Tiểu luận Những cuộc phát kiến địa lý châu Âu thời trung đại

Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến để tạo nên, duy trì, vận hành và tiến hoá xã hội loài người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn lại là di sản tích luỹ tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi loài người hình thành cho đến thời điểm xét đến. (Theo “Văn minh”-Bách khoa toàn thư mở) Như vậy , Lịch sử văn minh thế giới là lịch sử phát triển của loài người qua nhiều thế kỷ, từ khi con người xuất hiện đầu tiên trên Trái Đất cho đến nay. Bắt đầu từ những hoạt động sơ khai như săn bắt, hái lượm bằng các công cụ thô sơ, thì con người, nhờ vào trí tuệ và sức sáng tạo của mình, đã tìm tòi và tạo ra nhiều thứ cần thiết cho cuộc sống của họ.Vì vậy, cũng có thể nói rằng, lịch sử những nền văn minh thế giới chính là lịch sử của trí tuệ và sức sáng tạo của loài người vậy. Chúng ta đã biết đến về lịch sử văn minh thế giới qua các bài giảng của giáo viên. Trong mỗi thời đại, xã hội loài người nổi lên một số vùng, mà ở đó xã hội cư dân ở điểm tập hợp được các giá trị tiên tiến vượt trội trong nhiều lĩnh vực - hình thành nền văn minh. Riêng thời Cổ Đại có tám nền văn minh lớn được thống kê gồm: nền văn minh Ai Cập cổ đại, nền văn minh Hy Lạp, nền văn minh La Mã, nền văn minh Tây Á, nền văn minh Ấn Độ, nền văn minh Trung Hoa, nền văn minh Maya và nền văn minh Andes. Tuy nhiên,nói đến lịch sử văn minh thế giới,chúng ta cũng phải nhắc đến sự đóng góp quan trọng củ những cuộc phát kiến địa lý châu Âu thời trung đại. Qua những cuộc phát kiến địa lý, con người đã bắt đầu mở rộng vã vẽ thêm vào bản đồ thế giới những vùng đất mới, những miền đất hứa. Và cũng từ đó,con người đã bắt đầu chinh phục thế giới tới những miền đất xa xôi, và kết quả xuất hiện giai cấp tư sản và vô sản. Như vậy, những cuộc phát kiến này là một trong những tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.Vậy, những tiền đề của các Phát kiến lớn về địa lý, quá trình phát kiến địa lý, và hậu quả của nó ra sao? Thông qua bài tiểu luận “Những cuộc phát kiến địa lý châu Âu thời trung đại”, dưói sự hướng dẫn của giáo viên”Nguyễn Tuấn Bình”, chúng tôi sẽ giới thiệu và làm rõ hơn về vấn đề này.

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 12400 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những cuộc phát kiến địa lý châu Âu thời trung đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững bản đồ và hải đồ có ghi các bến cảng. Kỹ thuật đóng tàu có những bước tiến mới: tàu có bánh lái, có hệ thống buồm lớn, có sàn và boong để có thể đặt đại bác. Những kiểu tàu mới đã xuất hiện. Ca-ra-ven trở thành loại tàu vượt đại dương đầu tiên trong lịch sử thế giới. Những cuộc hành trình của người Châu Âu sang phương Đông và tài liệu ghi chép của một số người đi trước (như Mác-cô Pô-lô, người I-ta-li-a) cũng giúp cho các cuộc phát kiến địa lí ở các thế kỉ XV – XVI có điều kiện dễ dàng hơn. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đều ở cực tây nam Châu Âu tiếp giáp với Đại Tây Dương, và bờ biển có nhiều thủy thủ gan dạ và một tầng lớp quý tộc thượng võ, hiếu chiến đã được rèn luyện.Hơn nữa trong khi các nước Tây âu còn đang bận rộn trong cuộc nội chiến, khôi phục chiến tranh thì Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã hoàn thành công cuộc khôi phục và có kì vọng phát triển thành một cường quốc.Giai cấp thống trị các nước này ủng hộ những chuyến đi tìm đất mới mong chiếm đựợc nhiều của cải để trở thành giàu có, họ còn đưa ra lời hứa hẹn sẽ phong vương và ban thưởng cho những ai có nhiều công trạng trong các chuyến vượt biển. II. Tiến trình phát kiến địa lý Cho đến trước thế kỷ XV, người châu Âu chỉ biết có 3 đại lục : Âu, Á, Phi nối liền nhau, chung quanh là biển. Nhưng đến thế kỷ XV những hiểu biết của người châu Âu được bổ sung bằng thuyết qủa đất hình tròn, nhờ vậy mà họ biết rằng muốn sang Ấn độ thì có thể đi bằng hai cách : Vòng châu Phi hoặc vượt đại dương đi về phía Tây. Ði đầu trong việc tiến hành những cuộc thám hiểm vĩ đại vào thế kỷ XV là hai quốc gia Bồ đào nha và Tây ban nha. 1.Các chuyến đi của hoàng tử HENRY 1.1.Tiểu sử Henri nhà hàng hải Trong khoảng các năm từ 1385 tới năm 1435, nước Bồ Đào Nha có Vua John I cai trị. Hoàng tử Henri d'Aviz thấy mình đứng thứ ba trong thứ tự kế vị nên đã từ bỏ Chính Trị mà quay sang lãnh vực Khoa Học và Thám Hiểm. Henry đã đặt cơ sở khảo cứu trên mỏm cực nam của xứ Bồ Đào Nha và mỏm đất này như thể một bao lơn nhìn ra ngoài đại dương bát ngát Henri thành lập trường hàng hải tại Sagres, miền Nam Portugal.Ông đã tụ tập chung quanh mình một số học giả và những người đi biển.Những người này đã giúp ông chuẩn bị những cuộc thám hiểm bằng cách thành lập các toán chuyên về hàng hải, thiên văn và họa đồ địa lý. Ông đã cho vẽ ra những bản đồ mới. Henri còn cho xây cất một đài thiên văn để giúp các nhà thủy thủ lái tàu bằng cách xác định vị trí nhờ các vì sao. Từ 1420, mỗi năm ông đều cho đoàn thám hiểm tìm hiểu đại dương, phát xuất từ Sagres đi về hướng Nam. Các con tầu của Hoàng Tử từ phương đông trở về đã chất đầy vải lụa, hương liệu, còn nếu từ châu Phi, mang theo vàng, ngà voi và các nô lệ da đen. Nhưng mặc dù rất đắt tiền, các hàng hóa kể trên đều không được Hoàng Tử ưa thích bằng các bài tường trình về những miền đất chưa quen biết và về các vùng biển chưa từng có thuyền bè nào lui tới. Hoàng Tử Henry còn tặng nhiều tiền thưởng cho những tin tức liên quan tới bờ biển phía tây của châu Phi, tới hướng gió và các luồng nước chảy trên Đại Tây Dương. Ông chính là người đã mở đầu những chuyến đi của người Bồ Đào Nha. "Henry, nhà Hàng Hải" mặc dù có biệt hiệu của ông như vậy nhưng ông chưa từng đi tàu mặc dù ông có tinh thần của một nhà hàng hải. 2. Cuộc hành trình các con tàu của Hoàng tử Henry Cuộc hành trình các con tàu của Hoàng tử Henry Người Bồ Đào Nha khám phá Châu Phi Người Bồ Đào Nha xuôi thuyền hướng về Châu Á Người Bồ Đào Nha đến sinh sống tại Brésil, Nam Mỹ Năm 1415, người Bồ đã chiếm được pháo đài Ceuta trên bờ biến châu Phi, từ đó hầu như năm nào họ cũng tổ chức những đoàn thám hiểm đi về phía Nam dọc theo bờ biển châu Phi. Khi tìm đường đi sang Ấn Độ, các thủy thủ Bồ đã khám phá ra các nhóm đảo Canaries, Madeira, Azores. Một thuyền trưởng của Hoàng Tử Henry đã tới hòn đảo lớn Canaries rồi trở về Bồ Đào Nha và mô tả lại những dòng nước chảy mạnh chung quanh đảo. Sự việc này khiến cho Hoàng Tử Henry cử Goncalo Velho, một hiệp sĩ quý phái, đi "tìm nguyên nhân của dòng nước". Như vậy "Henry, nhà Hàng Hải" là người đầu tiên tìm hiểu các giới hạn của đại dương. Năm 1419, họ chiếm được hòn đảo Porto Xanto do người