nhanh chóng hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, với những thông lệ chung của thế giới; mặt khác quá trình hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ vẫn phải giữ gìn tính độc lập, tính đặc thù của Việt Nam là vận độn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Chủ động hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ trong mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như: chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách thương mại, … để các chính sách này thực sự bổ sung, hỗ trợ nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Đặc biệt, trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô phải đảm bảo chính sách tiền tệ và chính sách tài chính luôn thống nhất về mục tiêu và đồng bộ với nhau về phương pháp điều hành. Có như vậy thì các chính sách này mới thực sự trở thành công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô hữu hiệu. Điều tiết và kiểm soát có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng, đảm bảo cung cấp đầy đủ phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, tức là đảm bảo sự thích ứng giữa tổng cung và tổng cầu về tiền tệ. Tại hội nghị TW lần thứ nhất, Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự điều chỉnh nhất quán về sách lược, biện pháp chỉ đạo nền kinh tế với nhiệm vụ xuyên suốt là phát triển nông nghiệp nông thôn, coi đây là bệ phóng để đẩy tới một bước công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế ở thập niên 2000-2010. Theo đó, có sự chuyển dịch căn bản về cơ cấu đầu tư, dành vốn ưu tiên nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt, mũi nhọn của nền kinh tế. Để tiếp tục ổn định tiền tệ trong điều kiện lạm phát thấp, trước hết cần có sự tập trung cải thiện cơ bản Ngân sách Nhà nước, giảm thiểu mức thâm hụt, tiết kiệm triệt để tiêu dùng phi sản xuất để tăng tỷ phần tích luỹ, dành vốn đầu tư phát triển kinh tế ở tất cả các khu vực Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư. Khẩn trương chấn chỉnh hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng và đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng. Chủ động hoàn thiện tiếp chế độ tỷ giá hối đoái và lãi suất ngân hàng theo hướng từng bước thả nổi có điều tiết và tự do hóa có chọn lọc. Có phương án bảo toàn giá trị tiền gửi gắn liền với kiện toàn hệ thống thanh toán qua ngân hàng. Hoàn thành dứt điểm xử lý nợ nần trong khu vực tài chính công giải toả tài sản thế chấp cho vay ngân hàng đóng băng, đẩy mạnh cơ cấu vốn, tài sản ngân hàng. Bên cạnh đó, Nhà nước sẽ hỗ trợ vốn ban đầu thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng và các hình thức đảm bảo đầu tư khác để tạo thuận lợi cho mọi doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ nông dân dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn vay và sử dụng vốn một cách an toàn, hiệu quả. Thường thì các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ hiếm khi được giải quyết một cách triệt để, đặc biệt với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Sự đan xen phức tạp của chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn hơn trước có thể đưa đến những thay đổi về ngắn hạn, kèm theo những thoả hiệp, nhân nhượng tình thế trong điều hành chính sách. Tuy nhiên, về trung – dài hạn, mục tiêu cuối cùng và mục tiêu trung gian vẫn phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Đặc biệt là việc hoàn thiện chính sách tiền tệ sẽ lệ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận và vận dụng hệ thống các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước, gắn liền với quá trình tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng hiện nay. 3.3. Một số giải pháp điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới 3.3.1. Nhóm giải pháp liên quan đến thể chế Tiếp tục hoàn thiện hệ thống ngân hàng Việc hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian tới không thể tách rời quá trình hoàn thiện hệ thống ngân hàng nói chung và bộ máy tổ chức, điều hành