Trên đây là một số nét điển hình về quan điểm chính trị - xã hội của Nho giáo, và giá trị của nó có ý nghĩa lí luận và thực tiễn đối với xã hội Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên Nho giáo là một học thuyết chính trị, đạo đức, xã hội hết sức phức tạp nên bất cứ một nghiên cứu nào cũng đều là chưa đủ.
Để tiếp thu các giá trị đạo đức Nho giáo-hệ tư tưởng đã ra đời từ hằng ngàn năm cần có sự nghiên cứu sâu các phạm trù chính trị xã hội của Nho giáo và hiện thực phát triển, thay đổi định hướng giá trị nhân cách của người Việt để có những tiếp thu tích cực, phù hợp
Về cơ bản những người sáng lập Nho giáo đã xây dựng hệ thống học thuyết của mình với mong muốn xây dựng một xã hội ổn định có tổ chức chặt chẽ, nhằm thực hiện một mục tiêu chính trị rõ rệt là Đạo Nhân.Nhưng những mục tiêu tốt đẹp đó đã không thể thực hiện vì học thuyết trên đã xa rời nhân dân lao động, xa rời hiện thực thay vì phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân thì nó lại trở thành công cụ thống trị nhân dân. Mặc dù vậy, vẫn phải khẳng định lại rằng, Nho giáo cũng đã có những ảnh hưởng to lớn đối với xã hội Việt Nam trước đây cũng như hiện nay. Vấn đề đặt ra chính là phát huy tốt những mặt tích cực và xoá bỏ những hạn chế tiêu cực. Điều đó sẽ tạo cho chúng ta những điều kiện thuận lợi nhất định cho phát triển kinh tế xã hội nhằm nhanh chóng xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
27 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3690 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những quan điểm Chính trị - Xã hội của triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
A- Lời mở đầu
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho giáo. Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nhân” (người), đứng cạnh chữ “nhu” (cần, chờ, đợi). Nho gia còn được gọi là nhà nho, người đã đọc thấu sách thánh hiền được thiên hạ trọng dụng dạy bảo cho mọi người sống hợp với luân thường đạo lý. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc trí thức chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay “Khổng học” - gắn với tên người sáng lập ra nó.
Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định theo tinh thần “Nho giáo”, đồng thời còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên khí tinh thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc riêng về truyền thống văn hoá.
Tìm hiểu về triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc vận dụng vào thực tiễn nhất là trong văn hóa ứng xử trong đời sống xã hội cũng như trong kinh doanh trong bối cảnh hội nhập kinh tế của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ những ý nghĩa lí luận cũng như ý nghĩa thực tiễn to lớn của triết học Nho giáo, em xin mạnh dạn đưa ra những nhận định của mình về đề tài: “Những quan điểm chính trị - xã hội của triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội Việt Nam”
Do kiến thức còn hạn hẹp, thời gian có hạn, chưa quen với cách viết tiểu luận nên bài viết khó tránh khỏi những sai sót. Vậy rất mong thầy giáo chỉ bảo đóng góp để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin trân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 10/05/09
B- Nội dung
І- Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của triết học Nho giáo
Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất phát triển ở các nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Khổng Tử
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, Giê-xu,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời khiến việc tìm hiểu tư tưởng gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.
Lịch sử phát triển của Nho giáo được chia thành các thời kì:
1, Nho giáo nguyên thủy:
Thời Xuân Thu , Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ Kinh.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận Ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại Học.
Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử .
Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
2, Hán Nho:
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho.
Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
3, Tống Nho:
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho.
Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di.
Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
II - Nội dung của triết học Nho giáo
1, Những tác phẩm kinh điển của Nho giáo:
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên thủy. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
1.1.Ngũ Kinh:
- Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng.
- Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
- Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận ngữ).
- Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
- Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.)
- Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại ngũ kinh.
1.2, Tứ thư:
- Đại Học: Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác việc nước. Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời nói của Khổng Tử. Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều) : cánh vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”).