Ý tìm ra trước kia và biến đảo này thành thuộc địa. Năm 1445, họ đến được Cap Vert (mũi Xanh). Năm 1472, họ đến Vịnh Guinée, và bắt đầu khai thác những lớp đất có vàng, sau đó họ biến nơi nầy thành nơi buôn bán ngà voi, vàng , nô lệ và một phần gia vị. Họ đem áo dài vải gai, hạt cườm vũ khí và rượu bán cho người da đen ở đây. Khi đến vịnh Guinée, họ tưởng đây là mõm cực nam của châu Phi, nên năm 1482 họ cho xây dựng ở đây đồn Mina để cướp bóc. Henry đã dùng những điều hiểu biết do các thủy thủ đem về để vẽ bản đồ, với mục đích sử dụng trong các cuộc thám hiểm sau. Đồng thời với những kiến thức ngày một nhiều, cách đóng tầu thuyền cũng tiến bộ. Một thứ tầu biển mới được chế tạo có tên là Caravelle, đã cho phép các thủy thủ Bồ Đào Nha có thể đi xa hơn trước. Tàu Caravelle Từ năm 1416, mỗi năm đều có một đoàn thám hiểm ra đi nhưng mỗi đoàn chỉ đi được một quãng ngắn rồi quay trở về.Năm sau, trên cơ sở kết quả đã thu được, đoàn khác lại đi xa hơn một ít.Những tiến bộ đó thật chậm chạp, Người Bồ Đào Nha phải mất tới 82 năm mới đến được Ấn Độ (1416-1498).Trong các chuyến đi đó có hai cuộc thám hiểm lớn là của B.Dias (1450-1500) và Vasco da Gama(1469-1524). 2. Các chuyến đi của Bartolomeu Dias(1450 - 1500) a.Giới thiệu Bartolomeu Dias (1450 - 1500), nhà hàng hải Bồ Đào Nha.Năm 1457, Bartolomeu Dias được sinh ra ở Bồ Đào Nha.Bartolomeu Dias đến từ một gia đình quý tộc Bồ Đào Nha và cha của ông tham dự tòa án Bồ Đào Nha.Người ta tin rằng Dias đến từ một gia đình của các thủy thủ và nhà thám hiểm bao gồm Joao Dias người đi thuyền quanh Cape Bojador năm 1434 và Diniz Dias người phát hiện ra các quần đảo Cape Verde. Bartolomeu Dias đã được giáo dục tốt nhất và với trình độ của mình Ông đã có thể được dạy một số ngôn ngữ, vật lý, hình học, toán học và thiên văn học Ông là thành viên của tòa án Bồ Đào Nha hoàng gia và tổ chức tiêu đề của Sailing Master của con người của cuộc chiến Sao Cristovao Bồ Đào Nha (San Christovao). b.Cuộc hành trình của Bartolomeu Dias Ngày10 tháng 10 Năm 1486: Vua John II của Bồ Đào Nha bổ nhiệm Bartolomeu Dias vào một đoàn thám hiểm để lãnh đạo để đi thuyền vòng quanh mũi phía nam của châu Phi với hy vọng tìm ra một tuyến đường thương mại sang Ấn Độ. Bartholomeu Dias, người đã từng trông coi các kho của hoàng gia ở Lisbon và đã đi một chuyến tàu caravel xuống bờ biển châu Phi. Sau mười tháng chuẩn bị lâu ngày, tổ chức kỹ lưỡng, với vốn đầu tư lớn vào tháng bảy hoặc đầu tháng Tám, 1487, với hai caravels vũ trang, mỗi caravels năm mươi tấn và một tàu cung cấp  Dias chuẩn bị rời Lisbon.Dias mang theo sáu người châu Phi đã từng có mặt trong các chuyến thám hiểm Bồ Đào Nha trước đây. Dias cho họ ăn uống tử tế, cho mặc đồ theo kiểu người Âu, rồi rải họ ở một số nơi dọc bờ biển, cùng với những mẫu hàng hóa như vàng, bạc, gia vị và các sản phẩm châu Phi khác, để họ dùng kiểu "buôn bán câm" chỉ cho những người bản xứ biết người Bồ Đào Nha cần những loại hàng hóa nào. Sau khi đã rải hết những sứ giả châu Phi này, các con tàu của Dias gặp phải một cơn bão chuyển thành một cuồng phong dữ dội. Những con tàu phải hạ buồm chạy trước cơn gió bắc trên biển sóng lớn trong 13 ngày và bị gió đưa đi xa ra ngoài khơi rồi xuống phía nam của biển cả. Đoàn thủy thủ vừa mới bị sức nóng thiêu đốt của xích đạo, giờ đây trở thành hoảng loạn. "Và vì các tàu khá nhỏ và biển thì càng lúc càng lạnh hơn và không giống như lúc họ còn ở Guinea,... họ chỉ nằm trên tàu chờ chết". Nhưng cơn bão đã qua đi và Dias căng tất cả các cánh buồm và quay về phía đông, nhưng sau nhiều ngày vẫn không thấy đất đâu cả. Quay lên phía bắc 150 hải lý, ông bất ngờ thấy những dãy núi cao. Ngày 3 tháng 2, 1488, ông bỏ neo ở vịnh Mossel, nằm vào khoảng 30 dặm phía đông chỗ ngày nay gọi là Mũi Town. Có vẻ do ý trời, cơn bão đã thực hiện được điều mà không một kế hoạch nào có thể thực hiện, vì nó đã đưa Dias vòng qua mũi cực nam của châu Phi. Khi đoàn người thám hiểm lên bờ, họ bị dân bản xứ ném đá đuổi đi, Dias dùng cung bắn chết một người bản xứ khiến họ phải bỏ đi. Ông đi theo bờ biển, đi thêm ba trăm dặm nữa đến cửa của Great Fish River và vào vịnh Algoa. Dias muốn đi tiếp vào Ấn Độ Dương, để hoàn thành niềm mong đợi của nhiều thế kỷ, nhưng đoàn thủy thủ không muốn. "Mệt mỏi và kinh hoàng vì biển cả dữ dội mà họ đã đi qua, tất cả đều cùng nhau bắt đầu lẩm bẩm kêu ca và yêu cầu không được đi xa thêm nữa". Lương thực còn rất ít và chỉ có cách quay nhanh trở về tàu lương thực còn ở xa tít phía sau. Sau khi hội ý với các thuyền trưởng và mọi người đều ký vào quyết định quay trở về, Dias đã đồng ý. Trên đường về, họ trở lại chiếc tàu lương thực mà họ đã để lại cách đây chín tháng với 9 người trên tàu. Chỉ còn ba người sống sót và một trong ba người này "quá vui khi gặp lại các bạn nên đã chết một cách đột ngột, vì đã quá đuối sức vì bệnh tật". Người ta dỡ hàng từ chiếc tàu lương thực rồi đốt bỏ nó, chỉ còn hai con tàu caravel quay về Bồ Đào Nha vào tháng 12 năm 1488, sau mười sáu tháng và mười bảy ngày lênh đênh trên biển.Khi hai chiếc tàu caravel tan nát vì thời tiết về tới cảng Lisbon, Christopher Colômbô đã có mặt ở đó để đợi đoàn thám hiểm. Dạo ấy Christopher Colômbô chưa có tiếng tăm gì. Ông rất quan tâm đến kết quả chuyến đi của Dias. Tháng12 năm 1488, Dias trở về Lisbon.Sau khi vắng mặt,Ông đã thể hiện được cách để Vasco da Gama ông năm 1497 mà đi kèm, nhưng ở một vị trí cấp dưới, như xa như là Cape Verde Islands, Việc phát hiện ra các đoạn xung quanh châu Phi là quan trọng bởi vì, lần đầu tiên, người châu Âu có thể thương mại trực tiếp với Ấn Độ và các phần khác của châu Á, bỏ qua các tuyến đường bộ qua Trung Đông. Dias ban đầu được đặt tên là Mũi Hảo Vọng là "Mũi bão" (Cabo das Tormentas). Sau đó nó được đổi tên thành bởi vua John II của Bồ Đào Nha đến Cape of Good Hope (Cabo da Boa Esperança) bởi vì nó đại diện cho việc mở một tuyến đường phía đông.và với các thông tin vô giá cho chuyến đi thăm dò tương lai của Bồ Đào Nha. Những cuộc thám hiểm Bồ Đào Nha đã được lãnh đạo bởi Christopher Columbus , Vasco da Gama và Pedro Alvares Cabral tất cả những người sử dụng các bảng xếp hạng do Bartolomeu Dias.Sử dụng kinh nghiệm của mình với du lịch thám hiểm, Dias đã giúp trong việc xây dựng các Gabriel São và tàu anh em của mình, Rafael Sao đã được sử dụng bởi Vasco da Gama đi vòng quanh Cape và tiếp tục con đường đến Ấn Độ. Dias chỉ tham gia vào chân đầu tiên của chuyến đi da Gama, cho đến quần đảo Cape Verde . Sau đó ông bị một trong các thuyền trưởng của chuyến thám hiểm Ấn Độ thứ hai, đứng đầu là Pedro Alvares Cabral . Đội tàu này đạt tới trước bờ biển của Brazil , có tính sở hữu của nó trong 1500, và sau đó tiếp tục hướng về phía đông tới Ấn Độ. Dias thiệt mạng gần Cape of Good Hope rằng ông presciently có tên là Cape của bão. Bốn tàu gặp phải một cơn bão lớn đi mũi và bị mất, bao gồm cả Dias, ngày ngày 29 tháng 5 năm 1500. Dias không bao giờ được vua thưởng công xứng đáng và ông trở thành con người của Kỷ Nguyên Khám Phá của Bồ Đào Nha bị quên lãng. Ông có trông coi việc đóng những tàu cho Vasco da Gama, nhưng không dự phần trong chuyến hành trình cao điểm của Gama tới Ấn Độ. Người ta đã trông chờ công trình thám hiểm của Dias được tiếp nối mau chóng, nhưng nó đã bị trì hoãn do những vấn đề nội bộ ở Bồ Đào Nha, do việc kế vị ngôi vua bị gián đoạn và nhất là do cuộc tranh giành xảy ra khiến Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đang đứng bên bờ của một cuộc chiến. 