Tiểu luận Những mâu thuẫn biện chứng của quá trình hội nhập vào tổ chức thế giới WTO của Việt Nam

Ngày nay, thế giới đang có sự biến động sâu sắc về nhiều mặt. Bối cảnh quốc tế mới vừa tạo ra thời cơ mới tương đối thuận lợi, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới đối với nền kinh tế của các quốc gia. Sự diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đòi hỏi từng quốc gia phải có tư duy mới biết vận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có, phát huy thế mạnh của mình để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đối với nước ta, việc hòa nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là việc làm hết sức cần thiết.Chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể một số doanh nghiệp khó khăn, thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia vào thị trường. Trong thế kỉ XXI, hy vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ và sẽ trở thành nước công nghiệp phát triển trong những năm tới.

doc14 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những mâu thuẫn biện chứng của quá trình hội nhập vào tổ chức thế giới WTO của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Bước sang thế kỉ XXI, chúng ta đang đứng trước thời cơ mới. Nhân loại đang từng bước đi vào sử dụng tri thức cho phát triển và đang hình thành nền kinh tế dựa vào tri thức, ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào đời sống. Đó là điều mà C.Mác đã tiên đoán cách đây 150 năm về khả năng đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đây cũng là thời kỳ diễn ra biến đổi từ một nền kinh tế thế giới bao gồm nhiều nền kinh tế quốc gia sang nền kinh tế toàn cầu. Với xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa phát triển như hiện nay, hội nhập kinh tế quốc gia vào nền kinh tế khu vực và thế giới đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng và sôi động.Đã có nhiều tổ chức lớn được hình thành như ASEAN,AFTA, NAFTA, EU…và tổ chức thương mại lớn nhất thế giới (WTO) cũng đã được hình thành để đáp ứng nhu cầu đó của các nước. Nhưng chính sự khác nhau về sự phát triển kinh tế, chính trị và các hình thái xã hội đã tạo nên sự đa dạng trong sự phát triển kinh tế và nảy sinh những mâu thuẫn tự sinh của các nền kinh tế. Những thuận lợi và khó khăn nảy sinh trong quá trình hội nhập chính là những mâu thuẫn của Việt Nam. Kết quả của những sự mâu thuẫn đó có thể đưa Việt Nam đi lên cùng quá trình hội nhập của thế giới hay không thì chúng ta chỉ có thể biết được sau nhiều năm nữa. Để có thể làm rõ một phần nào đó những mâu thuẫn trong quá trình đó em xin chọn đề tài: “Những mâu thuẫn biện chứng của quá trình hội nhập vào tổ chức thế giới WTO của Việt Nam”. Phần nội dung Cơ sở lý luận. 1.Cơ sở lý luận của nguyên tắc phân đôi cái thống nhất thành các mặt đối lập. Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Các mặt này vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau tạo nên mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến của thế giới. Đó là nguồn gốc, động lực của mọi quá trình vận động phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. Mỗi sự vật hiện tượng đang tồn tại trên thế giới đều là một thể thống nhất được cấu tạo từ những mặt trái ngược nhau. Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính có xu hướng vận động ngược chiều nhau cùng tồn tại khách quan trong một sự vật. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn hình thành và phát triển là do cấu trúc tự thân bên trong của sự vật quy định. Nó không phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào và cũng không phụ thuộc vào ý chí của con người. Nó tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho tới khi kết thúc. Mâu thuẫn tồn tại trong không gian, thời gian , mọi giai đoạn phát triển của các sự vật. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại được hình thành. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Các mặt đối lập của mâu thuẫn biện chứng vừa nương tựa, ràng buộc lẫn nhau, sự đấu tranh của các mặt đối lập sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề, lại vừa loại bỏ, phủ định biện chứng lẫn nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là tiền đề, điều kiện để trên đó diễn ra. Mặt khác đấu tranh lại là điều kiện để phá vỡ sự thống nhất cũ, xác lập thể thống nhất mới, tiến bộ hơn. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn thể hiện ở sự tác động qua lại ngang nhau giữa chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập. Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối lập, sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối. Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối tạm thời. Nó chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định. Đó chính là trạng thái đứng im tương đối của sự vật. Tính tương đối của sự thống nhất làm cho thế giới vật chất phân hóa thành các bộ phận, sự vật đa dạng, phong phú, phức tạp. Còn sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, vĩnh viễn. Nó diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật kể cả trong trạng thái sự vật ổn định nhất cũng như khi có sự chuyển hóa nhảy vọt về chất. Sự đấu tranh của các mặt đối lập tạo nên tính liên tục của sự vận động, phát triển của sự vật. Do đó muốn thay đổi sự vật thì phải tăng cường sự đấu tranh. Sự đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Sự đấu tranh của các mặt đối lập gây ra những biến đổi của tong mặt. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, đó chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới tiến bộ hơn ra đời. Sự giải quyết mâu thuẫn giữa các giai cấp thống trị và giai cấp bị trị về kinh tế, chính trị, đời sống tinh thần, quan hệ với tư liệu sản xuất… là nguồn gốc, động lực phát triển của các cơ thể sống từ thấp đến cao. Trong tư duy, sự giải quyết mâu thuẫn giữa nhận thức hữu hạn của một người, một thế hệ người với nhận thức vô hạn của loài người, chân lý và sai lầm, tiến bộ và lạc hậu… là nguồn gốc động lực của sự phát triển tư duy. Nhưng không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Chỉ khi nào sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một sự phát triển nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hóa. Trong tự nhiên, chuyển hóa của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hóa của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Thông thường sự chuyển hóa của các mặt đối lập diễn ra theo ba hình thức. Hình thức thứ nhất là sự hoán vị biện chứng của các mặt đối lập. Hình thức thứ hai là cả hai mặt đối lập đều chuyển hóa thành những chất mới. Cuối cùng là các mặt đối lập thâm nhập vào nhau cải biến lẫn nhau. 2. ý nghĩa phương pháp luận. Mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của sự phát triển cho nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết phát hiện mâu thuẫn và đề ra biện pháp thích hợp giải quyết mâu thuẫn và thúc đẩy sự vật phát triển. Muốn phát hiện mâu thuẫn thì trong tư duy của chủ thể nhận thức phải có khái niệm phân đôi cái thống nhất thành các mặt đối lập để phân tích sự vật. Mâu thuẫn là khách quan phổ biến, nhận thức mâu thuẫn phải biết xác định từng loại mâu thuẫn để đề ra biện pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn thích hợp. Tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế thế giới đang phát triển thành một thể thống nhất tuy vẫn bao gồm các mặt đối lập và mâu thuẫn nhau. Những quan hệ kinh tế toàn thế giới vốn có những sức mạnh không thể cưỡng lại. Thực tế trong nhiều thập kỷ qua, kể từ khi Chủ nghĩa xã hội ra đời, sự đối đầu giữa hai hệ thống kinh tế xã hội đã đưa nền kinh tế thế giới tới những nguy cơ to lớn chưa thể lường hết được, trái với xu thế khách quan quốc tế hóa đang phát triển. Ngay trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu gay gắt, các quan hệ kinh tế Đông – Tây vẫn tồn tại bất chấp ý chí của các chính phủ. Trong những điều kiện mới hiện nay, kinh tế các nước vừa phát triển vừa tăng cường liên kết. Mỗi nước không chỉ tăng cường tiềm lực kinh tế của mình, mà còn mở rộng buôn bán với các nước khác. Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới phát triển trên cơ sở xuất hiện ngày càng nhiều những vấn đề kinh tế toàn cầu, đòi hỏi phải có sự phối hợp chung để giải quyết các vấn đề đó. Với đà phát triển như vũ bão của Khoa học -công nghệ- kỹ thuật đặc biệt là công nghệ thông tin, sự phát triển không ngừng của giao thông cùng với sự lưu chuyển ngày càng tăng của dòng vốn và thương mại đã thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất đã có bước phát triển vượt bậc trên phạm vi toàn cầu làm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, đồng thời cuốn hút ngày càng mạnh mẽ các quốc gia vào quá trình toàn cầu hóa. Xu hướng quốc tế hóa kinh tế thế giới khiến cho việc hợp tác kinh tế và điều hòa kinh tế quốc tế ngày càng trở nên tất yếu. Trước hết là do sự phát triển quốc tế hóa vế các mặt vốn, kỹ thuật, thị trường sản phẩm nên giữa các nước đã tăng thêm sự phụ thuộc lẫn nhau.Hơn nữa sự phát triển của sản xuất và vốn quốc tế hóa đã liên kết hoạt động kinh tế các nước có nhiều kiểu sản xuất khác nhau và trình độ phát triển khác nhau, hình thành thể kết hợp cùng dựa vào nhau, cùng ràng buộc lẫn nhau, cạnh tranh và cùng xâm nhập vào nhau . Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nước này sang nước khác thông qua các cam kết mở cửa thị trường. Các cam kết này cụ thể là giữa hai nước theo hiệp định mậu dịch tự do song phương (FTA) cụ thể là giữa các nhóm nước theo hiệp định mậu dịch tự do khu vực (RTA) hoặc rộng hơn trên quy mô toàn cầu trong tổ chức thương mại thế giới. Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) đóng vai trò là khung lý chủ yếu chủa hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm. Các nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại mới. Vòng đàm phám thứ 8 – vòng đàm phám Uruguay, kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập , tổ chức Thương mại Thế giới (WTO ). WTO chính thức được thành lập vào ngày 01/01/1995 thu hút tới 136 và nay là 153 quốc gia và lãnh thổ. Bên cạnh sự ra đời của WTO, xuất hiện rất nhiều tổ chức tiểu vùng, khu vực, liên khu vực như các tam tứ giác phát triển, các khu vực mậu dịch tự do (AFTA – Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á, NAFTA – Hiệp hội các quốc gia Bắc Mỹ), những tổ chức liên kết toàn châu lục (EU) hoặc giữa các châu lục (APEC). Điều quan trọng nữa là quốc gia nào không tham gia vào tiến trình này quốc gia đó sẽ không có địa vị bình đẳng trong việc bàn thảo và xây dựng định chế của nền thương mại thế giới, không có điều kiện để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Nhận thức được tình hình đó, các nước lớn, nhỏ đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi chính sách kinh tế mở. Ngay những nước có tiềm năng và thị trường rộng lớn như Trung Quốc, Nga , ấn độ, Mỹ… và cả một số nước kể cả các nước trước đây vẫn thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch nghiêm ngặt, vốn khép kín theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần mở cửa với bên ngoài tham gia vào quá trình toàn cầu hóa. Nhờ đó kinh tế các nước này liên tục phát triển với tốc độ cao. Trung Quốc và ấn Độ đang nổi lên thành những trung tâm kinh tế lớn cùng với Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản. Mặt khác, cộng đồng thế giới đứng truớc nhiều vấn đề toàn cầu: suy thoái môi trường, bùng nổ dân số, nghèo đói, các bệnh hiểm nghèo,… không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được mà cần phải có sự hợp tác đa phương. Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với nước ta trong quá trình phát triển đất nước nói chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương khóa VII tại đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tháng 6 năm 1996 khẳng định: “ Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại… hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực dựa trên nguyên tắc tự chủ độc lập toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng cùng có lợi…”. Thực hiện đường lối của Đảng, chúng ta đã phát triển mạnh quan hệ toàn diện ,gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam á (asean), diễn đàn kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC), là sáng lập viên diễn đàn hợp tác á- âu (ASEM)…. Cùng với các nước ASEAN ký hiệp định thành lập khu vực tự do ASEAN- Trung Quốc, ASEAN- ấn độ, ASEAN- úc và NewZealand. Ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Thực tiễn những năm qua chỉ rõ: khi mở cửa thị trường chúng ta gặp khó khăn. Mở cửa buôn bán qua biên giới Trung Quốc hàng hóa nước ngoài tràn đầy vào thị trường nước ta đẩy doanh nghiệp nước ta vào thế bị động, một số ngành sản xuất lao đao, một số doanh nghiệp phải giải thể. Tuy nhiên với thời gian các doanh nghiệp nước ta đã vươn lên và trụ vững. Nhiều doanh nghiệp đã đổi mới sản xuất cải tiến kiểu dáng, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ đó nâng cao được sức cạnh tranh, phát triển được sản xuất, mở rộng thị trường. Thực hiện các cam kết theo hiệp định mậu dịch tự do ASEAN chúng ta đã loại bỏ hàng rào phi thuế quan, giảm thuế nhập khẩu. Đến năm 2006, có 10.283 dòng thuế chiếm 99,43% biểu thuế nhập khẩu ASEAN có thuế suất chỉ ở mức 0-5% nhưng các ngành sản xuất của ta vẫn phát triển với tốc độ cao. Trong nhiều năm qua sản xuất công nghiệp tăng trung bình 15-16% năm,kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình trên 20% năm là nhân tố quan trọng bảo đảm tăng trưởng kinh tế khá cao và liên tục tạo thêm nhiều công ăn việc làm. Điều đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, xuất hiện một đội ngũ những nhà doanh nghiệp mới, có kiến thức, năng động và tự tin dám chấp nhận mạo hiểm đối đầu với cạnh tranh. Đây là nguồn lực quý báu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình hội nhập Chủ động hội nhập trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đây là một nguyên tắc cơ bản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc lý giải nguyên tắc này vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với chúng ta. Chủ động hội nhập chính là chủ động chọn lựa chủ trương hội nhập để phát triển. Tính chủ động trong quá trình hội nhập còn thể hiện ở sự chủ động cần được thể hiện trong việc chủ động sắp xếp mọi công việc cần thiết trong nước để hội nhập thành công, kể cả việc theo dõi sát sao, dự đoán chính xác diễn biến của nền kinh tế thế giới và khu vực để chủ động trong mọi tình huống. Tư tưởng độc lập tự chủ trong hội nhập cần được thể hiện trước hết trong việc tự mình quyết định đường lối phát triển kinh tế-xã hội của mình. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta chủ trương theo chủ nghĩa biệt lập, trái lại chúng ta luôn quan tâm nghiên cứu, học tập những bài học kinh nghiệm bổ ích của các nước khác, trân trọng những ý kiến đóng góp xây dựng, song chính chúng ta mới là những người quyết định đường lối phát triển của đất nước. Tính độc lập tự chủ cần được quán triệt trong nhận thức về năng lực nội sinh của nước ta, dân tộc ta vì nguồn lực bên ngoài dù lớn bao nhiêu đi nữa thì cũng không thể thay thế được nhân lực, tài lực, vật lực của chúng ta. Nước ta chỉ có thể tận dụng được những thuận lợi do hội nhập đem lại và ứng phó với những thách thức do quá trình hội nhập đặt ra nếu chúng ta có đủ lực, kể cả những nhân tố vật chất cần thiết như tài chính – tiền tệ, lương thực, năng lượng, cơ sở hạ tầng, một số ngành thiết yếu. Điều này càng quan trọng trong một thế giới ẩn chứa nhiều sự bất trắc khó lường. Định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trước hết ở mục tiêu hội nhập để phát triển vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Hội nhâp kinh tế quốc tế – Thời cơ và thách thức đối với nền kinh tế nước ta. Thuận lợi. Trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới, trải qua hơn 15 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, với những tiềm năng và nguồn lực phát triển phong phú, việc phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam có nhiều thuận