- Trung Dung: Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo “trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
(Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.)
- Luận Ngữ : là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và những lời nói của người đương thời.
Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách. Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
- Mạnh Tử: Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác như : học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu.
Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần : Tâm học và Chính trị học.
+ Tâm học : Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh. Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.
+ Chính trị học : Mạnh Tử chủ trương : Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạotrong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
2, Nội dung cơ bản của Nho giáo:
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
2.1. Tu thân:
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo.
Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo.
Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
a, Tam Cương: Tam là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
- Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành một dạ.
- Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
- Phu thê: Trong quan hệ chống vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.
b, Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
c, Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
- Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
- Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
- Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"
d, Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
- Công: khéo léo trong việc làm.
- Dung: hòa nhã trong sắc diện.
- Ngôn: mềm mại trong lời nói.
- Hạnh: nhu mì trong tính nết.
* Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân :
- Đạt Đạo: Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân.
Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
- Đạt Đức: Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ).
Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là:
"nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường.
- Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
2.2. Hành đạo:
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm: - Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
- Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
*Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi. Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
3, Quan điểm chính trị - xã hội của triết học Nho giáo:
* Thứ nhất : Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con người với con người.
Nho giáo coi những quan hệ chính trị - xã hội là những nền tảng của xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan hệ này vào 3 rường mối chủ đạo ( gọi là tam cương ). Trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua -tôi, cha – con, vợ - chồng. Nếu xếp theo “tôn ty trên – dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo chiều ngang thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyến và phụ quyền Nho gia.
Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội mà trước hết là mối quan hệ “tam cương”. Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện chính danh Khổng Tử đặc biệt coi trong “nhân trị” chứ không phải “pháp trị”.
*Thứ hai: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy những biến động, loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng của Nho giáo là xây dựng một “xã hội đại đồng”.
Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân.Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc, thị tộc cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn lên.
Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân của người ấy. Trong việc chính trị vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự...”.
Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức nhân, “lễ” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm nguyên tắc đạo đức. Ông cho rằng do vua không giữ đúng đạo vua, cha không giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con... nên thiên hạ vô đạo. Phải dùng lễ để khôi phục lại chính danh.
Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu làm đầu và cha đối với con phải lấy lòng tự ái làm trọng. Trong đạo hiếu của con đối với cha mẹ, dù rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính. “Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như chó, ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu.”
Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án những ông vua không lấy điều nhân nghĩa làm gốc, chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo ngược, dùng sức mạnh để đàn áp dân; ông gọi đó là “bá đạo” và thường tỏ thái độ khinh miệt: “kẻ hại nhân là tặc, kẻ hại nghĩa là tàn”.Người tàn tặc là một kẻ thất phu. Nghe nói giết tên Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua Trụ.
*Thứ ba: Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng “đại đồng”.
Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội, cho nên, nền giáo dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác như: Lễ, nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu...đều là những biểu hiện của Nhân. Chữ Nhân trong triết học Nho gia được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản, quy định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức chính trị khác như một hệ thống triết lý chặt chẽ, nhất quán tạo thành bản săc riêng trong triết lý nhân sinh của ông.
Theo ông, đạo sống của con người là phải “trung dung”, “trung thứ” nghĩa là sống đúng với mình và sống phải với người. Xã hội thời xuân thu là thời kỳ đang trải qua những biến động lịch sử sâu sắc, Khổng Tử đã chủ trương dùng nhân đức để giáo hoá con người, cải tạo xã hội. Người có đức nhân là người làm được năm điều trong thiên hạ “cung, khoan, tín mẫu, huệ”. Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người tin cậy, mẫu thì có công, huệ thì đủ khiếnđược người. Người có nhân theo Khổng Tử là người “trước làm những điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu hoạch hết quả”.
Như vậy nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người, nên “nhân” chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức tạp, phong phú nhưng chung quy lại chỉ là những điều sống với mình và sống với người. là “mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn mình thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” , “việc gì mình không muốn chớ đem cho người”.