3. Vasco da Gama(C.1460-1524) Vasco da Gama ( Vasco da Gama là bá tước thứ nhất của Vidigueira , là một nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha, một trong những nhà hàng hải châu Âu thành công nhất của Kỷ nguyên khám phá và là thuyền trưởng hạm đội đầu tiên đi thẳng từ châu Âu đến Ấn Độ. 3.1. Tiểu sử Vasco da Gama sinh khoảng năm 1460[1] hoặc 1469[2] tại Sines ở bờ biển phía Tây Nam của Bồ Đào Nha, có lẽ là trong một ngôi nhà gần nhà thờ Nossa Senhora das Salas. Cha của Vasco da Gama là Estêvão da Gama, một kỵ sĩ trong đội gia binh của Công tước xứ Viseu, Dom Fernando vào khoảng những năm 1460. Dom Fernando cử ông làm Alcaide-Mór (thủ hiến) xứ Sines và cho phép ông giữ lại một phần thuế thu từ việc làm xà phòng ở Estremoz. Estêvão da Gama kết hôn với Quý cô Isabel Sodré, con gái của João Sodré. Người ta biết rất ít cuộc đời Vasco da Gama khi còn nhỏ, có giả thiết cho rằng ông học trong một thị trấn trên đất liền ở Évora, ở đó có lẽ ông đã học Toán học và nghề hàng hải, người ta cũng biết rằng da Gama hiểu biết sâu về Thiên văn học là nhờ được học từ nhà thiên văn nổi tiếng Abraham Zacuto. Năm 1492 vua João II của Bồ Đào Nha phái ông tới cảng Setúbal, phía Nam Lisbon, và tới Algarve, tỉnh cực Nam của Bồ Đào Nha để chiếm lấy những con tàu Pháp nhằm trả đũa việc cướp bóc tàu thuyền Bồ Đào Nha trong thời bình, Vasco da Gama đã hoàn thành rất nhanh chóng và hiệu quả công việc được giao. 3.2.Bối cảnh Năm 1460, Hoàng Tử Henry qua đời. Sự kiện này đã làm tiêu tan động lực thúc đẩy các nhà thám hiểm Bồ. Nhưng việc tìm hiểu các miền đất mới đã không ngừng lại. Đường Xích Đạo được Lopo Goncalves băng qua vào năm 1473 mà không một thủy thủ nào bị cháy thành than! Các thám hiểm vẫn tiếp tục nhưng số lượng vàng bạc mang về xứ không được nhiều như trước, người thời đó đành hy vọng ở các hương liệu. Câu hỏi đặt ra cho họ là làm sao tới được Ấn Độ và muốn vậy, châu Phi phải là một lục địa tròn trong khi bờ biển của lục địa này vẫn tiếp tục trải dài hướng về phía nam. Sau Bồ Đào Nha, nước Tây Ban Nha bắt đầu chiếm được một số hải cảng trên các miền bờ biển châu Phi. Đã xảy ra một số tranh chấp giữa hai nước lân bang này. Để dành riêng châu Phi cho mình và giải quyết mọi tranh chấp, nước Bồ đã trông cậy vào vị Giáo Hoàng. Trong nhiều thế kỷ, giáo hội Thiên Chúa đã từng là trọng tài của các quốc gia theo Thiên Chúa giáo, nhưng ảnh hưởng của Giáo Hoàng đã bị kém dần. Tuy thế, từ năm 1455, nước Bồ Đào Nha đã nhận được một loạt các công bố của Giáo Hoàng cho họ tất cả các hải đảo và miền đất phía nam Cape Bojador. Năm 1478, Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella của các vương quốc Aragon và Castile, đã xin Giáo Hoàng đặc quyền buôn bán với xứ Guinea và đã bị từ chối trong khi tàu buôn Tây Ban Nha vẫn tiếp tục đáp vào vịnh Guinea để tìm bắt nô lệ. Tại bến cảng Seville, các con tầu mang về dân nô lệ da đen là những hình ảnh quen thuộc, chứng tỏ các hoạt động thám hiểm của người Tây Ban Nha tới các miền đất của châu Phi. Sau đó, nước Anh cũng xin phép Giáo Hoàng được quyền tới châu Phi và buôn bán. Trước những cạnh tranh của các quốc gia khác nhau, Vua Bồ Đào Nha John II bèn ra lệnh cho Diego Cao thực hiện một loạt các thám hiểm để tìm đường đi tới Ấn Độ. Các tầu viễn du của Diego Cao được cung cấp các cột mốc bằng đá, có ghi rõ bằng tiếng La Tinh, tiếng Bồ và tiếng Ả Rập để đánh dấu những nơi tìm ra và nhận chủ quyền về cho nước Bồ Đào Nha. Diego Cao đã đóng một cột đá tại cửa sông Congo vào năm 1483 và một cột khác tại Cape Cross, 22 độ phía nam của Xích Đạo. Nhà thám hiểm Cao đã đi dọc bờ biển được 1,500 dặm, từ Cape St. Catherine tới Cape Cross nhưng lục địa châu Phi vẫn tiếp tục trải dài vô tận về phía nam. Năm 1487, Vua John lại phái Bartolomeu Dias với ba tàu biển, chủ đích đi vòng lục địa châu Phi và nếu có thể thì bắt liên lạc với Vua Giáo Sĩ Prester John. Kết quả của các lần đi thám hiểm của Dias vẫn được giữ kín như trước kia và sau này, người ta được biết rằng Bartolomeu Dias đã tới được địa điểm mà ngày nay là Luderitz, 520 dặm về phía tây bắc của Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope). Một trận bão đã thổi con tầu của Dias vòng qua Mũi Hảo Vọng và khi cơn gió dịu đi, Dias đã tìm nơi trú ẩn trong vịnh Mossel rồi sau đó, dương buồm tới địa điểm có tên hiện nay là Port Alfred. Trên đường về, nhà thám hiểm đã gọi mũi đất nhô ra biển nhiều nhất của phần phía nam của châu Phi là Mũi Phong Ba (Cape of Storms) và về sau, Vua John đã đổi tên là Mũi Hảo Vọng, với hy vọng ở tương lại tốt đẹp. Tới lúc này, Xích Đạo đã được các tầu biển Bồ Đào Nha vượt qua nhiều lần và không một thủy thủ nào bị đốt cháy thành than. Các truyền thuyết cổ về những hiểm nguy đã bị bác bỏ và đã có tầu biển vòng qua được mỏm cực nam của châu Phi. Người Tây phương khi bước lên bờ, thám hiểm các miền đất mới, đã gặp các loại thổ dân khác nhau. Hỏa lực, gươm giáo và áo giáp của họ đã cho phép họ chiếm đoạt bất kể món hàng nào mà họ muốn có, ngay cả khi thổ dân thù nghịch, chống cự. Cũng vào năm 1487 khi sai Dias đi thám hiểm miền biển cực nam của châu Phi, Vua John của Bồ Đào Nha còn gửi đi hai phái đoàn cùng tới Aden theo đường bộ, một đoàn với chủ đích tìm ra con đường dẫn đến các nơi giàu có của phương đông, đoàn kia tìm cách bắt liên lạc với Vua Giáo Sĩ Prester John. Peroda Covilha được lệnh đi qua Arabia để tới Ấn Độ. Ông này đã tìm thầy con đường biển mà các con tầu Hồi giáo thường chuyên chở hương liệu vượt qua Ấn Độ Dương để tới châu Phi. Nhà thám hiểm thứ hai cũng thông thạo tiếng Ả Rập như Covilha, là Afonso de Paiva. Đoàn thám hiểm này đi sâu vào lục địa châu Phi từ phía đông bắc, lục tìm tại xứ Ethopia ngày nay. Cũng giống như các điều tìm thấy của Bartolomeu Dias, khám phá của hai đoàn thám hiểm kể trên được giữ kín. Covilha đã tới Calicut, là một