của ngân hàng Nhà nước nói riêng. Bởi lẽ, hệ thống ngân hàng mà trước hết là bộ máy tổ chức ngân hàng trung ương tương đối độc lập, lành mạnh và vững chắc là yếu tố đầu tiên đảm bảo tính hiệu lực của chính sách tiền tệ. Mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng là phải tạo lập một hệ thống ngân hàng đủ mạnh cả về năng lực hoạch định và thực thi chính sách, năng lực quản lý điều hành kinh doanh, đủ mạnh về trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại để thích ứng với cơ chế thị trường, trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và sớm hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. Trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước cần tìm ra điểm dung hòa giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ để đi đến chỗ kết hợp hài hòa các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Vì giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ như tăng trưởng, lạm phát và công ăn việc làm có khi mâu thuẫn nhau nên trong quá trình điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng không nên cực đoan một phía, nhấn mạnh một chiều. Nếu có sự ổn định giá cả, ổn định tiền tệ mà nền kinh tế chỉ dậm chân tại chỗ thì sự ổn định coi như vô nghĩa. Ngược lại, nếu tăng trưởng mà không ổn định thì sẽ mất đi điều kiện để phát triển, dễ dẫn đến tình trạng kinh tế hỗn loạn và thậm chí còn thụt lùi. Vì vậy, tìm ra điểm dung hòa không chỉ là kỹ thuật mà còn là nghệ thuật điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước. Việt Nam là một nước nghèo quá độ lên sản xuất lớn. Tăng trưởng nhanh và bền vững là lối thoát duy nhất để tránh nguy cơ tụt hậu nhưng bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam vừa đi qua khủng hoảng, còn nhiều bất ổn và tiềm ẩn lạm phát cao thì ổn định là mục tiêu rất quan trọng. Vấn đề đặt ra là trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước phải tìm ra điểm dung hòa để vừa đảm bảo kiềm chế lạm phát, vừa đưa nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao. Để tìm được điểm dung hòa cần có sự điều chỉnh của ngân hàng Nhà nước theo từng thời gian và tình hình cụ thể mà sự điều chỉnh từng mục tiêu là cần thiết và không đồng đều như nhau, nhưng phải quán triệt nguyên tắc: các mục tiêu ngắn hạn phải phục vụ cho mục tiêu dài hạn, còn mục tiêu dài hạn phải chi phối các mục tiêu ngắn hạn. Ngân hàng Nhà nước phải tập trung vào việc nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế và toàn dụng nhân công tuy nhiên vẫn phải chú ý đến kiềm chế lạm phát. Đây chính là điểm dung hòa, điều này chứng tỏ nghệ thuật điều hành chính sách tiền tệ là làm sao tạo ra sức tác động tối đa đến mục tiêu chủ yếu nhất trong khi không làm tổn hại quá mức đến các mục tiêu khác của toàn bộ hệ thống kinh tế vĩ mô. Sử dụng linh hoạt và mềm dẻo các công cụ điều tiết của chính sách tiền tệ. Mục đích chủ đạo, lâu dài của Việt Nam là hướng tới sự tăng trưởng cao và bền vững, các công cụ chính sách tiền tệ thường được sử dụng là: duy trì nguyên tắc lãi suất thực dương, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc phù hợp với các tổ chức tín dụng, duy trì chế đọ tỷ giá hối đoái ổn định, … Tuy nhiên, nếu những công cụ trên sử dụng một cách cứng nhắc sẽ gây tác động xấu đối với những mục tiêu ngắn hạn và những biến động bất thường có thể xảy ra. Vì vậy, lãi suất dương đến mức độ nào để hiệu quả chống lạm phát không ảnh hưởng đến đầu tư của đất nước; hoặc tỷ giá ổn định nhưng khi cần thiết thì phải phá giá để tạo động lực cho xuất khẩu; … làm như vậy là thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, như thế ngân hàng Nhà nước sẽ thực sự thành công trong việc điều tiết kinh tế vĩ mô. Nâng cao hơn nữa tính độc lập tương đối của ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Cần có sự thống nhất và đồng bộ của các bộ luật, văn bản pháp quy có liên quan mà chính phủ đã ban hành, từ đó đảm bảo tính hiệu lực của hai bộ luật ngân hàng cũng như toàn bộ hệ thống văn bản pháp quy của ngành. Cần xây dựng và ban hành các văn bản dưới luật bổ sung cho hai luật nhanh chóng và kịp thời. Tuy ngân hàng đã có nhiều văn bản pháp quy mới ban hành nhưng chưa đầy đủ. Vì vậy, nay trong hệ thống văn bản pháp luật vẫn còn nhiều chỗ bị “bỏ ngỏ” vì chưa có văn bản thay thế hoặc nếu có thì cũng chưa có nghị định hướng dẫn cụ thể. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động thanh toán, tạo điều kiện cho thanh toán không dùng tiền mặt đến năm 2005; trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung luật các tổ chức tín dụng và các quy định pháp luật có liên quan khác nhằm xây dựng môi trường kinh doanh tiền tệ, ngân hàng minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, phù hợp dần với thông lệ và chuẩn mực quốc té. Khi hành lang pháp lý chưa đầy đủ thì hoạt động tiền tệ – ngân hàng nói chung và quá trình thực thi chính sách tiền tệ nói riêng vẫn nằm trong thế bất ổn. Vì vậy, trong những năm trước mắt, việc hoàn thiện, bổ sung triển khai có hiệu quả hệ thống văn bản pháp luật của ngân hàng là những việc cần làm ngay, góp phần nâng cao hiệu lực điều tiết vĩ mô của chính sách tiền tệ quốc gia. 3.3.2. Nhóm giải pháp liên quan đến công cụ chính sách tiền tệ Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện để đưa nghiệp vụ thị trường mở trở thành công cụ chủ yếu trong điều hành chính sách tiền tệ. Để đạt được mục tiêu trên, bên cạnh việc thực hiện các giải pháp củng cố và phát triển thị trường tiền tệ, việc nâng cao chất lượng công tác dự báo tiền tệ, phân tích và dự báo vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng là rất cần thiết. Trên cơ sở đó, ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện điều hành khối lượng tiền cung ứng, tác động vào tiền dự trữ của hệ thống ngân hàng và lãi suất trên thị trường tiền tệ một cách chủ động, hiệu quả. - Các cơ chế, quy chế làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường cần được rà soát lại để kịp thời điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện thu hút thành viên tham gia thị trường. Đồng thời, ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều loại hàng hóa (như các loại trái phiếu, các chứng khoán do các tổ chức tín dụng Nhà nước phát hành …) có thể sử dụng trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở. - Việc cải tiến chế độ cung cấp thông tin và việc đẩy mạnh tiến độ hiện đại hóa hệ thống thanh toán liên ngân hàng, phát triển thị trường liên ngân hàng là cơ sở để nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở. Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: Để nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ này, ngân hàng Nhà nước cần có giải pháp hoàn thiện công cụ theo hướng mở rộng khả năng kiểm soát tiền tệ của ngân hàng Nhà nước và khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn linh hoạt và hiệu quả. Theo đó, ngân hàng Nhà nước cần xem xét không trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc và trả lãi cho tiền dự trữ bắt buộc, mở rộng hơn nữa diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được điều chỉnh linh hoạt, phối hợp đồng bộ với việc điều chỉnh đối với các công cụ khác như tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở. Đối cới công cụ tái cấp vốn: Công cụ tái cấp vốn cần được hoàn thiện theo hướng thực hiện vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn của ngân hàng Nhà nước, ngân hàng Nhà nước cung ứng phương tiện thanh toán cho các ngân hàng thương mại và thực hiện vai trò “người cho vay cuối cùng”. Quy chế tái cấp vốn cần được tiếp tục hoàn thiện, quy định rõ từng hình thức tái cấp vốn (tái chiết khấu, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn …). Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cần được điều chỉnh ngày càng linh hoạt hơn trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Đối với các công cụ hỗ trợ như lãi suất, tỷ giá: Việc điều hành lãi suất, tỷ giá cần được thực hiện linh hoạt theo hướng tiến tới mục tiêu tự do hóa. Điều hành lãi suất cần tiếp tục gắn liền với điều hành tỷ giá. Đối với cơ chế điều hành lãi suất, ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất hướng tới mục tiêu tự do hóa với bước đi thận trọng. Ngoài ra, ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện công cụ lãi suất thông qua việc lựa chọn lãi suất định hướng phù hợp với mức độ phát triển của thị trường tiền tệ và quy định của hai Luật Ngân hàng. Một số phương án có thể xem xét như: sử dụng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu làm lãi suất định hướng; hoặc kết hợp sử dụng lãi suất chiết khấu và lãi suất liên ngân hàng định hướng như trường hợp Mỹ, Nhật; hoặc sử dụng mức lãi suất ở giữa mức lãi suất tiền gửi tại ngân hàng trung ương và lãi suất cho vay của ngân hàng trung ương như úc, ngân hàng trung ương Châu âu, hoặc sử dụng lãi suất thị trường mở làm lãi suất định hướng khi quy mô hoạt động nghiệp vụ thị trường mở phát triển. Đẩy mạnh chính sách tự do hóa tỷ giá hối đoái phù hợp với xu thế tự do hóa tài chính và hội nhập của nền kinh tế. Tự do hóa tỷ giá cần phải có những bước đi thích hợp để bảo đảm sự ổn định giá trị tiền tệ quốc gia, kiểm soát lạm phát, kích thích xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, gia tăng tích luỹ ngoại tệ và bảo đảm khả năng trả nợ quốc gia. Trước mắt, đến năm 2005, ngân hàng Nhà nước cần tập trung củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nâng cao tiềm lực dự trữ ngoại tệ quốc gia, tăng cường vai trò người mua bán cuối cùng của ngân hàng Nhà nước trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Giai đoạn 2006-2010, nền kinh tế hội nhập, thị trường tiền tệ phát triển, dự trữ ngoại tệ quốc gia được nâng cao, hệ thống ngân hàng thương mại phát triển. Khi đó, ngân hàng Nhà nước có thể xóa bỏ biên độ giao dịch, dựa vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá thị trường liên ngân hàng giữa các đồng tiền để làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại ấn định tỷ giá giao dịch trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, thay cho việc gắn đồng Việt Nam với đồng USD, tỷ giá chính thức nên được gắn với rổ tiền tệ (gồm USD và các đồng tiền của các bạn hàng lớn như Nhật, NIE, khối EU và của các nước trong khu vực). Từ năm 2011 trở đi, khi tính chất quốc tế hóa của thị trường tiền tệ đạt mức độ tương đối cao, đồng Việt Nam có sự chuyển đổi trong các hạng mục trên tài khoản vốn, theo đó ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi – chế độ tỷ giá được xác định hoàn toàn dựa trên biến động của các yếu tố trên thị trường và ngân hàng Nhà nước chủ yếu can thiệp gián tiếp qua lãi suất tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở. Nhóm giải pháp có liên quan khác Để nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước cần sớm thực hiện các biện pháp cần thiết thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ (hoàn thiện cơ sở pháp lý, tăng cường việc giới thiệu các công cụ thị trường tiền tệ), đảm bảo thị trường tiền tệ đóng vai trò tiếp nhận, chuyển tải tác động hiệu ứng của các quyết định điều tiết tiền tệ của Nhà nước đến cung cầu vốn của nền kinh tế. Bên cạnh đó, công nghệ và nghiệp vụ ngân hàng cũng cần không ngừng đổi mới theo kịp trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc cơ cấu lại và hiện đại hóa hệ thống ngân hàng cũng cần đẩy nhanh tốc độ để hệ thống ngân hàng Việt Nam trở thành một hệ thống ngân hàng lành mạnh hiệu quả đủ sức đứng vững trong cạnh tranh và hội nhập. Phối hợp với các Bộ, ngành để có sự phối hợp nhịp nhàng hơn giữa các chính sách kinh tế vĩ mô: như giữa chính sách tiền tệ với quản lý nợ của Chính phủ (phát hành trái phiếu Chính phủ), chính sách tài chính… Xây dựng cơ chế phối hợp cung cấp thông tin giữa các Bộ, ngành và Ngân hàng Nhà nước để bảo đảm ngân hàng Nhà nước có thể dự báo được vốn khả dụng và kiểm soát toàn bộ lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế. Thực hiện các giải pháp để tiến tới thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ dùng tiền Việt Nam; thu hẹp diện các đối tượng được thu ngoại tệ; chuyển dần quan hệ vay trả ngoại tệ thành quan hệ mua, bán ngoại tệ; phối hợp với các ngành hữu quan ngăn chặn việc thông báo, niêm yết giá bằng ngoại tệ… Thực hiện đúng chức năng của ngân hàng trung ương là giữ ổn định giá trị đồng tiền, ổn định vĩ mô tạo thuận lợi cho tăng trưởng bền vững, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; ngân hàng trung ương không phải là cơ quan tài chính thứ hai của Chính phủ. Mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ nhằm góp phần tăng trưởng kinh tế, nhưng không phải vì tăng trưởng mà hy sinh các mục tiêu quan trọng khác như giữ ổn định giá trị đồng tiền. Tăng cường vai trò thanh tra, giám sát của ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm bảo đảm lợi ích của người gửi tiền và sự ổn định, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng. Tiếp tục triển khai đề án tổng thể về củng cố, lành mạnh hóa hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam; đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại. Kết luận Việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam hiện nay là một vấn đề rất đáng chú trọng bởi chúng ta đang trong giai đoạn đầu của việc xây dựng một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, còn rất nhiều vấn đề cần phải hoàn thiện và việc hoàn thiện chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ là một khâu căn bản trong quá trình đổi mới. Trong thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nước Việt nam cùng với những nỗ lực của mình đã cố gắng tạo ra một môi trường tương đối ổn định, thu hút được đầu tư, góp phần tạo đà tăng trưởng cho nền kinh tế; đã phần nào ứng phó kịp thời với sự biến động của tình hình tài chính, kinh tế trong nước và trên thế giới giúp ổn định đồng nội tệ trong thời gian dài, tạo tâm lý ổn định cho người dân cũng như các nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt nam còn cần phải hoàn thiện và đổi mới rất nhiều, phải xác định đúng mục tiêu định hướng trong thời gian trước mắt cũng như chiến lược lâu dài; quan tâm đến các công cụ gián tiếp đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở- đây là công cụ hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường nhưng để phát huy được sức mạnh của nó thì chúng ta phải phối hợp với các công cụ khác để có thể phát huy được hiệu quả cao nhất; luôn gắn và theo sát tình hình trong nước và thế giới để có những quyết sách đúng đắn kịp thời và đạt hiệu quả cao. Làm được như vậy thì chính sách tiền tệ sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế thị trường ở Việt nam, cho phép nền kinh tế tăng trưởng ổn định bền vững mà vẫn đảm bảo vận hành thưo định hướng xã hội chủ nghĩa, theo đúng đường lối của Đảng và Nhà nước đề ra. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình lý thuyết tiền tệ và ngân hàng- NXB Xây dựng 2001. Giáo trình lý thuyết tiền tệ- NXB Tài chính 1998. Tài liệu giảng dạy môn nghiệp vụ ngân hàng trung ương- Học viện ngân hàng. Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng trung ương- NXB Chính trị quốc gia 1997. Luận án tiến sĩ: “Các giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực của chính sách tiền tệ Việt nam thông quan cơ chế điều chỉnh bằng lãi suất”- Tô Kim Ngọc. Hoàn thiện chính sách tiền tệ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế- Nguyễn Thu Hương- vụ chính sách tiền tệ –NHNN. Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Cơ chế điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của Ngân hàng trung ương”- Học viện Ngân hàng. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt nam các năm 2000, 2001, 2002. Tạp chí: Thị trường tài chính tiền tệ Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng Tạp chí ngân hàng Các trang báo điện tử: vneconomy.com.vn; bvsc.com.vn; mof.gov.vn; Mục lục Trang Kết luận 39 Danh mục tài liệu tham khảo 40

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35642.doc
Tài liệu liên quan