Tiểu luận Nguồn lao động và vấn đề sử dụng lao động ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng

LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam là một nước đông dân trên thế nghiệp lâu đời, hiện Sóc Trăng có giới. Dân cư, lao động tập trung chủ yếu ở nông thôn trong khi đó nền kinh tế đất nước cũng chậm phát triển nhất là khu vực nông thôn nên vấn đề lao động, việc làm đang là vấn đề gay gắt, bức xúc trong nền kinh tế đất nước. Sóc Trăng là tỉnh có truyền thống nông 322.330 ha đất tự nhiên. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp là 263.831 ha, chiếm 81,85%. Hiện nay toàn tỉnh Sóc Trăng lực lượng trong độ tuổi lao động là trên 730.000 người (chiếm tỷ lệ 59% tổng số), đây là một nguồn lực lao động dồi dào, đầy tiềm năng cho sự phát triển kinh tế xã hội, góp phần thực hiện thành công quá trình CNH - HĐH (công nghiệp hoá hiện đại hoá) đất nước. Nhưng đây cũng là thách thức lớn cho vấn đề sử dụng lao động ở nông thôn, khi mà tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm đang còn rất lớn và có nguy cơ ngày càng gia tăng làm kìm hảm sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy mà em chọn tiểu luận "Nguồn lao động và vấn đề sử dụng lao động ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng" nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của các nhân tố tới nguồn lao động và sử dụng lao động; thực trạng nguồn lao động và sử dụng lao động ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng. Từ đó đề xuất một số giải pháp cho đào tạo và sử dụng hợp lý nguồn lao động của tỉnh. Để đạt mục tiêu nêu trên, phương pháp nghiên cứu được áp dụng là: phương pháp thu thập số liệu, thông tin từ tạp chí, internet và phân tích. Tuy nhiên, với sự hạn chế về hiểu biết và kiến thức nên tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý của Thầy để em có thể hoàn thành tốt tiểu luận của mình. LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC SỬ DỤNG YẾU TỐ ĐẦU VÀO 2 CỦA SẢN XUẤT 2 1.1. Sản xuất là gì? 2 1.2. Yếu tố sản xuất và sản phẩm. 2 1.3. Hàm sản xuất 2 1.4. Năng suất biên và năng suất trung bình 3 1.4.1. Năng suất biên (MP) 3 1.4.2. Quy luật năng suất biên giảm dần 3 1.4.3. Năng suất trung bình (AP) 4 1.4.4. Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng 4 1.5. Đường đẳng lượng 4 1.5.1. Đường đẳng lượng 4 1.5.2. Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) 5 1.5. 3. Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) và năng suất biên (MP) 6 1.6. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng. 6 1.6.1. Hàm sản xuất tuyến tính. 6 1.6.2. Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định 6 1.6.3. Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS 7 1.7. Hiệu suất theo quy mô 7 1.8. Đường đẳng phí 8 CHƯƠNG 2 10 THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGUỒN LAO ĐỘNG NÔNG THÔN 10 TỈNH SÓC TRĂNG 10 2.1. Các khái niệm cơ bản 10 2.1.1. Khái niệm chung về lao động 10 2.1.2. Nguồn lao động ở nông thôn 10 2.1.3. Vai trò của nguồn lao động nông thôn 11 2.1.4. Đặc điểm của nguồn lao động ở nông thôn 11 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lao động ở nông thôn 13 2.2.1. Dân số 13 2.2.2. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động 13 2.2.3. Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp 14 2.2.4. Dòng di chuyển lao động ra khỏi lãnh thổ Việt Nam 14 2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động ở nông thôn 14 2.3.1. Tình hình cung lao động ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng 15 2.3.2. Xem xét khía cạnh cầu lao động ở nông thôn tỉnh Sóc trăng. 17 2.4. Phương hướng và giải pháp trong thời gian tới 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1951 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguồn lao động và vấn đề sử dụng lao động ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Việt Nam là một nước đông dân trên thế nghiệp lâu đời, hiện Sóc Trăng có giới. Dân cư, lao động tập trung chủ yếu ở nông thôn trong khi đó nền kinh tế đất nước cũng chậm phát triển nhất là khu vực nông thôn nên vấn đề lao động, việc làm đang là vấn đề gay gắt, bức xúc trong nền kinh tế đất nước. Sóc Trăng là tỉnh có truyền thống nông 322.330 ha đất tự nhiên. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp là 263.831 ha, chiếm 81,85%. Hiện nay toàn tỉnh Sóc Trăng lực lượng trong độ tuổi lao động là trên 730.000 người (chiếm tỷ lệ 59% tổng số), đây là một nguồn lực lao động dồi dào, đầy tiềm năng cho sự phát triển kinh tế xã hội, góp phần thực hiện thành công quá trình CNH - HĐH (công nghiệp hoá hiện đại hoá) đất nước. Nhưng đây cũng là thách thức lớn cho vấn đề sử dụng lao động ở nông thôn, khi mà tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm đang còn rất lớn và có nguy cơ ngày càng gia tăng làm kìm hảm sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy mà em chọn tiểu luận "Nguồn lao động và vấn đề sử dụng lao động ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng" nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của các nhân tố tới nguồn lao động và sử dụng lao động; thực trạng nguồn lao động và sử dụng lao động ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng. Từ đó đề xuất một số giải pháp cho đào tạo và sử dụng hợp lý nguồn lao động của tỉnh. Để đạt mục tiêu nêu trên, phương pháp nghiên cứu được áp dụng là: phương pháp thu thập số liệu, thông tin từ tạp chí, internet và phân tích. Tuy nhiên, với sự hạn chế về hiểu biết và kiến thức nên tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và góp ý của Thầy để em có thể hoàn thành tốt tiểu luận của mình. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC SỬ DỤNG YẾU TỐ ĐẦU VÀO CỦA SẢN XUẤT 1.1. Sản xuất là gì? Sản xuất là hoạt động tạo chuyển hóa yếu tố sản xuất (đầu vào) thành sản phẩm (đầu ra) nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Thực tế cho thấy rằng cách thức sản xuất đối với các loại sản phẩm khác nhau là không giống nhau. Tuy nhiên, để sản xuất ra một sản phẩm nào đó cần phải có yếu tố sản xuất. 1.2. Yếu tố sản xuất và sản phẩm Yếu tố sản xuất (hay còn gọi là yếu tố đầu vào) là các loại hàng hoá được dùng để sản xuất ra hàng hoá khác. Yếu tố đầu vào bao gồm đất đai, nhà xưởng, máy móc nguyên liệu, nhiên liệu, lao động,.... sản phẩm yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Yếu tố đầu ra được đo lường bởi sản lượng. Sản phẩm bán ra trên thị trường thì được gọi là hàng hóa. Mỗi quá trình sản xuất cần những yếu tố đầu vào riêng. Vì vậy, các nhà kinh tế chia các yếu tố đầu vào của mọi quá trình sản xuất thành lao động và vốn. 1.3. Hàm sản xuất Mối quan hệ giữa số lượng các yếu tố đầu vào và sản lượng của một quá trình sản xuất được biểu diễn bằng hàm sản xuất. Hàm sản xuất của một loại sản phẩm nào đó cho biết sản lượng tối đa của sản phẩm đó (ký hiệu là q) có thể được sản xuất ra bằng cách sử dụng một số lượng vốn K và số lượng lao động (L) ứng với một trình độ kỹ thuật nhất định trong một thời gian nào đó. Hàm sản xuất được viết như sau: Trong đó: q là sản lượng tối đa có thể được sản xuất ra ở một trình độ công nghệ nhất định với số lượng lao động là L và số lượng vốn là K. Sản lượng q thay đổi tuỳ thuộc vào sự thay đổi của vốn, lao động và trình độ công nghệ. Hàm sản xuất chỉ có ý nghĩa đối với những giá trị không âm của K và L. Hàm sản xuất cũng biểu thị trình độ kỹ thuật. Một hàm số sản xuất cụ thể thể hiện một trình độ kỹ thuật nhất định. Khi kỹ thuật được cải tiến thì hàm sản xuất sẽ thay đổi và sản lượng sẽ tăng lên trong khi số lượng các yếu tố sản xuất không đổi hay thậm chí ít hơn. 1.4. Năng suất biên và năng suất trung bình 1.4.1. Năng suất biên (MP) Năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó (vốn hay lao động) là lượng sản phẩm tăng thêm một đơn vị yếu tố sản xuất đó, nếu các yếu tố khác là không đổi. Như vậy, năng suất biên của vốn và lao động lần lượt là đạo hàm riêng của sản lượng (q) theo số lượng vốn (K) và số lượng lao động (L): và Trong đó: MPK và MPL lần lượt là năng suất biên của vốn và lao động. Như vậy, năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó chính là đạo hàm riêng của hàm số tổng sản lượng (hay hàm sản xuất) theo số lượng yếu tố sản xuất đó. Về mặt hình học, năng suất biên là độ dốc của đồ thị hàm sản xuất (hay đường tổng sản lượng) tại từng điểm của đồ thị. 1.4.2. Quy luật năng suất biên giảm dần Quy luật năng suất biên giảm dần: Nếu số lượng của một yếu tố sản xuất tăng dần trong khi số lượng các yếu tố sản xuất khác giữ nguyên thì sản lượng sẽ tăng nhanh dần (nghĩa là năng suất biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng lớn). Tuy nhiên, vượt qua một mốc nào đó thì sản lượng sẽ gia tăng chậm hơn (nghĩa là năng suất biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng nhỏ nhưng vẫn còn dương). Nếu tiếp tục gia tăng số lượng yếu tố sản xuất đó thì tổng sản lượng đạt đến mức tối đa (năng suất biên bằng không) và sau đó sẽ sút giảm (năng suất biên ngày càng nhỏ và mang giá trị âm). Về phương diện toán học, quy luật năng suất biên giảm dần tương ứng với điều kiện đạo hàm riêng bậc hai của hàm sản xuất là âm. và Trong phân tích sản xuất, ta giả định rằng chất lượng của từng đơn vị của một yếu tố sản xuất nào đó là như nhau. Năng suất biên giảm dần là kết quả của việc hạn chế sử dụng các đầu vào cố định khác. Quy luật năng suất biên giảm dần tác động đến hành vi và quyết định của doanh nghiệp trong việc lựa chọn các yếu tố sản xuất để tăng năng suất, giảm chi phí và tối đa hoá lợi nhuận. 1.4.3. Năng suất trung bình (AP) Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất nào đó được tính bằng cách lấy tổng sản lượng chia cho số lượng yếu tố sản xuất đó. Công thức tính năng suất trung bình: và , trong đó: APL và APK lần lượt là năng suất trung bình của lao động và của vốn. Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất giảm xuống khi năng suất biên thấp hơn năng suất trung bình và ngược lại năng suất trung tăng lên khi năng suất biên lớn hơn năng suất trung bình. 1.4.4. Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng Mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào và sản lượng được quyết định bởi công nghệ sản xuất. Hay nói cách khác, công nghệ sản xuất là cách thức sản xuất ra hàng hoá - dịch vụ. Công nghệ được cải tiến khi có những phát minh khoa học mới được áp dụng vào sản xuất. Công nghệ tiến bộ sẽ giúp sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn. Điều này có nghĩa là công nghệ mới có thể giúp sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn với cùng số lượng các yếu tố đầu vào như trước hay thậm chí ít hơn. Với công nghệ mới, máy móc thiết bị có năng suất cao hơn và công nhân có thể đạt năng suất cao hơn. Những điều này làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Vì vậy, công nghệ sản xuất thường được xem như là một yếu tố phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế về phương diện sản xuất. 1.5. Đường đẳng lượng 1.5.1. Đường đẳng lượng Các kết hợp của các yếu tố đầu vào tạo ra cùng một sản lượng sẽ được biểu diễn trên một đường đẳng lượng. Đường đẳng lượng cho biết các kết hợp khác nhau về mặt số lượng của vốn (K) và lao động (L) để sản xuất ra một số lượng sản phẩm nhất định q0 nào đó. Phương trình của đường đẳng lượng: hay Các đặc điểm của đường đẳng lượng: - Tất cả những phối hợp khác nhau giữa vốn và lao động trên một đường đẳng lượng sẽ cho ra một mức sản lượng như nhau. - Tất cả những phối hợp về mặt số lượng của vốn và lao động nằm trên đường đẳng lượng phía trên (phía dưới) mang lại mức sản lượng cao hơn (thấp hơn). - Đường đẳng lượng dốc xuống về hướng bên phải và lồi về phía gốc toạ độ. - Những đường đẳng lượng không bao giờ cắt nhau. Trên một hệ trục ta có thể vẽ ra rất nhiều đường đẳng lượng tuỳ theo sản lượng. Các nhà sản xuất sẽ linh hoạt sử dụng những kết hợp đầu vào tạo ra cùng một sản lượng nhưng họ sẽ chọn tập hợp có chi phí thấp nhất khi xét đến yếu tố giá của các đầu vào. 1.5.2. Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) Độ dốc của đường bàng quan cho biết tỉ lệ thay thế giữa K và L trong khi sản lượng không. Để đo lường mức độ thay thế giữa vốn và lao động, ta có khái niệm tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS). Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn là số đơn vị vốn phải bớt đi để tăng thêm một đơn vị lao động mà không làm thay đổi tổng sản lượng. Công thức tính tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên: Trong đó: MRTSL cho K là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn. Ký hiệu q = q0 cho ta thấy là việc tính toán tỷ lệ thay thế biên được thực hiện trên đường đẳng lượng q0. Dấu (-) trong đẳng thức giữ cho tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên luôn có giá trị dương. Vì vậy, tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên cho biết độ lớn của sự thay thế giữa vốn và lao động. Căn cứ vào công thức này ta có thể thấy nghịch dấu với độ dốc của đường đẳng lượng tại một điểm nào đó chính là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn tại điểm đó. Đó là vì q0 = f(K, L) nên có thể suy ra phương trình đường đẳng lượng là K = g(q0, L). Do đó: hay chính là nghịch dấu với độ dốc của đường đẳng lượng. 1.5.3. Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS) và năng suất biên (MP) Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên có quan hệ với năng suất biên của lao động và vốn. Ta có thể xây dựng biểu thức thể hiện mối quan hệ này bằng công cụ toán học phổ biến. Nếu hàm sản xuất là q = f(K, L). - dK x MPK = dL x MPL => Như vậy, tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn bằng với tỷ số giữa năng suất lao động biên (MPL) và năng suất vốn biên (MPK). Rõ ràng, là MRTS tăng lên khi năng suất lao động biên tăng lên (do lượng lao động giảm đi) hay do năng suất biên của vốn giảm đi (do lượng vốn tăng lên) và ngược lại. 1.6. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng. 1.6.1. Hàm sản xuất tuyến tính. q = aK +bL với a, b ³ 0. Hàm sản xuất này cho thấy chỉ cần có vốn hay lao động thì quá trình sản xuất vẫn có thể diễn ra vì nếu K = 0 và L ¹ 0 và nếu K ¹ 0 và L = 0 thì q = aK ¹ 0. Nói cách khác, vốn và lao động có thể thay thế hoàn toàn cho nhau. Với hàm sản xuất này, và . Năng suất biên của vố và lao động không thay đổi khi K và L thay đổi. Đường biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng và số lượng đầu vào (K và L) là các đường thẳng dốc lên với độ dốc a hay b. Do phương trình của đường đẳng lượng của hàm sản xuất tuyến tính là: nên . Như vậy, đường đẳng lượng của hàm số này là những đường thẳng song song có độ dốc . Trong trường hợp hàm sản xuất này, vốn và lao động có thể hoàn toàn thay thế cho nhau. Nhà sản xuất có thể chỉ sử dụng vốn hay lao động cho sản xuất tuỳ thuộc vào giá của chúng. 1.6.2. Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định Hàm sản xuất cho biết sản lượng bằng với giá trị nhỏ nhất của hai giá trị trong ngoặc. - Chẳng hạn nếu aK bL thì q = bL. Trong trường hợp này, lao động là yếu ràng buộc đối với sản lượng. Việc tăng thêm vốn không làm không làm gia tăng sản lượng nên MPK = 0. - Khi aK = bL thì cả hai yếu tố K và L được sử dụng một cách hợp lý nhất vì không có hiện tượng dư thừa vốn hay lao động. Khi đó . Đẳng thức này xảy ra tại các điểm ở góc của đường đẳng lượng. Với hàm sản xuất này, vốn và lao động phải được sử dụng với một tỷ lệ nhất định vì chúng không thể thay thế cho nhau. Mỗi một mức sản lượng đòi hỏi một phương án kết hợp đặc biệt giữa vốn và lao động. Trong trường hợp này, ta không thể tạo thêm sản lượng nếu như không đưa thêm vào cả vốn và lao động theo một tỷ lệ cụ thể. 1.6.3. Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS ; a,b,c >0. Đây là trường hợp trung gian giữa hai trường hợp trên và cũng là hàm sản xuất phổ biến nhất được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào và sản lượng của một quá trình sản xuất. 1.7. Hiệu suất theo quy mô Các nhà kinh tế đo lường tác động của sự thay đổi của số lượng yếu tố đầu vào đến sản lượng thông qua khái niệm hiệu suất theo quy mô. Adam Smith lưu ý rằng khi số lượng các yếu tố đầu vào cùng tăng lên, thì sẽ xuất hiện việc phân công lao động và chuyên môn hoá. Điều này làm tăng tình hiệu quả của sản xuất. Kết quả sản lượng sẽ tăng nhiều hơn gấp đôi. Tuy nhiên, tăng gấp đôi số lượng yếu tố đầu vào thì việc quản lý sẽ trở nên khó khăn hơn nên hiệu quả của sản xuất sẽ giảm đi. Sự thay đổi của sản lượng khi số lượng các yếu tố đầu vào đồng loạt tăng lên với cùng một tỷ lệ. Giả sử hàm sản xuất có dạng q = f(K,L) và số lượng hai yếu tố đầu vào được nhân với một số nguyên dương m>1. Khi đó, ta phân loại hiệu suất theo quy mô của hàm sản xuất này như sau: - Nếu sản lượng tăng nhiều hơn m lần, ta nói sản xuất có hiệu suất theo quy mô tăng. - Nếu sản lượng tăng đúng bằng m lần, ta nói sản xuất có hiệu suất theo quy mô cố định. - Nếu sản lượng tăng nhỏ hơn m lần, ta gọi sản xuất có hiệu suất theo quy mô giảm. Trong số các loại hiệu suất theo quy mô thì hiệu suất quy mô cố định đóng vai trò quan trọng nhất trong các lý thuyết kinh tế. Đó không chỉ vì nó phân định ranh giới giữa hiệu suất quy mô tăng dần và hiệu suất quy mô giảm dần trên phương diện toán học mà còn có lý do để tin rằng hàm sản xuất có hiệu suất quy mô cố định. * Mối quan hệ giữa hiệu suất quy mô và năng suất trung bình: Xem xét sự thay đổi của năng suất lao động trung bình (APL) khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào của các hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô khác nhau. Ta có công thức tính năng suất trung bình: . Khi tăng vốn và lao động lên m lần, thì năng suất lao động trung bình trở thành: . Khi đó ta có các trường hợp sau: - Nếu hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô tăng thì: f(mK, mL) > mf(K, L). Do đó AP/L > APL, nghĩa là khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào lên thì năng suất lao động trung bình cũng tăng lên, làm giảm chi phí để sản xuất ra một đvsp. - Nếu hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô cố định thì: f(mK, mL) = mf(K, L). Do đó AP/L = APL, nghĩa là khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào lên thì năng suất lao động trung bình không đổi và như vậy chi phí để sản xuất ra một đvsp sẽ không đổi. - Nếu hàm sản xuất có hiệu suất theo quy mô giảm thì: f(mK, mL) < mf(K, L). Do đó AP/L < APL, nghĩa là khi tăng số lượng các yếu tố đầu vào lên thì năng suất lao động trung bình sẽ giảm xuống. Điều này có thể làm tăng chi phí để sản xuất ra một đvsp. 1.8. Đường đẳng phí Giả sử một doanh nghiệp dùng một số tiền nào đó, được gọi là tổng chi phí và được ký hiệu là TC - để mua hay thuê vốn và lao động cho sản xuất.Nếu đơn giá vốn là v và đơn giá của lao động là w thì doanh nghiệp sẽ sử dụng bao nhiêu vốn và lao động? Đường đẳng phí sẽ giúp trả lời câu hỏi này. Đường đẳng phí cho biết các kết hợp khác nhau của số lượng lao động (L) và vốn (K) có thể mua được bằng một số tiền (tổng chi phí) nhất định ứng với những mức giá nhất định. Phương trình đường đẳng phí có dạng: TC = vK + wL, trong đó TC là tổng chi phí, v là đơn giá vốn, w là đơn giá lao động, vK là chi phí cho vốn, wL là chi phí cho lao động. Phương trình này cho biết tổng chi phí cho vốn (vK) và cho lao động (wL) phải bằng với tổng chi phí (TC). Sự đánh đổi giữa vốn và lao động được biểu diễn bằng độ dốc của đường đẳng phí. Nếu gọi S là độ dốc của đường đẳng phí, ta có thể viết: S bằng với tỷ số giữa đơn giá của lao động và vốn và không phụ thuộc vào tổng chi phí. Do đó, khi giá của các yếu tố đầu vào thay đổi thì độ dốc của đường đẳng phí thay đổi. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGUỒN LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TỈNH SÓC TRĂNG 2.1. Các khái niệm cơ bản 2.1.1. Khái niệm chung về lao động Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật chất tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong quá trình sản xuất, con người sử dụng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa và xã hội. Nó là nhân tố quyết định bất cứ quá trình sản xuất nào. Như vậy động lực của quá trình phát triển kinh tế, xã hội quy tụ lại là ở con người. Con người với lao động sáng tạo của họ đang là vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải thực sự giải phóng sức sản xuất, khai thác có hiệu quả các tiềm năng thiên nhiên, trước hết giải phóng người lao động, phát triển kiến thức và những khả năng sáng tạo của con người. Vai trò của người lao động đối với phát triển nền kinh tế đất nước nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng là rất quan trọng. Lực lượng lao động là bộ phận của nguồn lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm. 2.1.2. Nguồn lao động ở nông thôn Nguồn lao động nông thôn là một bộ phận dân số sinh sống và làm việc ở nông thôn trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật (nam tuổi từ 16-60, nữ tuổi từ 16-55 tuổi) có khả năng lao động. Lực lượng lao động ở nông thôn là bộ phận của nguồn lao động ở nông thôn bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, đang có việc làm và những người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm. Tuy nhiên do đặc điểm, tính chất, mùa vụ của công việc ở nông thôn mà lực lượng tham gia sản xuất nông nghiệp không chỉ có những người trong độ tuổi lao động mà còn có những người trên hoặc dưới độ tuổi lao động tham gia sản