thành phố ở phía tây của xứ Ấn Độ (Calcuta ở phía đông). Tại nơi này, các con thuyền gỗ của Trung Hoa và của miền đông Ấn Độ chuyên chở tới nào hương liệu, vàng bạc, nào tơ lụa và đồ sứ... Các mặt hàng quý giá này sau đó được chuyển tới vịnh Ba Tư và tới miền đông của châu Phi. Covilha thực ra không phải là người châu Âu đầu tiên tới được xứ Ấn Độ. Trước đó đã có các thương nhân từ Cairo đi theo biển Hồng Hải, rồi còn có những lái buôn khác từ các thành phố Venice, Genoa..., từ các xứ Pháp và Hòa Lan. Covilha sau đó đã đi ngược về vịnh Ba Tư và tới Sofala, phía nam của Beira thuộc châu Phi. Tại nơi này, ông ta đã nghiên cứu thấy rằng Ấn Độ Dương tiếp nối với Đại Tây Dương và như vậy, từ châu Âu có thể dùng đường biển để đi vòng phía dưới châu Phi tới Ấn Độ. Khi tới Cairo vào năm 1490, Covilha mới biết tin nhà thám hiểm Paiva đã chết. Lệnh của Vua John II bắt ông phải đảm nhiệm sứ mạng của Paiva bỏ dở. Covilha tìm đường tới được triều đình của vua xứ Ethopia và đã thấy rõ không có vị Vua Giáo Sĩ nào là Prester John cả. Năm 1520 có một phái đoàn khác của triều đình Bồ Đào Nha tới được xứ Ethopia và đã gặp lại ông Covilha già nua tại triều đình của xứ này vì Vua Ethopia đã không cho phép ông ta ra đi, nhưng chắc chắn là các báo cáo của Covilha cũng đã tới được tay của Vua John II của Bồ Đào Nha. Sau khi vị vua này chết năm 1495, vua kế tiếp là Manuel vẫn tiếp tục chính sách mở đường tới Ấn Độ. Khi de Gama được 10 tuổi, kế hoạch trên bắt đầu cho những kết quả cụ thể. Bartolomeu Dias đã quay trở lại sau khi đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope), ông cũng thám hiểm sông Rio do Infante (nay là sông Fish ở Nam Phi) và xác định rằng đường bờ biển chưa được biết tới chạy thẳng về hướng Đông Bắc. Những cuộc thám hiểm trên bộ trong thời kì trị vì của vua João II của Bồ Đào Nha cũng củng cố thêm lý thuyết cho rằng có thể đi tới Ấn Độ bằng đường biển từ Đại Tây Dương. Pero da Covilhã và Afonso de Paiva đã đi theo tuyến đường từ Barcelona, qua Naples, Rhodes đến Alexandria, và từ đó đến Aden, Hormuz và Ấn Độ tin vào lý thuyết này. Việc còn lại cho các nhà thám hiểm là phải xác nhận được mối liên hệ giữa những phát hiện của Dias và những chứng cớ của da Covilhã và de Paiva, và kết nối được những đoạn rời rạc của con đường thương mại đầy tiềm năng với Ấn Độ Dương. Nhiệm vụ này đầu tiên được giao cho cha của Vasco da Gama, sau đó đã được vua Manuel I của Bồ Đào Nha giao cho da Gama nhờ những thành tích của ông trong việc bảo vệ những trạm giao dịch dọc bờ biển châu Phi khỏi sự cướp phá của người Pháp. 3.3.Chuyến du hành đầu tiên Hải trình chuyến du hành đầu tiên của Vasco da Gama (1497 - 1499) Ngày 8 tháng 7 năm 1497 hạm đội 4 tàu của Vasco da Gama rời cảng Lisbon. 4 tàu bao gồm: 1.Chiếc São Gabriel: do đích thân Vasco da Gama làm thuyền trưởng, một chiếc carrack nặng 178 tấn, dài 27 mét , rộng 8,5 mét, buồm rộng 372 mét vuông, 150 thủy thủ 2Chiếc São Rafael: do Paulo da Gama anh trai của Vasco da Gama làm thuyền trưởng; kích thước tương tự chiếc São Gabriel. 3.Chiếc caravel Berrio: nhỏ hơn một chút so với hai chiếc đầu, do Nicolau Coelho làm thuyền trưởng. 4.Một chiếc tàu dự trữ không rõ tên: do Gonçalo Nunes làm thuyền trưởng, sau đó mất tích gần vịnh São Brás, dọc bờ biển phía Đông châu Phi. Có lẽ do lời khuyên của Dias, hải trình kỳ này đã không theo sát bờ biển của miền tây châu Phi mà vòng ra xa để tránh các giòng nước không thuận tiện và các bãi đất ngầm. Da Gama đã lợi dụng được luồng gió mùa và sau ba tháng, vượt hơn 4,000 dặm, đoàn tầu đã tới được bờ biển châu Phi tại vịnh St. Helena, phía bắc của Cape Town. Sau đó đoàn thám hiểm tiếp tục đi qua Cape Agulhas, tới vịnh Mossel. Tại vịnh này, Da Gama cho đóng một cột ghi dấu rồi lại tiếp tục dương buồm về hướng đông. Trên đường đi, Da Gama đã đặt tên cho các địa điểm như Natal với ý nghĩa là Ngày Sinh của Chúa, hay giòng sông "Các Điềm Lành" (the River of Good Omens). Khi tới hải cảng Mozambique, Da Gama đã gặp các thương nhân có hình dáng kỳ dị, các người Ả Rập và thổ dân buôn bán trên bến cảng. Sau đó, đoàn thám hiểm tới Mombasa, một hải cảng Ả Rập sầm uất rồi tới Malindi, nơi đã có một cộng đồng người Ấn Độ cư ngụ. Một số người theo Thiên Chúa giáo tại nơi này đã khiến cho Da Gama tin rằng Vua Giáo Sĩ Prester John ở không xa đó, sâu vào trong đất liền. 3.3.1Vòng qua mũi Hảo Vọng Ngày 16 tháng 12 năm 1497, hạm đội vượt qua sông White (Nam Phi) nơi Dias đã quay trở lại, họ tiếp tục đi vào một vùng nước người châu Âu chưa hề biết tới. Vì gần đến Lễ Giáng sinh, họ đặt tên cho bờ biển này cái tên Natal. Những vùng đất do người Người Ả rập kiểm soát nằm trên bờ biển phía Đông châu Phi là một phần của con đường thương mại trên Ấn Độ Dương. Lo sợ những người địa phương có thể sẽ căm ghét người theo đạo Thiên chúa giáo, da Gama đã giả làm một người Hồi giáo để tiếp kiến Sultan của Mozambique. Chỉ mang theo những hàng hóa tầm thường, Vasco da Gama đã không thể chuẩn bị được cống vật cần thiết và người dân địa phương bắt đầu nhận ra trò lừa bịp của da Gama. Bị buộc phải rời khỏi Mozambique, da Gama rời khỏi cảng và bắn đại bác vào thành phố để trả đũa. 3.3.2Mombasa Khi tới gần địa phận nước Kenya ngày nay, đoàn thám hiểm phải dùng tới biện pháp cướp bóc những tàu buôn Ả rập vốn ít khi được trang bị đại bác. Họ trở thành những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến cảng Mombasa nhưng lại gặp phải sự căm ghét của dân địa phương và phải nhanh chóng rời bến. 3.3.3 Malindi Tháng 2 năm 1498, Vasco da Gama tiếp tục đi theo hướng Bắc, hạm đội của ông ghé vào cảng Malindi, người dân ở đây có vẻ thân thiện hơn vì họ đang có xung đột với Mombasa và ở đây lần đầu tiên đoàn thám hiểm ghi nhận được sự có mặt của những nhà buôn Ấn Độ. Họ thuê một nhà hàng hải và vẽ bản đồ người Ả rập hiểu biết về gió mùa, người này đã giúp hạm đội đi nốt phần đường còn lại đến Calicut (nay là Kozhikode) ở bờ biển phía Tây Nam Ấn Độ. Vasco da Gama đặt chân đến Calicut ngày 20 tháng 5 năm 1498 3.3.4Calicut, India Đoàn thám hiểm đến Calicut ngày 20 tháng 5 năm 1498. Đôi khi họ phải đụng độ dữ dội với những nhà buôn người Ả rập để có thể thương lượng với nhà cầm quyền địa phương. Cuối cùng thì da Gama cũng có thể kiếm được một lá thư nhượng quyền trao đổi hàng hóa, nhưng ngay sau đó ông cùng hạm đội phải rời bến vì nhà cầm quyền cho rằng hàng hóa trên tàu của da Gama là đồ phạm pháp. Vasco da Gama giữ được hàng hóa của mình nhưng phải để lại vài người Bồ Đào Nha với mục đích mở một điểm giao dịch. 3.3.5Trở về Ngày 29 tháng 8 năm 1498, Vasco da Gama quyết định cho đoàn tầu rời Calicut để trở về Bồ Đào Nha. Hải trình qua