Người muốn đạt đức nhân phải là người có “trí” và “dũng”. Nhờ có trí, con người mới có sự sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán được sự việc, phân biệt được phải trái, thiện ác, để trau dồi đạo đức và hành động hợp với “thiên lý”. Nhưng người muốn đạt “nhân” chỉ có “trí” thôi chưa đủ, mà cần phải có dũng khí nữa. Người nhân có dũng phải là người có thể tỏ rõ ý kiến của mình một cách cao minh, có thể hành động một cách thanh cao, khi vận nước loạn lạc, khi người đời gặp phải hoạn lạn. Người nhân có dũng mới tự chủ đựoc mình, mới quả cảm xả thân vì nhân nghĩa. Khi cơn thiếu thốn cực khó không nao núng làm mất nhân cách của mình, khi đầy đủ sung túc không ngả nghiêng xa rời đạo lý.
*Thứ tư: Vấn đề bản tính con người.
Việc giải quyết những vấn đề chính trị – xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung hoa thời cổ phải đặt ra và giả quyết vấn đề bản tính con người. Trong Nho gia khong có sự thống nhất quan điểm về vấn đề này nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông “bản tính người vốn là thiện”. Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh như, Nhân, Lễ, Nghĩa...
Mạnh Tử thần bí hoá những giá trị chính trị- đạo đức đến mức coi chúng là tiên thiên. Do quan niệm bản tính con người là thiện nên Nho gia đề cao sự giáo dục để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức sẵn có.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người vốn là ác. Mặc dù bản thân con người ác, nhưng có thể giáo hoá thành thiện. Xuất phát từ quan điểm đó về tính người, Tuân tử đã chủ trươngđường lối trị nước kết hợp Nho gia với pháp gia.
*So với các học thuyết khác, nho gia là học thuyết có nội dung phong phú và mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa nó còn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hai ngàn năm của xã hội phong kiến.
Để trở thành tư tưởng chính thống, Nho Gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung Đại; Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại hán và Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di (thời Tống).
III - Vai trò của những quan điểm CT – XH của triết học Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay:
1, Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam:
Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi phối cao nhất là từ thế kỷ 15 về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh hưởng của Nho giáo chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp còn áp dụng ít nhiều lễ giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp thì ảnh hưởng của Nho giáo chưa đáng kể. Sự hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh của các triều đại, là hệ tư tưởng gắn liên với giai cấp thống trị, nhưng xét về khía cạnh văn hóa, Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa. Do vậy, sự phát triển và mở rộng của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật của sự mở rộng và phát triển của văn hóa. Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc. Quá trình đó diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn việc thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ. Nếu không có sự xâm lược của các thế lực phong kiến đối với Việt Nam thì Nho giáo vẫn du nhập vào xã hội Việt Nam, nhưng quá trình đó sẽ diễn ra chậm hơn và không đồng bộ. Sự du nhập Nho giáo Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực phương Bắc được thực hiện bởi các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được chính quyền đô hộ nâng đỡ, cho nên Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với Phật giáo. Cho nên, trãi qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho giáo vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn trong đời sống. Trong suốt hơn một ngàn năm đó nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập dân tộc đã nỗ ra, nhưng hầu như không có sự tham gia của các nhà nho.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Vào thời điểm này, Phật giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như Ngô, Đinh, Lê không theo đạo Nho mà theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trò to lớn và quyết định trong việc gây dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở nước ta và cũng từ khi nhà Lý ra đời, do nhu cầu quản lý nhà nước mà nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Vào thời điểm này sự đóng góp của các nhà sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho giáo dần dần thay thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý Thánh Tông vào năm 1070 cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước.
Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó về sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến đầu thập kỷ 40. Như vậy, trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học - Nho giáo không thể không thắm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu đậm.
2, Ảnh hưởng của những quan điểm chính trị - xã hội của triết học Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam:
2.1. Trong xã hội Việt Nam cổ đại:
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam.