xuất với những công việc phù hợp với mình. Từ khái niệm nguồn lao động ở nông thôn mà ta thấy lao động ở nông thôn rất dồi dào, nhưng đây cũng chính là thách thức trong việc giải quyết việc làm ở nông thôn. 2.1.3. Vai trò của nguồn lao động nông thôn Lao động là một trong ba nhân tố của bất cứ một quá trình sản xuất nào và trong thời đại ngày nay khi mà các nguồn lực trở nên khan hiếm thì nó được xem xét là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, vai trò của nguồn lao động nói chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng là rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang thực hiện CNH – HĐH đất nước trong đó CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn được đặc biệt quan tâm. Vì vậy lao động ở nông thôn có vai trò hết sức quan trọng nó được thể hiện qua các mặt sau: 2.1.4. Đặc điểm của nguồn lao động ở nông thôn Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp có đặc điểm khác với đặc điểm của các ngành khác. Vì vậy, lao động nông thôn cũng có những đặc điểm khác với lao động ở các ngành kinh tế khác, cụ thể nó biểu hiện ở các mặt sau: a. Lao động nông thôn mang tính thời vụ Đây là đặc điểm đặc thù không thể bác bỏ được của lao động nông thôn. Nguyên nhân của nét đặc thù trên là do: đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi chúng là những cơ thể sống trong đó quá trình tái sản xuất tự nhiên và tái sản xuất kinh tế đan xen nhau. Cùng một loại cây trồng vật nuôi ở những vùng khác nhau có điều kiện tự nhiên khác nhau chúng cũng có quá trình sinh trưởng và phát triển khác nhau. Tính thời vụ trong nông nghiệp vĩnh cửu không thể bác bỏ được trong quá trình sản xuất chúng ta chỉ có thể tìm cách làm giảm tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Từ đó đặt ra vấn đề cho việc sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đặc biệt là vấn đề sử dụng lao động nông thôn một cách hợp lý có ý nghĩa rất quan trọng. b. Nguồn lao động ở nông thôn tăng về số lượng Dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: qui mô và cơ cấu dân số có ý nghĩa quyết định đến qui mô cơ cấu của nguồn lao động. Do sự phát triển của quá trình đô thị hóa và sự thu hẹp dần về tốc độ tăng tự nhiên của dân số giữa nông thôn và thành thị nên tỷ lệ dân số cũng như lực lượng lao động so với cả nước ngày càng giảm. - Chất lượng nguồn lao động nông thôn chưa cao. Chất lượng của người lao động được đánh giá qua trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật và sức khỏe. - Đến thời điểm đầu năm 2009, toàn tỉnh Sóc Trăng lực lượng trong độ tuổi lao động là trên 730.000 người (chiếm tỷ lệ 59% tổng dân số), nhưng chỉ có khoảng 14% lao động đã qua đào tạo. Hằng năm tỉnh Sóc Trăng có khoảng 100.000 lao động khu vực nông thôn thiếu việc làm. Đối tượng thất nghiệp phần lớn rơi vào hộ nghèo, khó khăn về đất ở và không có đất sản xuất. Tình trạng “thừa nhân lực yếu, thiếu nhân lực chất lượng” đang là một thách thức lớn đối với Sóc Trăng trong quá trình đi tìm lời giải cho bài toán đào tạo nghề, giải quyết việc làm (GQVL) nhằm thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững. Trong khi các cụm công nghiệp tại TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai luôn trong tình trạng khan hiếm lao động thì tại Sóc Trăng có nguồn nhân lực dồi dào song lại không đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng của các đối tác. Nguyên nhân chính là do lực lượng lao động nông thôn yếu về trình độ học vấn lẫn tay nghề nên không đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng hoặc lao động cho các cụm công nghiệp không bám trụ lâu dài được ở các công ty, nhà máy…đều bỏ việc trở về địa phương vì không thích ứng được môi trường, tác phong lao động công nghiệp cũng như những áp lực giá cả sinh hoạt đắt đỏ nơi đô thị...Cũng vì lý do này mà trong thời gian qua, có hàng ngàn lao động phổ thông Sóc Trăng “rồng rắn” đi làm thuê ở khắp các địa phương khác. Nhiều hộ gia đình không có đất sản xuất, quanh năm làm thuê nay đây mai đó nên không có điều kiện chăm sóc con cái, hệ quả là tỷ lệ trẻ em thất học, bỏ học ngày càng trở nên phổ biến trong vùng đồng bào Khmer. - Những năm qua, Sóc Trăng không chỉ tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ về lao động, việc làm mà còn thực hiện có hiệu quả việc đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng mức sống của người lao động nông thôn theo hướng bền vững - Tuy vậy nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn chưa phát huy hết tiềm năng do trình độ chuyên môn của lao động thấp kỹ thuật lạc hậu. Do đó, để có một nguồn lao động với trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì nhà nước cần phải có chính sách đào tạo bồi dưỡng để có nguồn nhân lực đủ trình độ để phát triển đất nước. - Nhìn chung do lao động nước ta do thu nhập thấp nên dẫn đến các nhu cầu thiết yếu hàng ngày chưa đáp ứng được một cách đầy đủ. Vì vậy, sức khỏe của nguồn lao động cả nước nói chung và của nông thôn nói riêng là chưa tốt. 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lao động ở nông thôn 2.2.1. Dân số Dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: qui mô và cơ cấu dân số có ý nghĩa quyết định đến quy mô và cơ cấu nguồn lao động. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự biến động của dân số là: phong tục, tập quán của từng địa phương, trình độ phát triển kinh tế, mức độ chăm sóc y tế và chính sách của từng nước đối với vấn đề khuyến khích hoặc hạn chế sinh đẻ. Từ đó nó ảnh hưởng đến qui mô của dân số, đến nguồn lao động. 2.2.2. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là phần trăm dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nhân tố cơ bản tác động đến tỷ lệ tham gia lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Nhưng do đặc điểm lao động nông thôn bao gồm cả những người trên và dưới độ tuổi lao động vẫn thích hợp với một số công việc và vẫn phát huy được khả năng của họ. 2.2.3. Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp Thất nghiệp là hiện tượng những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, đang không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Số người không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến số người làm việc và ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế. Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của mọi quốc gia vì nó không chỉ tác động về mặt kinh tế mà nó còn ảnh hưởng đến vấn đề xã hội. Điều đó dẫn đến dòng di chuyển lao động từ nông thôn lên thành thị để làm thuê trong dài hạn hoặc chỉ tìm việc làm trong những tháng nhàn rỗi… để có thu nhập cao hơn. Từ nhu cầu thực tế đó đã dẫn tới số lao động ở nông thôn bị giảm sút đồng thời lao động ở thành thị tăng nhanh. Mặt khác, do không có trình độ chuyên môn kỹ thuật nên số lao động này cũng chỉ làm những công việc nặng nhọc, làm công nhân cho các xí nghiệp, công ty hoặc bán hàng rong ở thành phố nên thu nhập không cao nhưng cũng giải quyết được vấn đề việc làm trong lúc nông nhàn. Do đó vấn đề đặt ra là phải tạo việc làm cho người lao động nông thôn ngay chính quê hương của họ, giải quyết việc làm theo xu hướng “ly nông bất ly hương” tạo việc làm để tăng thu nhập ngay trên chính quê hương của họ bằng nhiều biện pháp như: đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, cho người nghèo vay vốn với lãi suất ưu đãi vv. 2.2.4. Dòng di chuyển lao động ra khỏi lãnh thổ Việt Nam Đây là hiện tượng những người lao động ở nông thôn đi xuất khẩu lao động, đó là một trong những hướng đi của một số ít người chứ không phải là đa số, bởi vì những người có khả năng xuất khẩu lao động ở nông thôn là rất ít theo số liệu thống kê tháng 8 năm 2009 từ năm 2003 – 2009 xuất khẩu được 2.090 người và những yêu cầu của nước nhập khẩu lao động là khá cao nên dòng di chuyển này rất ít ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. 2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động ở nông thôn Số lượng lao động mới phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động vào phát triển kinh tế. Mặt khác, cần được xem xét đến chất lượng nguồn lao động, đó là yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng lao động có thể được nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, sức khỏe của người lao động và sự bố trí điều kiện lao động tốt hơn. Giáo dục được coi là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng của con người theo nhiều kiểu khác nhau. Yêu cầu chung đối với giáo dục là rất lớn, nhất là đối với giáo dục phổ thông, con người ở mọi nơi đều tin rằng giáo dục rất có ích cho bản thân mình và thế hệ mai sao. Bằng trực giác, mọi người có thể thấy mối quan hệ giữa giáo dục và mức thu nhập. Mặc dù không phải tất cả những người, ví dụ như đã tốt nghiệp hết cấp III có thu nhập cao hơn những người mới tốt nghiệp cấp I, II nhưng đa số là như vậy, và mức thu nhập của họ đều cao hơn nhiều. Nhưng để đạt được trình độ giáo dục nhất định cần phải tốn chi phí khá nhiều, kể cả chi phí gia đình và chi phí của quốc gia. Kết quả giáo dục làm tăng lực lượng lao động có trình độ tạo khả năng thúc đẩy đổi mới công nghệ. Công nghiệp thay đổi càng nhanh càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vai trò của giáo dục còn được đánh giá qua tác động của nó đối với việc tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ có nâng cao trình độ và tích lũy kiến thức. Giống như giáo dục, sức khỏe làm tăng chất lượng của nguồn nhân lực cả hiện tại và tương lai, người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung trong khi đang làm việc. Đây là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động. Những người lao động ở nông thôn được xem là cần cù, chịu thương, chịu khó do đó ý thức, trách nhiệm lao động của họ là rất tốt. 2.3.1. Tình hình cung lao động ở nông thôn tỉnh Sóc Trăng Sóc Trăng là tỉnh có dân số đông với 1.172.404 người, trong đó có hơn 61.977.500 người sống ở khu vực nông thôn chiếm 71,89 % dân số toàn tỉnh (số liệu cục thống kê 01/4/2009). Số người trong độ tuổi lao động ở nông thôn trên 730.000 người (chiếm tỷ lệ 59% tổng số) nhưng chỉ có khoảng 14% lao động đã qua đào tạo. Hằng năm, tỉnh Sóc Trăng có khoảng 100.000 lao động khu vực nông thôn thiếu việc làm. Đối tượng thất nghiệp phần lớn rơi vào hộ nghèo, không có đất sản xuất. Tình trạng “thừa nhân lực yếu, thiếu nhân lực chất lượng” đang là một thách thức lớn đối với Sóc Trăng trong quá trình đi tìm lời giải cho bài toán đào tạo nghề, giải quyết việc làm (GQVL) nhằm thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo bền vững và đây cũng là nguồn lao động dồi dào cho phát triển kinh tế - xã hội. Qua những số liệu trên cho thấy nông thôn tập trung phần lớn lao động của tỉnh. Tuy nhiên, chất