Ấn Độ Dương mất ba tháng và nhiều thủy thủ đã mắc bệnh hoại huyết. Vì không đủ người, Da Gama đành phải hủy bỏ con tầu Sao Raphael gần Mombasa, rồi cuộc trở về đã không gặp khó khăn. Tháng 9 năm 1499, đoàn tầu của Vasco da Gama đã về tới bến cảng Lisbon sau hơn hai năm đi biển, vượt qua được 24,000 hải lý với 44 thủy thủ sống sót trong số 170 người đã ra đi. Paulo da Gama chết trên đường về ở vùng Azores còn Vasco da Gama đã quay lại được Bồ Đào Nha vào tháng 9 năm 1499, ông được thưởng hậu hĩnh nhờ việc hoàn thành tấm bản đồ mà những nhà thám hiểm Bồ đã phải vẽ trong 80 năm. da Gama được phong "Đô đốc Ấn Độ Dương" (Admiral of the Indian Ocean) và được quyền cai quản vùng Sines. Vua Manuel I cũng ban tước Quý ngài (Dom) vĩnh viễn cho da Gama, các anh chị em của ông và tất cả con cháu. Ông trở thành bá tước của Vidigueira, người Bồ Đào Nha đầu tiên không mang dòng máu hoàng tộc được phong chức này. Chuyến du hành của Vasco da Gama cho thấy rõ rằng bờ biển phía Đông của châu Phi, vùng Contra Costa là cực kì quan trọng cho lợi ích sau này của Bồ Đào Nha, các hải cảng ở vùng này cung cấp nước ngọt, lương thực dự trữ, bến tàu và xưởng mộc để sửa chữa thuyền, và nơi trú chân khi thời tiết không thuận lợi. Ngoài ra, việc trao đổi hương liệu cũng sẽ đóng góp chủ yếu cho kinh tế của Bồ Đào Nha. 3.4 Chuyến du hành thứ hai Ngày 12 tháng 2 năm 1502, một lần nữa da Gama cùng hạm đội tàu chiến 20 chiếc khởi hành. Pedro Álvares Cabral đã được phái đến Ấn Độ hai năm trước đó và phát hiện ra rằng những người Bồ được da Gama gửi lại đã bị giết chết, bản thân Cabral cũng bị tấn công và ông ta phải bắn phá Calicut trước khi khởi hành tới Cochin, một vương quốc nhỏ đã đón tiến Cabral rất nồng hậu. Khi quay trở về vào tháng 9 năm 1503, da Gama được trao thêm quyền quản lý cả Vidigueira và Vila dos Frades. 3.5 Chuyến du hành thứ ba Vasco da Gama được phái đến Ấn Độ lần thứ ba vào năm 1524 để giải quyết những khó khăn của người Bồ Đào Nha ở đây. Ban đầu da Gama được chỉ định để thay thế Eduardo de Menezes trong vai trò người đại diện của thuộc địa Bồ Đào Nha trên đất Ấn Độ, nhưng ông đã mắc bệnh sốt rét không lâu sau khi đến Goa và chết ở Cochin vào đêm Giáng sinh năm 1524. Đầu tiên, da Gama được chôn ở nhà thờ St. Francis thuộc Kochi, sau đó hài cốt của ông được chuyển về Bồ Đào Nha và cải táng trong một ngôi mộ lớn ở Vidigueira. Đường tới Ấn Độ 3.6.Thành quả Vasco da Gama là người đã khởi đầu "kỷ nguyên vàng" cho Bồ Đào Nha Hải cảng Vasco da Gama ở Goa được đặt theo tên của ông, tên ông cũng được đặt cho một miệng núi lửa lớn trên Mặt Trăng. Có tới 3 câu lạc bộ bóng đá ở Brazil (trong đó có Club de Regatas Vasco da Gama) mang tên của ông, câu lạc bộ Vasco Sports Club ở Goa cũng được lấy theo tên nhà hàng hải này. Da Gama được xếp thứ 86 trong danh sách 100 nhân vật ảnh hưởng nhất của lịch sử. Thành quả của Vasco da Gama trong chuyến đi vòng qua phía nam của châu Phi để tới Ấn Độ đã khiến cho nhà hàng hải này được xếp hàng đầu trong các nhà thám hiểm của mọi thời đại. Các khó khăn gặp phải và các may rủi đòi hỏi tới lòng cam đảm và tài năng của một thuyền trưởng đã khiến cho Vasco da Gama được ca tụng tương đương với Christopher Columbus. Vasco da Gama đã mang lại cho người châu Âu các quan niệm mới về thế giới, một nơi không còn bị giới hạn bởi bốn lục địa. Thế Giới từ nay đã được mở rộng cho nhiều người khác thám hiểm và khai thác nước này trở thành một trong những đế quốc đầu tiên. 4.Các chuyến đi của Christopher Colombus(1451-1506) 4.1 Tiểu sử Christopher columbus (1451-1506) là một nhà hàng hải lớn người Ý. Ông đã sống nhiều năm ở Bồ Đào Nha, học tập và nghiên cứu nhiều kiến thức về địa lí và hàng hải.Christopher Columbus được biết đến như một nhà thám hiểm vĩ đại của thế kỷ XV. Cho đến nay Columbus vẫn được coi như là người đầu tiên phát hiện ra châu Mỹ.Công cuộc thám hiểm bằng đường biển, chuyến đi quan trọng nhất và nổi tiếng nhất của Christopher Columbus,được thực hiện vào năm 1492. Cho đến cuối thế kỷ 15,các học giả về môn địa dư đều cho rằng nếu bằng một con tầu biển đi về hướng tây ,người ta có thể tới được các xứ Trung Hoa và Nhật Bản .Người thời đó chưa biết rằng sau Đại Tây Dương còn có lục địa châu Mỹ và một đại dương bao la là Thái Bình Dương. Sáng sớm ngày 12 tháng 10 năm 1492, nhà hàng hải Christopher Columbus đã bước lên bờ một hòn đảo thuộc châu mỹ, một miền đất chưa ai được biết đến.Đây là một sự kiện lịch sử ,đã mở đầu một sự kiện lịch sử, đã mở đầu cho việc tìm hiểu Tân Thế Giới và dẫn tới việc phổ biến nền văn minh tây phương trên lục địa này. Lúc nhỏ Christopher cùng em trai phụ giúp cha trong việc chải len. Khi lớn lên, Christopher đã theo các đoàn thuyền đánh cá đi tới các hải cảng Lisbon thuộc Bồ Đào Nha,rồi tới nước Anh và miền Flander...Là một người biết nhìn xa trông rộng lại có nhiều kinh nghiệm hàng hải nhờ các chuyến viễn du.Sau nhiều năm nghiên cứu với các dẫn chứng từ các học giả và từ những người đi biển danh tiếng, Christopher columbus nhờ một số bạn bè có thế lực đệ trình kế hoạch thám hiểm của mình lên Vua Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella.Lúc bấy giờ,do muốn tăng cường thế lực của mình nên Vua và Nữ Hoàng Tây Ban Nha đã chấp thuận yêu cầu giúp đỡ của columbus đi tìm vùng đất mới . Sau khi giành được sự hỗ trợ của các quốc vương Tây Ban Nha ,nhà Vua và Nữ Hoàng , Columbus là người đầu tiên thám hiểm vùng biển chưa được vẽ trên hải đồ về phía tây.Trong bốn chuyến hành trình của ông, ông đã phát hiện ra các vùng đất Bahamas,Hispaniola,Cuba,Dominica,Jamaica,Trung Mỹ và Nam Mỹ. Ông đã tìm được đường đi sang phương đông theo hướng tây. 4.2 Hành trình của hải Christopher Columbus Cuộc thám hiểm đầu tiên của Columbus là vào ngày 3 tháng 8 năm 1492,đoàn thủy thủ tham dự buổi lễ cầu nguyện rồi columbus bước lên tàu Santa Maria.Lên đường sang phía tây với ba chiếc thuyền lớn cùng 90 thủy thủ.Sau hơn 70 ngày lênh đênh trên mặt biển bao la tinh thần của các thủy thủ trên tầu dần bị suy sụp, đã đòi hỏi Christopher Columbus quay trở về nhưng vào lúc 2 giờ sáng ngày 12 tháng 10, họ đã thấy được vùng đất mới, Christopher Columbus và các thủy thủ là những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên quần đảo Caribe và hòn đảo này là đảo Walting, thuộc Bahama của Salvador.Sau đó tiếp tục ra khơi và đã dừng lại tại các hòn đảo mà ông đặt tên là Santa Maria de la Conception, Fernandina và Isabella.Vào ngày 6-12-1492, đoàn tầu dừng lại tại bờ biển phía bắc của đảo Hispaniola. Vào ngày 16-1-1493,Christopher Columbus đã quyết định cho tầu quay trở về.Hai con tầu Nina và Pita chất đầy phẩm vật quý vàng bạc, nữ trang, cùng nhiều thổ dân bị bắt cóc.