* Ảnh hưởng tích cực:
- Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia. - Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam.
- Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển văn minh hơn.
- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”. - Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân.
- Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo.
* Ảnh hưởng tiêu cực:
- Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển. - Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt.
- Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau.
2.2. Trong xã hội Việt Nam hiện đại:
Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng văn hóa của Thế giới, con người vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện trong tư tưởng và nhiều câu chuyện Nho giáo của Người. Nhưng Người đã vượt qua những hạn chế của Nho giáo ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đã sáng lập và giáo dục Đảng ta với phương châm : “lấy dân làm gốc” làm tôn chỉ lãnh đạo nhân dân ta trong cuộc dựng nước và giữ nước. Người cũng coi đạo đức là gốc chủ trương chọn lựa người tài để đảm đương việc nước.
Hiện nay Việt Nam đang bước vào cơ chế thị trường xuất hiện nhiều xáo trộn trong quan hệ xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Thực tế cho thấy mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh thần, giữa kinh tế và đạo đức văn hóa xã hội.
Để chống lại, khôi phục lại truyền thống văn hóa tốt đẹp xưa nay của nhân dân ta, Đảng ta chu trương giáo dục con người, chiến lược con người, phát huy sáng tạo chủ trương giáo dục “ Tiên học lễ, hậu học văn “là những điều cốt yếu của nền giáo dục.
Về kinh tế, chủ trương làm giàu chính đáng, cạnh tranh lành mạnh, hợp đạo để động viên khuyến khích nhân dân ta trong công cuộc xây dựng đất nước, dần hình thành đạo đức, văn hóa trong kinh doanh.
Cho đến nay, Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống gia đình, các phẩm chất, đạo đức của người phụ nữ, vẫn có những quan điểm coi thường phụ nữ, lấy tiêu chuẩn tứ đức làm đầu “ công, dung, ngôn, hạnh”. Người phụ nữ trở nên
bị cương tỏa, dồn nén trong vòng tứ đức không phát huy được hết năng lực của mình.
Truyền thống quan hệ cha con và anh em đến nay trong gia đình Việt Nam vẫn giữ được tư tưởng của Nho giáo, là nét đẹp trong quan hệ văn hóa xã hội Việt Nam. Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong một gia đình, trong một dòng họ, nó kêu gọi sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn truyền thống của gia đình va dòng họ.
Những nghi thức ứng xử hàng ngày, những lời răn dạy của ông cha, những gia huấn, gia giữ được lưu truyền đến các đời con cháu. Việc thờ cúng ông bà cha mẹ trong nhà gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng nhà thờ, sửa sang mồ mả, sưu tầm ghi chép gia phả, đều góp phần làm khăng khít hơn mối quan hệ trong gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của tình người nảy sinh từ đó.
Sự giáo dục của Nho giáo lấy “lễ” làm biện pháp đã đạt được tới mức độ sâu sắc ở chỗ nó thành tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người. Nho giáo đã huy động được dư luận toàn thể xã hội biết quí trọng người có lễ và khinh ghét người vô lễ và điều này đã đi vào sâu lương tâm của con người. Vi phạm “lễ” trở thành điều đau khổ, đáng sỉ nhục, thậm chí đến mức phải chết chứ không thể bỏ “lễ”. Ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử phát triển xã hội, truyền thống văn hóa của nước ta vẫn tiếp tục. Đây là một sựt thật không phủ nhận được. Vấn đề "gạn đục khơi trong" Nho giáo để phục vụ mục đích tích cực cho đất nước ta hiện nay trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa là vấn đề cần làm ngay và làm càng sớm càng tốt.
IV - Ảnh hưởng của triết học Nho giáo trong văn hóa kinh doanh:
Triết học Nho giáo ảnh hưởng rất nhiều đến nhân sinh quan, tập hợp giá trị và khuôn khổ hành vi – thước đo đạo đức. Nói như vậy, rõ ràng không thể không đặt ra câu hỏi về tầm ảnh hưởng của Khổng giáo tới văn hóa kinh doanh của các quốc gia chịu ảnh hưởng.