lợi. Về cơ hội Việt Nam có 5 cơ hội chính là: + Một là: Khi gia nhập, Việt Nam được tiếp cận với hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhậo khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ không bị phân biệt đối sử. + Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện. + Ba là: Gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tếmới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. + Bốn là: Việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn. + Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạp điều kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại. Việt Nam có những nguồn lực to lớn và lợi thế so sánh quan trọng để có thể tìm được vị trí thuận lợi trong việc tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi mậu dịch quốc tế. Bên cạnh những lợi thế về nguồn lực tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý, lợi thế về nguồn nhân lực và tư chất con người là vô cùng to lớn. Các nguồn nội lực này là yếu tố quyết định để nền kinh tế nước ta vươn ra thị trường thế giới cũng như để tiêu hóa hiệu quả các nguồn lực được tiếp thu từ bên ngoài. Việt nam nằm trong một khu vực phát triển năng động nhất của nền kinh tế thế giới, có thời cơ thuận lợi để hội nhập và giao lưu kinh tế khu vực (ASEAN và AFTA) cũng như sẽ tham gia và các tổ chức kinh tế quan trọng như APEC và WTO. Xu hướng tự do hóa thương mại trong nền kinh tế thế giới gia tăng tạo thuận lợi cho một nước đang phát triển như Việt Nam xâm nhập mạnh mẽ hơn vào các giao lưu kinh tế quốc tế. Đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 165 quốc gia trên thế giới, khoảng 150 quốc gia trên thế giới có quan hệ buôn bán với Việt Nam và đã có hàng nghìn doanh nghiệp thuộc 65 quốc gia đang triển khai các dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Việt Nam đã ký hơn 60 hiệp định thương mại và hơn 40 hiệp định đầu tư song phương với các quốc gia trên thế giới. Đó là những tiền đề đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ mới. Là người đi sau, Việt Nam có điều kiện học hỏi và rút ra kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, đặc biệt là bài học về mô hình phát triển kinh tế của các nước ASEAN, cũng như Trung Quốc, Nhật Bản và các nước Đông Âu và nhiều quốc gia khác trên thế giới để tìm ra con đường phát triển phù hợp với các điều kiện khách quan và chủ quan của Việt Nam. Sự ổn định về chính trị, ổn định tương đối về kinh tế vĩ mô, sự nhất quán trong đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự tích cực trong cải cách nền hành chính quốc gia, sự cởi mởi trong đường lối đối ngoại…tạo nên môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng vủa Việt Nam. Những khó khăn và thách thức đối với Việt Nam. Những thách thức chính của Việt Nam là: + Một là: Cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước. Điều đó gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu kém mà tình trạng này lại khá phổ biến ở doanh nghiệp nước ta. + Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Trên thế giới sự phân phối lợi ích của toàn cầu hóa là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ích ít hơn. ở mỗi quốc gia, sự phân phối lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hóa; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hóa giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn, phải quán triệt và thực hiện tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong tong bước phát triển”. Tóm lại, phải tạo dựng được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra một cách suôn sẻ, với chi phí thấp. + Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng ra vẫn còn nhiều việc phải làm. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. + Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hóa nên khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải thay đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là nền hành chính về quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm phục vụ, khắc phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy thì chẳng những không tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại mà cũng không chống được tham nhũng, lãng phí nguồn lực. + Năm là: Để đảm bảo tiến trình hội nhập đạt kết quả, cạnh quyết tâm về chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị phù hợp, thách thức này sữ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. + Sáu là: Hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa. Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng thị, tự do tư sản… Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh vừa tranh thủ vừa cạnh tranh, vừa tận dụng cơ hội vừa đối phó thách thức. Đối với nước ta hiện nay, thách thức lớn nhất là khả năng cạnh tranh yếu, dễ bị thua thiệt trên thương trường, sự non kém của cán bộ và bộ máy, trình độ tay nghề của người lao động, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện… Mặc dù chúng ta có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ nhưng trình độ tay nghề thấp, ít thợ lành nghề, lao động thiếu việc làm, tác phong công nghiệp yếu, khả năng hợp tác trong công việc kém, tâm lý tản mạn, tùy tiện, manh mún… của người lao động, gây nên những tác động xấu đến quá trình phát triển. Khó khăn lớn và rõ nét nhất là sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn yếu trên thị trường thế giới. Sự yếu kém này không chỉ về chất lượng và giá cả mà còn ở phương thức thanh toán ở các dịch vụ sau bán hàng, ở khả năng phối hợp giữa các doanh nghiệp trong một chiến lược cạnh tranh thống nhất. Đằng sau năng lực cạnh tranh là trình độ công nghệ đồng bộ giữa quản lý của các doanh nghiệp còn yếu kém, là sự phối lợp thiếu đồng bộ giữa quản lý vĩ mô và quản lý vi mô. Mặt khác, năng lực tài chính của doanh nghiệp Việt Nam cũng còn rất hạn chế, còn thiếu vắng những công ty, tập đoàn kinh doanh có tầm cỡ quốc tế nên khả năng xâm nhập thị trường thế giới, việc ra được kênh phân phối thông tin về thị trường thế giới còn non yếu. Trong khi đó uy tín kinh doanh còn chưa rõ nét, chưa có những sản phẩm, những nhãn hiệu hàng hóa mang đặc trưng của Việt Nam giữ vị trí đáng kể trên thị trường thế giới. Một khó khăn nữa cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hội nhập kinh tế ở Việt Nam đó là hệ thống pháp luật. Mặc dù việc ban hành luật doanh nghiệp mới đầy đủ và thân thiện hơn cho khu vực kinh tế tư nhân nhưng nó vẫn còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến việc xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn. Nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam so với nền kinh tế các nước trong khu vực và nền kinh tế thế giới là một thách thức đang kể đối với chúng ta. Sự tụt hậu ở đây không những ở trình độ phát triển thể hiện ở chỉ tiêu GDP bình quân đầu người mà điều quan trọng là ở sự thấp kém về trình độ công nghệ, sự lạc hậu về cơ cấu kinh tế, sự chậm trễ về trình độ quản lý, sự bất cập của hệ thống pháp luật và một nền hành chính kém hiệu quả… Sự tụt hậu nói trên làm cho chúng ta phải đứng ở vị trí cuối trong mô hình “đàn chim nhạn”, mà trong mô hình này kẻ đứng sau dễ phải chịu những bất lợi trong quá trình phát triển. Để tránh nguy cơ tụt hậu buộc các nước đi sau phải tìm mọi cách để đẩy nhanh tốc độ phát triển. Tuy nhiên điều đó lại có thể đưa đến những hậu quả khác nhau như gây nên tình trạng phát triển thiếu bền vững, cạn kiệt tài nguyên, sự ô nhiễm môi trường sinh thái… Nguy cơ tụt hậu và sự mở rộng khoảng cách đối với các nước phát triển ngày càng gây nên những khó khăn và thách thức mới cho quá trình tham gia và phân công lao động quốc tế và hội nhập quốc tế. Xu hướng tự do hóa thương mại đang diễn ra mạnh mẽ nhưng xu hướng bảo hộ mậu dịch cũng hết sức dày đặc với những công cụ bảo hộ mới. Các nước đi sau như Việt Nam phải gánh chịu những sức ép của quá trình hội nhập, của việc mởi cửa thị trường, với sự cạnh tranh gay gắt, vừa phải đối phó với hàng rào bảo hộ mậu dịch tinh vi thông qua các tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước. Trên