I, Đặt vấn đề.
Nguyên tắctrong quản lý hành chính Nhà nước là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sởkhoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy định trongpháp luật, làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.Các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước được ghi nhận trong các vănbản pháp luật của Nhà nước, từ Hiến pháp, các văn bản luật đến văn bản dướiluật. Điều này thể hiện tính pháp lý của các nguyên tắc trong quản lý hànhchính Nhà nước. Đối vớinguyên tắc tập trung dân chủ, hiện nay có ba loại ý kiến khác nhau về nguyêntắc này.Loại ý kiến thứ nhấtcho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai mặt tập trung vàdân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tập trung và dânchủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. Nếu thiên vềtập trung mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độcđoán trái với bản chất của Nhà nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coinhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt động của bộ máy nhà nướckém hiệu quả.Loại ý kiến thứ hai cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủlà “sự” tập trung “một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trêncơ sở dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêmchỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao. Loại ý kiến thứ ba cho rằng tập trung dân chủ là việc thủ trưởng có toàn quyềnquyết định các vấn đề của cơ quan trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân viên.
Haynói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của cán bộ, công nhân viên, các thànhviên trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa tham khảo và việc quyết định thuộcthẩm quyền của thủ trưởng.Như vậy, mộtđiểm chung nhất giữa các loại ý kiến đó là nguyên tắc tập trung dân chủ trongquản lý hành chính nhà nước là sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ.Sự kết hợp giữa các mặt này là không giống nhau, điều đó phụ thuộc vào tínhchất của các cơ quan, phụ thuộc vào trình độ quản lý, vào điều kiện cụ thể vềtổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước.Ở nước ta,nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ được áp dụng trong tổ chức và hoạtđộng của các cơ quan nhà nước và tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn đượcáp dụng trong tổ chức và hoạt động của một số các tổ chức chính trị, xã hội khác.Trên cơ sởquan điểm thứ nhất, em xin trình bày một cách khái quát về nguyên tắc tập trungdân chủ bao gồm các vấn đề về cơ sở pháp lý của nguyên tắc này, biểu hiện củanguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước và ý nghĩa của nguyên tắc nàytrong việc quản lý hành chính nhà nước
Phần Trang
I, Đặt vấn đề. 1
II, Cơ sở pháp lý của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước. 3
III, Lý luận chung về nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước . 3
IV, Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước. 4
1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp: 5
2. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương: 6
3. Sự phân cấp quản lý: 7
4. Sự hướng về cơ sở: 9
5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương: 10
IV. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 9
V. KẾT LUẬN. 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2644 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần
Trang
I, Đặt vấn đề.
1
II, Cơ sở pháp lý của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước.
3
III, Lý luận chung về nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước .
3
IV, Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước.
4
1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp:
5
2. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương:
6
3. Sự phân cấp quản lý:
7
4. Sự hướng về cơ sở:
9
5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương:
10
IV. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
9
V. KẾT LUẬN.
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
13
Mục Lục
I, Đặt vấn đề.
Nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật, làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, từ Hiến pháp, các văn bản luật đến văn bản dưới luật. Điều này thể hiện tính pháp lý của các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước.
Đối với nguyên tắc tập trung dân chủ, hiện nay có ba loại ý kiến khác nhau về nguyên tắc này.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất của Nhà nước ta. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập trung “một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao.
Loại ý kiến thứ ba cho rằng tập trung dân chủ là việc thủ trưởng có toàn quyền quyết định các vấn đề của cơ quan trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân viên. Hay nói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của cán bộ, công nhân viên, các thành viên trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa tham khảo và việc quyết định thuộc thẩm quyền của thủ trưởng.
Như vậy, một điểm chung nhất giữa các loại ý kiến đó là nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước là sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ. Sự kết hợp giữa các mặt này là không giống nhau, điều đó phụ thuộc vào tính chất của các cơ quan, phụ thuộc vào trình độ quản lý, vào điều kiện cụ thể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Ở nước ta, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ được áp dụng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn được áp dụng trong tổ chức và hoạt động của một số các tổ chức chính trị, xã hội khác.
Trên cơ sở quan điểm thứ nhất, em xin trình bày một cách khái quát về nguyên tắc tập trung dân chủ bao gồm các vấn đề về cơ sở pháp lý của nguyên tắc này, biểu hiện của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước và ý nghĩa của nguyên tắc này trong việc quản lý hành chính nhà nước
II, Cơ sở pháp lý của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước ta nên việc thực hiện quản lý hành chính nhà nước cũng phải tuân theo nguyên tắc này. Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định :
“Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
III, Lý luận chung về nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước .
Tập trung - dân chủ là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước ta cho nên việc thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước lẽ tất nhiên cũng phải tuân thủ nguyên tắc này. Trong đó:
+ Tập trung: thâu tóm quyền lực Nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo thực hiện pháp luật.