Đến ngày 15-3-1493, cả hai con tầu cùng cập cảng Palos. Christopher Columbus được Vua và Nữ Hoàng Tây Ban Nha đón tiếp tại triều đình Barcelona. Columbus đã mô tả về vài hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi mà ông cho rằng vào sâu bên trong là nước Trung Hoa. Do vậy Vua và Nữ Hoàng Tây Ban Nha đã đồng ý cử Columbus đi thám hiểm một lần nữa để cố gắng tiếp xúc với triều đình Đại Hãn. Sau này, Columbus còn tổ chức 3 cuộc thám hiểm nữa.Vào tháng 9 năm 1493, Christopher Columbus ra đi lần thứ hai và sau 21 ngày lênh đênh trên biển, ông đã tới được phía bắc của quần đảo Windward mà ông đặt tên là Dominica.Sau đó đi theo con đường vòng cung của các đảo Leeward tới tận Puerto Rico và đặt tên các đảo là Santa Maria de Guadalupe, Santa Maria de Monserrate, Santa Cruz, ngoài ra còn khám phá ra đảo Jamaica.Vào mùa xuân năm 1496, đoàn tầu của Christopher Columbus trở về Tây Ban Nha và nhà hàng hải vẫn thuyết phục Vua Tây Ban Nha rằng xứ Trung Hoa sắp ở trong tầm thám hiểm.Chính vì vậy, tháng 5 năm 1498, Christopher Columbus lại rời Tây Ban Nha, ra đi lần thứ ba,đi về hướng nam.Lần này,họ đã tới đảo Trinidad và đây là một khám phá địa dư mới.Vài ngày sau, đoàn thám hiểm đặt chân lên đồng bằng Orinoco, tiến hành khảo sát Vịnh Paria và nhận ra đây là một lục địa lớn. Christopher Columbus đã tới vùng bờ biển của Nam Mỹ.Mùa hè năm 1502,Christopher Columbus tới Honduras mà ông tưởng lầm là bán đảo Mã Lai. Để tranh đua với Vasco da Gama của Bồ Đào Nha khi đó đã tìm thấy Ấn Độ, nhà hàng hải Columbus cho tầu về phía nam, tới Nicaragua và Costa Rica. Trong cuộc thám hiểm lần này ,Columbus đã gặp thất bại trong việc tìm đường qua châu Á, trong cuộc định cư trên đảo Hispaniola và tại các nơi khác. 5. Chuyến đi của Amerigo Vespucci ( 9/ 3/1454- 22/2/1512) Amerigo Vespucci Amerigo Vespucci (sinh 9/ 3/1454-mất 22/2/1512) là một nhà buôn, nhà thám hiểm và người vẽ bản đồ người Ý. Ông giữ vai trò chính trong hai cuộc thám hiểm vùng bờ biển phía đông của Nam Mỹ từ 1499 đến 1502. Trong chuyến thám hiểm thứ hai, ông phát hiện ra rằng Nam Mỹ mở rộng về phía nam hơn là những kiến thức người châu Âu đã biết. Điều đó làm ông tin rừng vùng đất này là một lục địa mới, một luận điểm dũng cảm vào thời điểm đó, khi các nhà thám hiểm châu Âu. vượt qua Đại Tây Dương đều cho rằng họ đã tới được châu Á (hay Ấn Độ, theo cách gọi của người thời đó). Những chuyến thám hiểm của Vespucci được biết đến rộng rãi ở châu Âu sau khi hai báo cáo được xem là của ông được xuất bản từ năm 1502 đến 1504. Năm 1507, Martin Waldseemuller học giả người Đức vẽ một bản đồ thế giới, trong đó ông đặt tên cho lục địa mới là "America" (châu Mỹ), lấy theo tên của Vespucci là Amerigo.Tấm bản đồ trở thành một công trình lịch sử, mở ra những kiến thức mới về thế giới. Hơn thế nữa, việc cái tên America lần đầu tiên xuất hiện từ 500 năm trước cũng khiến cả thế giới phải ngỡ ngàng. Ngoài việc đặt tên theo Amerigo Vespucci, cái tên America còn được xem là một lối chơi chữ với nhiều ý nghĩa khác nhau như “mới sinh” hay “miền đất không xác định”. Một câu hỏi đáng chú ý là tại sao Christopher Columbus tìm ra Châu Mỹ mà lục địa này lại mang tên America? Câu hỏi này đã được lịch sử trả lời. Vào giữa những năm 1499 và 1502, một nhà buôn đồng thời cũng là nhà thám hiểm người Ý mang tên Amerigo Vespucci đã thực hiện hai cuộc thám hiểm vùng biển phía đông của Nam Mỹ Châu. Ông Vespucci đã đi xuống phía nam xa hơn bất kỳ nhà thám hiểm nào đến trước ông. Khác với Columbus, ông không nghĩ rằng vùng đất mà ông đang thám hiểm là Á Châu, mà tin rằng đây chính là một vùng đất mới đang được khám phá. Sự khám phá ra tân thế giới của ông đã được giới báo chí tường thuật khiến ông trở nên nổi tiếng khắp Âu Châu. Vào năm 1507, bản đồ thế giới được vẽ lại và in ra với phần đất Châu Mỹ được đặt tên là America, lấy từ tên Amerigo của ông. Tên America sau đó gây nhiều tranh luận và nghi vấn về câu hỏi ai mới thật sự là người đầu tiên tìm ra Châu Mỹ; Christopher Columbus tuy tìm ra Châu Mỹ vào năm 1492 nhưng vì nhầm tưởng là Á Châu nên ông đã không tin là đã tìm ra một lục địa mới, trong khi Amerigo Vespucci tuy đến sau, nhưng là người khẳng định đó là một vùng đất mới. Dù sao đi nữa, nếu không có cuộc thám hiểm của Christopher Columbus thì chắc chắc Amerigo Vespucci sẽ không có cơ hội để kết luận là Châu Mỹ đã được tìm ra và người Âu Châu sẽ không có cơ hội để khai phá tân thế giới. Đã có rất nhiều ý kiến cho rằng Amerigo Vespucci “cướp công” của Columbus khi lục địa mới được gọi là America. Nhưng chính Columbus không ủng hộ ý kiến này. Ông nói rằng “Vespucci xứng đáng nhận được phần thưởng đó nhờ công sức lao động của mình”. Vespucci đặt chân lên “America” đúng 10 năm sau Columbus (năm 1502), nhưng “công sức” của ông lại vô cùng quan trọng: trong khi Columbus hết coi đây là Trung Quốc lại đến Nhật Bản, thì Amerigo Vespucci khẳng định nó là một lục địa mới, và là người đầu tiên gọi nó là Novus Mundus, Tân Thế Giới. Lịch sử thường như thế. Trước một lục địa, một khái niệm, một hàm số hay một phân tử, những người đầu tiên tìm ra thường không tỉnh táo bằng những người nối bước. Và chính những người kế thừa ấy mới là kẻ trao cho thứ được tìm ra vị thế đích thực của nó trong lịch sử. 6. Cuộc hành trình của Fernand de Magellan 6.1 Tiểu sử Fernand de Magellan - nhà hàng hải nổi tiếng, thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên vòng quanh trái đất (1519 - 1522). Ông đã tham gia nhiều chuyến đi biển men theo bờ biển Tây Phi và Đông Phi. Ông luôn có hoài bảo vượt trùng dương, đến những chân trời xa lạ. Magellan sinh vào khoảng năm 1480 tại Sabrosa, gần Vila Real, tỉnh Trás-os-Montes, miền bắc Bồ Đào Nha. Cha ông là Rui de Magalhães (ông nội là Pedro Afonso de Magalhães và bà nội Quinta de Sousa) và mẹ Alda de Mesquita, gia đình ông có các anh em Duarte de Sousa, Diogo de Sousa và Isabel de Magalhães. Sau khi ba mẹ mất vào năm ông lên mười, ông trở thành cậu bé giúp việc cho Hoàng hậu Leonor trong triều đình Hoàng gia Bồ Đào Nha theo truyền thống của gia đình. 6.2.Hành trình của Magellan Vào tháng 3, 1505, ở tuổi 25, Magellan gia nhập hạm đội gồm 22 tàu, đứng đầu là Francisco de Almeida ,Phó Vương đầu tiên của Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha. Mặc dù tên của ông không được tìm thấy trong biên niên sử các cuộc chiến tranh ở Ấn Độ, những điều còn lại người ta biết về ông là ông đã trải qua tám năm ở Goa, Cochin và Quilon. Ông đã tham dự một vài trận đánh, bao gồm trận Cannanore năm 1506, nơi ông đã bị thương. Năm 1509, ông dự trận đánh Diu và sau đó đi cùng thủy thủ đoàn của Diogo Lopes