Sở dĩ trong đề tài này em đưa ra thêm những nhận định về chuyên đề “ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa kinh doanh” với mục đích tìm hiểu sâu thêm mối quan hệ của Nho giáo trong kinh tế nhất là trong các hoạt động kinh doanh. Đây là những kiến thức bổ ích, bổ sung cho những kiến thức về kinh tế của một sinh viên kinh tế như chúng em. Mong thầy giáo chỉ bảo và đóng góp cho phần chuyên đề được đầy đủ và hoàn thiện.
Hệ thống văn hóa có khả năng lưu giữ và truyền cho các thế hệ sau không phải qua gien sinh học mà qua giáo dục. Khổng giáo chính là một hệ thống giáo dục nhân sinh quan và cả lễ nghi như thế. Khổng giáo lan rộng và kiến tạo nền móng các giáo lý Khổng. Khổng giáo thực sự trở thành một phần hữu cơ của văn hóa xã hội Đông Á.
Theo nghiên cứu của nhà văn hóa Geert Hosfstede, ông sử dụng thước đo là các tính chất “Khổng giáo” để đo mức độ ảnh hưởng của các giá trị xã hội lên văn hóa doanh nghiệp . Kết quả cho thấy rằng đứng đầu thang điểm là các doanh nghiệp từ các quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Á. Một nghiên cứu khác của 2 nhà văn hóa Peter Blunt và David Richards cũng chỉ ra các đặc tính ảnh hưởng từ các học thuyết của Khổng Tử về giữ thể diện, trật tự xã hội, ngũ luân” vẫn còn duy trì vững chắc sau 2500 năm.
Có thể nói rằng các nhà khoa học kinh tế và nghiên cứu văn hóa Đông Á đã cung cấp những bằng chứng rất xác thực về ảnh hưởng bền vững qua nhiều thời kì của giáo lý Khổng Mạnh.
Khổng giáo đã tạo nên một nền văn hóa xã hội ảnh hưởng rộng khắp Đông Á. Chúng ta hãy xem xét các kíh thước của hệ thống giá trị văn hóa đó, về tính ưu việt cũng như nhược điểm còn tồn tại:
1, Về kích thước văn hóa trong XH Khổng giáo:
Trong triết học Nho giáo chủ yếu đề cập đến những nghi lễ, quy tắc và một phần nhỏ hệ thống khoa học xã hội – nhân văn. Chính vì vậy, việc chỉ chăm chú vào các nghi lễ, lời chào, tuân thủ hành vi đã quy ước sẵn đã khiến cho yếu tố hiệu quả và hiệu suất trong ngay chính các doanh nghiệp Đông Á hiện đại bị đe doạ.
Hơn nữa Nho giáo chỉ trung thành với những ghi chép đời xưa, phản đối cải sửa, duy trì những giá trị cũ, bảo vệ giáo lý cổ hủ. Khổng Tử nhấm mạnh vào việc cấm làm khác những lời răn dạy đời xưa. Phản bác các ý định sáng tạo. Đây là một sai lầm nặng nề, không những kìm hãm xã hội phát triển mà còn kìm hãm chính sự phát triển của Nho giáo, cụ thể nhất là việc gạt bỏ các tư tưởng đổi mới tiến bộ của Tuân Tử.
2, Với cấu trúc xã hội và lực lượng kinh doanh:
Kinh doanh luôn ở vị trí thấp kém trong xã hội chiến tranh liên miên. Lã Bất Vi là một ví dụ điển hình. Tuy rất giàu có và như dân gian vẫn nói là có thể "buôn Vua, bán Chúa" nhưng lại không thể gạt bỏ được hình ảnh một tên "buôn" trong xã hội Trung Hoa cổ.