lượng nguồn lao động nhìn chung có những hạn chế nhất định: mặt bằng dân trí, ngoại ngữ và tay nghề thấp, lao động qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng thấp, từ đó cũng rất khó có cơ hội tìm được việc làm mới, ngoài trồng trọt, chăn nuôi. Cơ cấu lao động qua đào tạo cũng chưa hợp lý còn thừa thầy thiếu thợ. Đây là những điều bất cập luôn đặt ra cho chúng ta những thách thức gay gắt. Ngoài ra, tỷ trọng dân số nông thôn trong tổng dân số có xu hướng giảm dần, nguyên nhân chủ yếu của việc giảm tỷ lệ dân nông thôn là do quá trình di cư nông thôn – thành thị và xuất khẩu lao động theo số liệu thống kê (từ năm 2003-2008 xuất khẩu được 2.090 người) cũng góp phần làm giảm tỷ lệ dân số nông thôn trong tổng dân số. Đồng thời, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình và chênh lệch về thu nhập giữa hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp của lao động, cũng thúc đẩy quá trình di cư và chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn. Tóm lại: hiện dân cư ở nông thôn nhiều, tăng tự nhiên nhanh hơn thành thị nhưng trong tổng số lao động ở nông thôn đang có xu hướng giảm do di cư. Do đặc điểm nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng chủ yếu trồng lúa, theo nhu cầu của trồng lúa thì thiếu lao động trong mùa thu hoạch, nhưng lại thừa lao động trong các thời gian còn lại của quá trình sản xuất lúa. Nếu duy trì lao động đủ trong mùa gặt thì lại quá thừa trong các thời gian còn lại, thiếu hiệu quả trong sử dụng nguồn lao động. Hiện tỉnh đang cơ giới hóa nông nghiệp để giải quyết khâu thiếu lao động và công nghiệp hóa để giải quyết khâu thừa nhưng quá trình công nghiệp hóa vẫn chưa tới nơi. Do đó giới thiệu việc làm ngoài tỉnh và xuất khẩu lao động là giải pháp của tỉnh để giảm lượng lao động thất nghiệp, nhưng đây là một giải pháp thiếu bền vững. 2.3.2. Xem xét khía cạnh cầu lao động ở nông thôn tỉnh Sóc trăng. Trong những năm gần đây khu vực nông thôn cầu lao động tăng chậm làm cho tình hình cung cầu trên thị trường lao động mất cân đối lớn. Về tình hình phân bố lao động phần lớn tập trung ở nông thôn với 61.977.500 người sống ở khu vực nông thôn chiếm 71,89 % dân số của tỉnh làm trong nông nghiệp. Trong cơ cấu nông nghiệp: Tỉnh Sóc Trăng có 322.330 ha đất tự nhiên. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp là 263.831 ha, chiếm 81,85%; diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 9.287 ha, chiếm 2,88%; diện tích đất chuyên dùng là 19.611 ha, chiếm 6,08%; diện tích đất ở là 4.725 ha, chiếm 1,46%; diện tích đất chưa sử dụng và sông suối đá là 24.876 ha, chiếm 7,71%. Trong đất nông nghiệp, diện tích đất trồng cây hàng năm là 208.882 ha, chiếm 79,17%, riêng đất trồng lúa là 188.067 ha, chiếm 90% gieo trồng được 2 vụ; diện tích đất trồng cây lâu năm là 21.257 ha, chiếm 8,05%; diện tích đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 10.737 ha, chiếm 4,06%. Diện tích đất có mặt nước chưa sử dụng là 466 ha, đất sông suối là 21.855 ha và đất bằng chưa sử dụng là 2.553 ha. Hiện nay, nhu cầu lao động trong sản xuất lúa đang giảm do quá trình cơ giới hóa trong sản xuất đang tăng. Nhìn chung cơ cấu chuyển dịch chậm, chăn nuôi và dịch vụ quá yếu đã làm hạn chế sự phát triển của trồng trọt và quá trình hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn ở nông thôn, mặt khác không phát huy được lợi thế của từng vùng, để tạo ra nhiều việc làm hơn từ nông nghiệp, từ đó việc thâm canh cây lúa đã đến giới hạn trong việc thu hút thêm lao động so với các cây trồng khác, làm cho hiệu quả sử dụng không cao. Rõ ràng, việc không sử dụng tốt yếu tố đất đai, cũng là một nguyên nhân thiếu việc làm cho lao động ở khu vực nông thôn. Cơ cấu lao động của tỉnh có những nét khác biệt với cơ cấu kinh tế do đặc điểm về nhu cầu lao động và năng suất lao động của các ngành khác nhau. Mặc dù tốc độ tăng trưởng nông nghiệp thấp hơn công nghiệp và dịch vụ, nhưng yếu tố lao động tham gia vào tăng trưởng rất lớn, nhất là khu vực nông thôn. Cơ cấu lao động khu vực nông nghiệp chiếm 59 % số người trong độ tuổi lao động. Về công nghiệp, thương mại, xây dựng cơ bản 01/2009 đạt 384,3 tỷ đồng (bằng 5,91% kế hoạch, tăng 12,7% so với cùng kỳ); trong đó, kinh tế nhà nước tăng 55,26%, kinh tế dân doanh tăng 7,88% so với cùng kỳ. Về sản xuất nông nghiệp, thủy sản: Sản lượng lúa mùa (kể cả lúa thu đông) 2008 - 2009 ước đạt 120.346 tấn, vượt 5% kế hoạch, tăng 26,25% so với vụ mùa năm trước. Tính đến cuối tháng 01/2009, các địa phương đã thu hoạch 66.574 ha lúa đông xuân, đạt 48% diện tích gieo trồng đã tạo nên sức ép rất lớn về việc làm và các vấn đề xã hội. Đây là những điều bất cập và thách thức mà trong những năm sắp tới Sóc Trăng phải ra sức phấn đấu vượt qua. Theo lý thuyết thì tăng trưởng kinh tế sẽ thu hút thêm lao động, giải quyết việc làm. Nhưng hiện tốc độ tăng trưởng tạo thêm việc làm ở nông thôn ít hơn số lượng lao động tăng thêm mỗi năm. Như đã đề cập ở trên, hiện theo cơ cấu lao động thì lao động nông nghiệp chiếm tới 59%, nhưng sự phát triển của nông nghiệp hiện nay chưa thể giải quyết hết lao động tăng thêm ở nông thôn, người làm nông nghiệp có thời gian nông nhàn nhiều, đặc biệt là trồng lúa. Cùng với xu thế chung của cả nước hiện nay thì công nghiệp và dịch vụ được ưu tiên hơn nông nghiệp, và tỉnh ta đã phấn đấu tăng trưởng công nghiệp, dịch