de Sequeira với tư cách Sứ thần đầu tiên của Bồ Đào Nha đến Malacca. Trong thủy thủ đoàn còn có bạn ông và có thể là người anh em họ Francisco Serrão. Tháng 9, sau khi đến Malacca, chuyến đi trở thành thảm họa khi họ rơi vào một âm mưu tấn công và phải rút lui. Trong dịp này Magellan đóng một vai trò then chốt giúp không cho đoàn hải hành không bị tiêu diệt hoàn toàn, ông đã cảnh báo Sequeira và chiến đấu dũng cảm cứu Francisco Serrão, người vốn đã lên bờ trước cuộc tấn công. Sau đó, ông được chú ý tới và thăng chức. Trong các năm 1505-1512 ông tham gia các chuyến hải hành của Bồ Đào Nha đến Ấn Độ Dương, 2 lần đến Malacca (nay là Malaysia) trong các năm 1509 và 1511. Thiết lập dự án bơi bằng con đường phía Tây đến quần đảo Molucca (nay thuộc Indonesia), nhưng ông bị loại bởi vua Bồ Đào Nha, do chuyến hải hành của Vasco da Gama, một con đường phía đông gần hơn đã được lập nên. Năm 1517, Magienlan đến thành phố Sêvila (Tây Ban Nha) được hoàng đế Tây Ban Nha ưu ái giúp đỡ. Năm 1518, ông cưới con gái nhà quý tộc quyền thế Tây Ban Nha. Hoàng đế Tây Ban Nha trích công quỹ chi phí cho chuyến thám hiểm của? Magienlan như mua sắm tàu bè, vũ khí, chiêu mộ thủy thủ ... Và vào ngày 20 tháng 9 năm 1519, 5 chiếc tàu với hải đoàn 265 người dưới sự lãnh đạo của Magellan khởi hành từ cảng San Lucar de Barrameda (những con sông nhỏ Guadalquivir) đi tìm eo biển Tây Nam từ Đại Tây Dương đến "biển Nam", khám phá bởi Vasco Nunes de Balboa.Ông đã tìm ra một eo biển, ở giữa mũi cực Nam của đại lục này với đảo Đất Lửa, về sau eo biển này mang tên ông, eo Magienlan. Đoàn tàu của Magellan gồm những tàu sau: Trinidad (tải trọng 110 tấn, 55 người) dưới sự điều khiển của Magalhães; San Antonio (120 tấn, 60 người) dưới sự điều khiển của Juan de Cartegena; Concepción (90 tấn, 45 người) dưới sự điều khiển của Gomez; Victoria (85 tấn, 42 người) dưới sự điều khiển của Gaspar de Quesada; và Santiago (75 tấn, 32 người) dưới sự điều khiển của Luis de Mendoza. Tiếp theo, đoàn thám hiểm đi vào một đại dương trong cảnh bể lặng sóng yên. Magienlan đặt tên là Thái Bình Dương. Thái Bình Dương rộng lớn hơn Đại Tây Dương nhiều. Đoàn thám hiểm lênh đênh giữa biển khơi hơn một năm trời, đói khát, bệnh tật đã làm họ kiệt quệ. Tháng 2.1521, đoàn thám hiểm đến Philipin. Magienlan tìm thấy ở đây có nhiều hồ tiêu, hương liệu, mặt hàng rất quý đối với châu Âu. Trong những cuộc đụng độ, cướp đoạt những sản phẩm này của dân bản xứ nhiều thủy thủ bị giết, bản thân Magienlan cũng bị chết ngày 6/3/1521. Đoàn thám hiểm chỉ còn một tàu vượt qua mũi Nam Phi trở về nước. Ngày 15/4/1522, đoàn thám hiểm về đến Tây Ban Nha chỉ còn lại 18 thủy thủ trong số 237 thủy thủ khởi hành trên năm con tàu, nhưng trên tàu đầy ắp hương liệu. Chuyến hải hành trong khoảng thời gian 1519–1522 của Magellan đã đi vào lịch sử như là chuyến đi đầu tiên bằng đường biển của con người từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương (cái tên có nghĩa "biển bình yên" này được đặt bởi Magellan; đồng thời nơi nối giữa hai Đại dương được mang tên Eo biển Magellan), và là chuyến đi đầu tiên băng qua Thái Bình Dương. Chuyến đi này cũng đánh dấu sự kiện con người lần đầu tiên đi vòng quanh Trái Đất thành công, mặc dù chính bản thân Magellan cũng không hoàn thành chuyến đi của ông do bị giết trong Trận chiến Mactan ở Philippines. Tuy nhiên, do Magellan đã từng đi theo hướng đông đến Bán đảo Mã Lai trong một chuyến hải hành trước đó, nên ông trở thành nhà thám hiểm đầu tiên đi qua tất cả đường kinh tuyến của quả địa cầu. Cuộc thám hiểm cũng đã khẳng định là Trái Đất hình tròn. Magellan cũng đặt tên mình cho Chim cánh cụt Magellan, vốn được ông là người châu Âu đầu tiên ghi chép lại,và Đám mây Magellan. 7.Các cuộc phát kiến địa lý khác 1- Ibn Buttuta (1303-1365): Người Ả Rập sinh ở Morrocan, ông đã đi từ Châu Phi, Châu Á và nhiều phần khác của Châu Âu trong chuyến thám hiểm thế giới Ả Rập 29 năm của ông. Các chuyến đi của ông được ghi trong một cuốn sách viết bằng tiếng Ả Rập và được lưu truyền trong thế giới Đạo Hồi (Muslim world). 2- John Cabot (1450-1499): Một nhà hàng hải người Italy định cư ở Anh và được sự hỗ trợ của nhà vua Henry VII. Ông đã chạy tàu tới Bắc Mỹ tìm kiếm đường chạy theo hướng phía tây sang phương đông. Những chuyến thám hiểm của ông đã phát hiện ra phần lớn Bắc Mỹ cho nước Anh. 3- Sebastian Cabot (1476-1557): Con trai của John Cabot và là một trong những người chuyên vẽ bản đồ kỹ lưỡng nhất thời đó. Ông là người thám hiểm tìm kiếm đường đi theo hướng tây bắc tới phương đông. Ông đã chạy tàu từ Tây Ban Nha và thám hiểm nhiều phần Nam Mỹ 4- Juan de Cartegena: Thuyền trưởng tàu San Antonia, một trong những con tàu chạy vào năm 1519 cùng với Magellan. Ông đã mưu toan giết Magellen và tiếp tục chuyến thám hiểm. Ông là người cầm đầu cuộc âm mưu binh biến. Magellan đã bỏJuan de Cartegena trên hoang đảo Patagania năm 1520. 5- Jacques Cartier (1491-1557): Nhà hàng hải chính phát hiện ra dòng sông St. Lawrence và đã thám hiểm vùng đất mà ngày nay là Montreal, và tìm kiếm ra tuyến đường tây bắc. 6- Samuel de Champlain (1570-1635): Nhà thám hiểm, hàng hải người Pháp và nhà địa lý vẽ bản đồ vùng Bắc Mỹ. Ông là người sáng lập ra Quebec, thuộc địa vĩnh viễn của Pháp ở Bắc Mỹ vào năm 1608. Ông đã thám hiểm dọc bờ New England. Ông phát hiện ra Hồ Champlain. Các bài viết và bản đồ của ông là những hồ sơ chính xác về địa lý vùng Bắc Mỹ. 7- Charles I (Charles V) (1500-1558): Hoàng đế Đế chế La Mã Thần thánh (Charles V) từ năm 1519 đến 1556. Ông là nhà vua Tây Bay Nha từ 1516 đến 1556. Ông đã trị vì Thế giới Cũ và những vùng đất mới phát hiện ra ở phương tây. Ông là nhà vua đầu tiên trị vì một nước Tây Ban Nha thống nhất. 8- Đô đốc Cheng Ho (Zheng He) (1371-1434?): Người Trung Quốc chỉ huy Đội tàu Kho Báu (Treasure Fleet) của triều Dragon Throne (từ gốc Hán là gì? có phải Càn Long?) người mở rộng quyền lực Trung Quốc trên Thái Bình Dương từ năm 1405 tới 1433. 9- James Cook (1728-1779): Sỹ quan hải quân, nhá giám định và thám hiểm. Năm 1768, ông thực hiện chuyến đi đầu tiên nổi tiếng của ông quan sát hiện tượng nhật thực của Sao Kim (Venus) và quyết định sự tồn tại của lục địa phương nam. Năm 1772, ông chạy tàu chuyến thứ hai tìm kiếm lục địa phương nam được kể trong truyền thuyết, và ông phát hiện ra các quần đảo Thái Bình Dương. Trong chuyến hành trình cuối cùng của ông năm 1776, ông đã chạy trong Thái Bình Dương, vẽ hải đồ bờ biển Bắc Mỹ từ Oregon tới Eo biển Bering, và tìm ra tuyến đường tây bắc ở vĩ độ cao. Ông bị giết tại Hawaii năm 1779. Ông là thuyền trưởng đi biển đầu tiên chống lại sự lan truyền của bệnh co rút sco-vy (bệnh thiếu vitamin C) và những bệnh khác trên tàu. Ông là người đầu tiên mang thời kế (chronometer) và vì thế đã giúp ông xác định vị trí chính xác trên bề mặt trái đất. 10- Francis Drake (1540 hoặc 1542-1569): Nhà thám hiểm thứ hai đi vòng quanh thế giới. Ông là người cướp biển thành công giúp việc phá vỡ sự độc quyến các tuyến đi biển chính của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là người Anh đầu tiên thám hiểm Thái Bình Dương. Ông chết vì bệnh lị tại bờ biển Panama. 