+ Dân chủ : là mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể vào hoạt động quản lý. Phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện pháp luật.
Nguyên tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Cả 2 yếu tố này phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ với nhau, chúng có mối quan hệ qua lại phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát triển trong quản lý hành chính nhà nước.
Vì thế, bất kỳ sự nhấn mạnh hay coi nhẹ một mặt nào của nguyên tắc này sẽ dẫn đến sự thiếu hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Nếu quá tập trung sẽ dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, phi dân chủ. Còn nếu quá dân chủ sẽ dẫn đến sự phát triển của xã hội sẽ trở nên tự phát, xuất hiện sự dân chủ quá trớn, tình trạng lạm dụng dân chủ và vô chính phủ. Nói như vậy cũng không có nghĩa là chúng ta dàn đều cả hai nội dung tập trung và dân chủ, tùy từng địa phương, từng thời điểm khác nhau cần định ra liều lượng kết hợp giữa những chế độ tập trung và chế độ dân chủ thích hợp tạo nên sự thống nhất hai mặt của nguyên tắc.
Tuy nhiên, đây không phải là sự tập trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, cơ quan địa phương có cơ sở và khả năng thực hiện quyết định của trung ương; đồng thời, căn cứ trên điều kiện thực tế của mình, có thể chủ động sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở. Cả hai yếu tố này vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ. Chúng có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát triển trong quản lý hành chính nhà nước.
IV, Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước.
Trong điều kiện hiện nay sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là một yêu cầu khách quan đối với công tác quản lý hành chính nhà nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện ở những điểm sau:
1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp:
Hiến pháp của nhà nước ta đã xác định nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Người dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt họ trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Điều 6, Hiến pháp 1992 đã quy định:
“Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước của nhân dân trên các lĩnh vực đời sống của xã hội, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương được thành lập. Trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Trước hết, cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước ở cùng cấp.Ở trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho nó quyền hành pháp. Ở địa phương, các UBND do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa phương. Các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (như Bộ, cơ quan ngang Bộ …) đều do các cơ quan quyền lực nhà nước ở cùng cấp trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ. Trong hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Tất cả sự phụ thuộc nêu trên đều nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động. Đồng thời, đó chính việc đảm bảo cho sự tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước – cơ quan do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Dân chủ được thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực Nhà nước trao quyền chủ động, sáng tạo cho cơ quan hành chính Nhà nước trong qua trình cơ quan này chỉ đạo thực hiện pháp luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực. Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, thay đổi, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình với cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực-cơ quan do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
2. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương:
Trước hết cần khẳng định sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và địa phương. Nếu thiếu nó sẽ dẫn đến buông lỏng sự lãnh đạo, làm nảy sinh tình trạng tuỳ tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Sự phục tùng này trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện ở cả 2 phương diện tổ chức và hoạt động.
Trên cơ sở qui định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của mình và căn cứ vào đặc điểm, tình hình, lợi ích hợp lý của điạ phương (hoặc cấp dưới), các cơ quan nhà nước trung ương (hoặc cấp trên) có quyền quyết định đối với địa phương (hoặc cấp dưới). Tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra cấp dưới và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện. Tuy nhiên đây không phải là sự phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Các cơ quan nhà nước địa phương (hoặc cấp dưới) có quyền chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước trung ương (hoặc cấp trên) hoặc những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình, phù hợp với đặc điểm cụ thể của địa phương hoặc đơn vị mình, nhưng không được trái với các qui định của trung ương (hoặc cấp trên ).
Trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phải phân định những vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể, những nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của người đứng đầu. Những vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể thì thiểu số phục tùng đa số nhưng thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến, đa số cũng cần xem xét, tham khảo ý kiến của thiểu số để kiểm tra tính đúng đắn trong quyết định của mình. Những vấn đề cá nhân có quyền quyết định thì cá nhân phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
3. Sự phân cấp quản lý:
Phân cấp quản lý là sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Quyền lực nhà nước không phải được ban phát từ cấp trên xuống cấp dưới. Sự phân quyền cho từng cấp là cần thiết nhưng phải đồng thời được kết hợp với việc xác định vai trò của từng cấp hành chính.
Khi tiến hành phân cấp quản lý, đã có sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả nhất mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và có những phương tiện cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao mỗi cấp quản lý, được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của mình.
Việc phân cấp quản lý hết sức phức tạp, đòi hỏi phải xem xét từ nhiều góc độ khác nhau: kinh tế, chính trị, xã hội, trình độ dân trí, trình độ quản lý của cán bộ…Có như vậy, mới đảm bảo cụ thể, hợp lý theo đúng quy định của pháp luật.
Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau:
+ Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
+ Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.
+ Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại cho cấp dưới đồng thời tránh cho cơ quan nhà nước ở trung ương phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ, thuộc về chức trách của các đơn vị ở địa phương cơ sở..
+ Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp dưới
4. Sự hướng về cơ sở:
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa xã hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi tạo ra của cải vật chất trực tiếp phục vụ đời sống nhân dân. Vì thế nhà nước cần có các chính sách quản lý thống nhất và chặt chẽ, cung cấp và giúp đỡ về vật chất nhằm tạo điều kiện để đơn vị cơ sở hoạt động có hiệu quả. Có như vậy hoạt động của các đơn vị này mới phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðây cũng chính là việc thực hiện "dân là gốc" trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính Nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất phục vụ nhân dân lao động. Do vậy, phải tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế, văn hoá, xã hội hoàn thành công việc của mình.Đây là việc cơ quan hành chính Nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với các hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa, xã hội trực thuộc.
Nhà nước có các chính sách và biện pháp quản lý một cách thống nhất và chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của các đơn vị cơ sở.
5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương:
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực thuộc. Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích của lãnh thổ.
Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Sự phụ thuộc này được nhà nước xác định một cách cụ thể trong các văn bản pháp luật. Ở địa phương, UBND các cấp trước hết có sự phụ thuộc vào HĐND cùng cấp (mối phụ thuộc ngang). Đồng thời, chúng còn có sự phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc).
Cơ quan quản lý hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở địa phương (sở, phòng, ban) phụ thuộc cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp (Uỷ ban nhân dân) – quan hệ ngang, và phụ thuộc vào cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên ở cấp trực tiếp - quan hệ dọc.
Mối phụ thuộc dọc nhằm tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới tạo nên hoạt động chung thống nhất
Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cho cấp dưới mở rộng dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương.
Mối phụ thuộc hai chiều này đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích chung của nước với lợi ích của địa phương, lợi ích ngành và lợi ích lãnh thổ.
Ví dụ: Sở Y tế Tỉnh, một mặt phụ thuộc vào UBND Tỉnh A, mặt khác phụ thuộc vào Bộ Y tế.
IV. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính chất chỉ đạo hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội nhưng khi vận dụng vào thực tế, nguyên tắc này đã giúp cho công tác quản lý hành chính nhà nước đạt được những hiệu quả rất tốt trong việc tăng hiêu quả hoạt động của công tác quản lý hành chính nhà nước.
Nội dung của nguyên tắc này quy định những đặc điểm chung, mang tính quy luật khách quan trong hoạt động của hệ thống quản lý xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nó phản ánh sự thống nhất giữa cơ sở tư tưởng, chiến lược và tổ chức của xã hội xã hội chủ nghĩa
Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước đã giúp cho việc thực hiện quyền lực làm chủ của nhân dân (thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương) hoàn thiện hơn, người dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình một cách hữu hiệu, tạo nên một cơ chế đảm bảo cho quần chúng tích cực tham gia vào công tác quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc áp dụng yếu tố dân chủ nhưng không thể loại trừ trách nhiệm cá nhân, nghĩa là, dân chủ nhưng phải gắn với trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể, trong công việc nhất định, ở thời gian xác định.
Đồng thời việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước cũng tạo nên một sự thống nhất về ý chí trong việc quản lý hành chính nhà nước, tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan, ngành khối trong toàn xã hội mà vẫn bảo đảm để cho các địa phương trong nước có quyền tự do tương đối trong việc định ra các hình thức phát triển khác nhau phù hợp với địa phương của mình. Tạo nên một sức mạnh tổng thể cho đất nước.
V. KẾT LUẬN.
Tập trung và dân chủ là một nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước khoa học, nhưng việc thực hiện đúng đắn nội dung của nguyên tắc này là một nhiệm vụ hết sức khó khăn và vô cùng quan trọng. Chỉ khi nào chúng ta kết hợp được sự tập trung và dân chủ một cách hài hoà thì mới phát huy được hết vai trò của nguyên tắc này trong thực tế xã hội nước ta hiện nay.
Việc tìm hiểu nguyên tắc tập trung dân chủ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đặc biệt là đối với các nhà quản lý, họ cần phải tiếp tục làm rõ nội dung, hình thức và sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều kiện nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước phải dựa trên quan niệm mới là quản lý tập trung trong điều kiện phát huy quyền tự chủ của tất cả các chủ thể xã hội. Chỉ có như vậy, bản chất ưu việt của chế độ mới được phát huy, sức mạnh của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được thực thi và sức sáng tạo của người dân mới được tôn trọng và giải phóng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hành chính Việt Nam.
Trường Đại học Luật Hà Nội. Nxb Công an nhân dân.
2. Giáo trình luật hành chính Việt Nam.
Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội Nhà xuất bản Đại học quốc gia
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước
Vũ Văn Nhiệm. Tạp chí KHPL SỐ 3/2004
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai tap luat 266.doc