vụ. Điều này làm nguồn lao động nông thôn muốn chuyển đổi cơ cấu ngành, nghề buộc họ phải ra đô thị ngoài tỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương… và xuất khẩu lao động dễ tìm việc làm và như vậy làm cho chính sách phát triển kinh tế, phát triển nông thôn của An Giang đã không gắn với đào tạo nghề và tạo việc làm tại chỗ. Tuy nhiên, trong khâu giải quyết lao động ở nông thôn, Sóc Trăng cũng có một giải pháp rất hiệu quả là phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Việc phát triển các làng nghề ở nông thôn là một giải pháp tốt để giải quyết lượng lao động nông nhàn, hạn chế được tình trạng di cư ra thành thị, giúp người dân nông thôn “ly nông bất ly hương”. Đây là một hướng sử dụng hiệu quả nguồn lao động nông thôn, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 2.4. Phương hướng và giải pháp trong thời gian tới Để phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao mức sống dân cư Sóc Trăng cần thực hiện các biện pháp nhằm ổn định số lượng, nâng cao chất lượng nguồn lao động và sử dụng hợp lý lao động. Thực hiện được điều này Sóc Trăng mới phát huy hết tiềm năng con người - nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực ở nông thôn: được xem là giải pháp mang tính đột phá tạo điều kiện và cơ hội cho người nông dân tự tạo cho mình một công việc hoặc tăng giá trị giờ, ngày công lao động sử dụng có hiệu quả trong sản xuất cũng như thời gian nông nhàn. Theo đó tỉnh đã có định hướng phát triển mạng lưới trung tâm dạy nghề đến từng huyện. Vấn đề còn lại là cách thức và ngành nghề đào tạo hợp lý để có được lực lượng lao động phục vụ tốt cho quá trình công nghiệp hóa sắp tới của tỉnh, và các cơ quan có thẩm quyền phải phối hợp đồng bộ để người lao động, đặc biệt là trong nông nghiệp ở nông thôn có được vốn sản xuất sau đào tạo. Thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp nhỏ ở nông thôn: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa đô thị hóa và việc làm cho người lao động nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề lâu dài, có ý nghĩa chiến lược góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế bền vững hơn. Quá trình đô thị hóa tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất khu vực nông thôn phát triển, làm thay đổi cơ cấu lao động và việc làm của lao động nông thôn. Kết hợp với việc xây dựng các khu công nghiệp nhỏ hay làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, thu hút lao động vào các nhà máy, dịch vụ mới và tạo cơ hội lớn giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động nông thôn. Thấy được tầm quan trọng đó, Sóc Trăng định hướng phát triển các khu công nghiệp và tỉnh hiện có 1 khu công nghiệp An Nghiệp, các công ty thủy sản và các huyện lân cận. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Vì thế cần phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn. Tiếp theo là phát triển nông nghiệp nhưng thay đổi cơ cấu giữa nông- lâm- thủy sản theo hướng phát triển mạnh lâm nghiệp và thủy sản. Trong nội bộ ngành nông nghiệp tiếp tục đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, và thay đổi cơ cấu cây trồng, giảm tỷ trọng cây lương thực, tăng tỷ trọng cây màu, cây công nghiệp. Làm được điều này sẽ hạn chế được lao động nông thôn đổ xô vào thành thị tìm việc làm, gây nên tình trạng quá tải về tất cả các mặt ở đô thị hiện nay. Sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả đất đai: Trong quá trình công nghiệp hóa hay xây dựng đô thị và kết cấu hạ tầng quan trọng phải dựa trên cơ sở quy hoạch tránh lãng phí, giúp cho quá trình sử dụng đất nông thôn tốt hơn. Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung đất đai, từ đó góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Trong nông nghiệp cần chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để tăng năng suất, hiệu quả canh tác, tăng nhanh giá trị sản lượng trên một đơn vị diện tích, phải đẩy nhanh thâm canh tăng vụ, nâng cao hệ số sử dụng ruộng đất. Cơ giới hóa nông nghiệp là một trong những động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy nền sản xuất nông nghiệp phát triển, cơ giới hóa nông nghiệp góp phần thúc đẩy việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, từ đó làm tăng sản lượng và tăng chất lượng các nông sản phẩm, đồng thời sẽ làm tăng thu nhập cho người nông dân. Nhưng quá trình cơ giới hóa cần phải thực hiện đồng bộ với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động và xây dựng các khu công nghiệp nhỏ ở nông thôn để giải quyết tốt việc làm cho lao động nông thôn. Cần hoàn thiện chính sách và pháp luật về quản lý đất đai, để biến đất đai thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển kinh tế và tạo thêm việc làm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Khương Ninh, Kinh tế vi mô Biên tập viên báo Sài Gòn giải phóng, 2008. Báo Kinh tế hợp tác tại ĐBSCL Bùi Quang Bình 2004. Thực trạng lao động nông thôn. Cục thống kê tỉnh Sóc Trăng 2008-2009. Niên Giám thống kê 2008-2009 tỉnh Sóc Trăng. Đặng Kim Sơn. 2001. Công nghiệp hóa từ nông nghiệp, lý luận thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam. Hà Nội: NXB Nông Nghiệp. Lê Xuân Bá, Nguyễn Mạnh Hải, Trần Toàn Thắng, Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Lưu Đức Hải. 2006. Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTLKTVM25.doc
Tài liệu liên quan