11- Sebastian del Cano (or Elcano) (1476-1526): Ông là người dẫn tàu Victoria trở lại Tây Ban Nha năm 1522 và chết theo Magellan. Ông cố vấn/giúp đỡ cho Cartergena trong việc âm mưu bạo loạn nhưng không bị xử lý vì Magellan cần kỹ năng đi biển của ông. 12- Eric the Red (950-1001): Thủ lĩnh người Na-uy phát hiện ra đảo Greenland năm 982 và dẫn một nhóm người đi khai hoang năm 986. Khu dân cư tồn tại bốn hoặc 5 thế kỷ. 13- Leifr Eiriksson (980-1020): Nhà phát kiến người Na-Uy phát hiện ra Châu Mỹ. Con trai của Eric the Red. Có lẽ ông là người đã bị gió làm lạc hướng và đặt chân lên vùng đất Newfoundland hoặc New England ngày nay vào năm 1000. 14- Heriolf (không rõ năm sinh năm mất): Một trong những người di cư tham gia cùng với Eric the Red khai hoang đảo Greenland năm 986 A.D. 15- Biarni Heriolfsson (không rõ năm sinh năm mất): Con trai của Heriolf người đã bị lạc đường trên chuyến hành trình tham gia với bố tới đảo Greenland. Ông phát hiện ra vùng đất chưa biết tên (có lẽ là bờ phía đông Canada). Ông nói với Leif Ericsson ông đã tìm ra vùng đất mới như thế nào. Ericsson đã chạy trở lại theo hướng của Biarni và tìm ra vùng đất Newfoundland ngày nay. 16- Henry Hudson (không rõ năm sinh-1611): Nhà hàng hải và thám hiểm người Anh thực hiện bốn chuyến hành trình trong suốt đời ông. Ông tìm ta đường đi theo hướng tây bắc và phát hiện ra Vịnh Hudson và Sông Hudson. Những cố gắng của ông đã dẫn đến việc thành lập cuối cùng của thành phố New Amsterdam (sau này gọi là New York). Trong chuyến hành trình cuối cùng của ông vào năm 1610, những người nổi loạn đã bắt được Hudson, con trai ông, và bảy người khác, và thả trôi họ trên chiếc thuyền nhỏ không lương thực. Họ không bao giờ trở lại nửa. 18- Sieur de La Salle (1643-1687): Nhà thám hiểm người Pháp thám hiểm Bắc Mỹ. Ông phát hiện ra cửa Sông Mississippi. Ông dành quyền vùng đất và đặt tên Louisiana sau nhà vua Louis XIV. Ông bị quân phiến loạn bắn chết gần song Brazos ở vùng Texas ngày nay vào năm 1687. Những phát hiện của ông đã thành lập lên yêu sách về lãnh thổ của Pháp ở Bắc Mỹ. 19- Luis de Mendoza (không rõ năm sinh năm mất): Thuyền trưởng tàu Victoria, chiếc tàu duy nhất trở về hoàn thành chuyến hành trình vòng quanh thế giới đầu tiên. Ông có âm mưu giết Magellan và tham gia vào những cuộc nổi dậy chống lại những nhà thám hiểm. Ông đã giúp Cartegena trong âm mưu thâu tóm đoàn thám hiểm. Ông có lẽ bị xử tội âm mưu làm phản. 20- Antonio Pigafetta (1491-1534): Một trong số ít người sống sót trong chuyến hành trình vòng quanh thế giới đầu tiên. Ông là người hâm mộ Magellan mãnh liệt. Bài báo vế chuyến hành trình nổi tiếng của ông đã được xuất bản sau này. (Theo Hải Âu(Sưu tầm và lược dịch) Lê Thanh Long @ 11:07 05/09/2009) 3.HỆ QUẢ CỦA VIỆC PHÁT KIẾN ĐỊA LÍ Phát kiến địa lí được coi như một “cuộc cách mạng thực sự” trong lĩnh vực giao thông và tri thức:Tạo ra thay đổi lớn trong tư tưởng, tri thức của xã hội loài người lần đầu tiên con người hình dung được hình ảnh chính xác về hành tinh, về bề rộng và hình thái Trái Đất.Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh cho giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới về địa lí, thiên văn, hàng hải , sinh vật học . Phát kiến địa lí còn Mở ra thời kỳ phát triển của công thương nghiệp châu Âu tạo cuộc “cách mạng giá cả” trong đó sự nhảy vọt về giá cả hàng hoá chỉ có lợi cho thương nhân và các nhà sản xuất hàng hoá ,còn quần chúng nhân dân nhất là nông dân bị bần cùng hoá nhanh chóng. Đồng thời nó cũng là nhân tố kích thích quá trình tích lũy tư bản ban đầu và thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy nhanh sự tan rã của chế độ phong kiến. Phát kiến địa lí còn đóng góp quyết định về lí luận cũng như thực tiễn cho sự phát hiện ra loài người ở mọi nơi trên thế giới đều giống nhau. Như vậy, phát kiến địa lí đã đem lại cho loài người những hiểu biết về những con đường mới, những vùng đất mới, những dân tộc mới. Một nền văn hoá thế giới bắt đầu hình thành do việc xuất bản và truyền bá của các loại sách, các tập du kí và bản đồ địa lí giữa các châu lục. Mở ra thời kỳ giao lưu văn hoá, kinh tế Đông - Tây,đó là sự tiếp xúc giữa nhiều nền văn hoá và văn minh khác nhau sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa trên thế giới diễn ra do các cá nhân có nguồn gốc văn hóa khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những người khai phá vùng đất mới, những quân nhân... Phát kiến địa lí còn đem về cho tầng lớp thương nhân châu Âu những nguyên liệu quý giá vô tận, những kho vàng bạc, châu báu khổng lồ mà chúng cướp được ở châu Mĩ, châu Á và châu Phi. Nó cũng thúc đẩy nền thương nghiệp ở châu Âu phát triển, làm cho đời sống thành thị ở khu vực này trở nên phồn vinh. Tuy nhiên, bên cạnh đó những cuộc phát kiến địa lí này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân,gây nhiều đau khổ cho nhân dân các nước thuộc địa. CHƯƠNG III KẾT LUẬN Thông qua bài tiểu luận này, chúng ta phần nào hiểu rõ hơn về những cuộc phát kiến địa lý châu Âu thời trung đại. Phát kiến địa lí đã đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình phát triến lịch sử châu Âu thời kỳ hậu trung đại và lịch sử văn minh thế giới .Những cuộc phát kiến địa lý đã mở ra nền tri thức mới cho con người, những chân trời mới như trong các lĩnh vực về khoa hoc kỹ thuật, thiên văn học, địa lý, hàng hải... Từ đó, các nước phương Tây tích luỹ được nguồn tư bản nguyên thuỷ, thúc đẩy nhanh sự tan rã của chế độ phong kiến,tạo điều kiện ra đời của chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình thực hiện đề tài, do nghiên cứu trong thời gian ngắn ,tài liệu tham khảo ít, những hiểu biết của chúng tôi còn hạn hẹp nên chưa thể nghiên cứu chi tiết hơn về đề tài này.Dù chúng tôi đã cố gắng nhưng chắc chắn vẵn còn nhiều thiếu sót,mong mọi người thông cảm và đóng góp nhiều ý kiến để bài tiểu luận thêm hoàn chỉnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Phụng Hoàng(2000) ,Lịch sử văn minh thế giới, nxb giáo dục PGS.TS.Hoàng thị Minh Hoa, TS. Đinh Thị Lan(2004),Lịch sử văn minh thế giới, Đại hoc sư phạm Huế. 3. 4. 5. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 38.doc