đây là những thách thức to lớn đối với các nước đang phát triển như Việt Nam khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Giải pháp tổng thể. Để thực hiện có hiệu quả cao mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam, cần có các giải pháp tổng thể từ phía nhà nước cũng như các doanh nghiệp. Dưới đây là một số giải pháp có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, phù hợp với hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế. Yêu cầu đặt ra đối với hệ thống luật pháp hiện nay là việc thông qua và ban hành luật phải đi kèm theo nhiều văn bản dưới luật, các văn bản hướng dẫn thực hiện ở mức độ cụ thể, chi tiết. Xây dựng một hệ thống văn bản pháp quy phải bao quát, điều tiết được mọi khía cạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Các điều khoản pháp luật phải nhất quán, không chồng chéo, mâu thuẫn. Các quy định của pháp luật cần tương đối ổn định, nếu cần thay đổi thì theo chiều hướng nhất định để các nhà kinh tế dễ tiên liệu. Ngoài ra hệ thống luật về kinh tế cần phải phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng Phải xây dựng kết cấu hạ tầng tương đối hoàn chỉnh với cước phí cạnh tranh so với các nước khác. Nếu không giá thành sản xuất sẽ bị đội lên cao, khó bề ganh đua với các nước khác. Nâng cao công tác đào tạo đối với người lao động Trước hết cần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, đồng thời thực hiện cải cách cơ chế tuyển dụng nhân công, sử dụng người đúng mục đích, đúng năng lực. Để đạt được điều này phải đầu tư hơn nữa cho giáo dục, thực hiện mô hình liên doanh giữa các trường các trung tâm dạy nghề của Việt Nam với các tổ chức, các công ty, tập đoàn quốc tế. Về hệ thống tài chính, tín dụng. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tài chính, tín dụng, phát triển các loại dịch vụ, hỗ trợ phát triển các lĩnh vực kinh tế đối ngoại, xây dựng một hệ thống ngân hàng hữu hiệu, đáng tin cậy, một tỷ giá hối đoái có sức cạnh tranh, một chính sách tài chính – thuế hợp lý. Thực hiện các giải pháp để thu hút vốn từ bên ngoài. Việt Nam là một nước được các nhà đầu tư nước ngoài chú ý tuy nhiên không thể tự nhiên và đảm bảo rằng sẽ có một nguồn vốn FDI sẽ tiếp tục vào Việt Nam khi tình hình cạnh tranh thu hút vốn ngày càng trở nên gay gắt giữa các quốc gia, nhất là các nước trong khu vực Đông Nam á. Do đó trong khuôn khổ đẩy mạnh cải cách của chính phủ, nguồn tài trợ phát triển chính thức ODA vẫn đóng vai trò quan trọng. Tuy có một luồng FDI lớn, Việt Nam vẫn còn có một nguồn vốn ODA đáng kể có thể đạt được các mục tiêu phát triển trung hạn. Do có nghĩa vụ trả nợ lớn, Việt Nam cần tiếp tục duy trì một chiến lược vay nợ thận trọng, kiểm soát chặt các khoản nợ nước ngoài, đặc biệt là các khoản nợ không ưu đãi. Chính phủ phải tăng cường các biện pháp để tăng cường khả năng quản lý nợ nước ngoài. Kết luận Ngày nay, thế giới đang có sự biến động sâu sắc về nhiều mặt. Bối cảnh quốc tế mới vừa tạo ra thời cơ mới tương đối thuận lợi, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới đối với nền kinh tế của các quốc gia. Sự diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đòi hỏi từng quốc gia phải có tư duy mới biết vận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có, phát huy thế mạnh của mình để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đối với nước ta, việc hòa nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là việc làm hết sức cần thiết.Chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể một số doanh nghiệp khó khăn, thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia vào thị trường. Trong thế kỉ XXI, hy vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ và sẽ trở thành nước công nghiệp phát triển trong những năm tới. Tài liệu tham khảo Thời báo kinh tế Việt Nam GT Triết học –ĐH kinh tế quốc dân Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam ( Trung tâm tư liệu tổng cục thống kê (

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32484.doc
Tài liệu liên quan