Bản thân Khổng Tử cũng chưa bao giờ cổ vũ việc kinh doanh. Hơn thế nữa, các nhà Nho sau này thêm vào những tư tưởng như an nhàn là nhất, ngheo nhưng sạch là tốt và coi rẻ thành phần kinh doanh buôn bán. Về thực chất cả hệ thống Nho giáo đều không ủng hộ việc kinh doanh buôn bán. Rất nhiều chế độ phong kiến sau này cũng hạn chế việ giao thương quốc tế .
Ngoài ra, quan niệm "sự vững chắc ổn định" là việc quân tư luôn tìm kiếm. Tinh thần này không kích thích bản thân khởi nghiệp. Những giá trị văn hóa này đã tác động đến xã hội Đông Á và ảnh hưởng đến tận ngày nay. Nói chung năng lực sáng tạo, chấp nhận rủi ro và sự thay đổi của xã hội chứa hệ thống giá trị Khổng giáo thấp khiến cho quá trình khởi nghiệp của doanh nhân Đông Á bị chậm lại và ít kết quả.
Ngoài ra yếu tố thể diện trong triết học Nho giáo cũng ảnh hường nặng nề đến doanh nhân Đông Á và làm tăng mức độ phá sản của các doanh nghiệp khi gặp rủi ro và những yếu tố liên quan đến thể diện.
Nho giáo còn rất nhiều những ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh đối với những nước Đông Á trong đó có Việt Nam. Có thể nói rằng, những ảnh hưởng đó của Nho giáo cũng là một nguyên nhân không nhỏ của sự thua kém trong phát triển kinh tế ở các nước Đông Á.
C. Kết luận:
Trên đây là một số nét điển hình về quan điểm chính trị - xã hội của Nho giáo, và giá trị của nó có ý nghĩa lí luận và thực tiễn đối với xã hội Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên Nho giáo là một học thuyết chính trị, đạo đức, xã hội hết sức phức tạp nên bất cứ một nghiên cứu nào cũng đều là chưa đủ.
Để tiếp thu các giá trị đạo đức Nho giáo-hệ tư tưởng đã ra đời từ hằng ngàn năm cần có sự nghiên cứu sâu các phạm trù chính trị xã hội của Nho giáo và hiện thực phát triển, thay đổi định hướng giá trị nhân cách của người Việt để có những tiếp thu tích cực, phù hợp
Về cơ bản những người sáng lập Nho giáo đã xây dựng hệ thống học thuyết của mình với mong muốn xây dựng một xã hội ổn định có tổ chức chặt chẽ, nhằm thực hiện một mục tiêu chính trị rõ rệt là Đạo Nhân.Nhưng những mục tiêu tốt đẹp đó đã không thể thực hiện vì học thuyết trên đã xa rời nhân dân lao động, xa rời hiện thực thay vì phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân thì nó lại trở thành công cụ thống trị nhân dân. Mặc dù vậy, vẫn phải khẳng định lại rằng, Nho giáo cũng đã có những ảnh hưởng to lớn đối với xã hội Việt Nam trước đây cũng như hiện nay. Vấn đề đặt ra chính là phát huy tốt những mặt tích cực và xoá bỏ những hạn chế tiêu cực. Điều đó sẽ tạo cho chúng ta những điều kiện thuận lợi nhất định cho phát triển kinh tế xã hội nhằm nhanh chóng xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
Danh mục tài liệu tham khảo
1, Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin - Nhà xuất bản đại học kinh tế quốc dân.
2, Đại cương triết học Việt Nam - PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu - Nhà xuất bản Thuận Hóa.
3, Nho giáo Trung Quốc - Nguyễn Tôn Nhan - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
4, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại - Trần Đình Hượu - Nhà xuất bản giáo dục.
5, Tạp chí Văn hoá - Nghệ thuật, Hà Nội, số tháng 2/2003, bài “Nho giáo trong tương lai văn hoá Việt Nam”
6, Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Chúng ta kế thừa tư tưởng gì ở Nho giáo” - Minh Anh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21423.doc