*Hoà nhập nhiều hơn vào kinh tế khu vực và thế giới : Quá trình tự do hoá tài chính cần được định hình cụ thể và thúc đẩy nhanh hơn, chủ động hơn, đồng bộ hơn. Chuẩn bị tích cực hơn, sớm hơn về thể chế và các nghiệp vụ kỹ thuật phục vụ sử dụng bản tệ chi thanh toán các giao dịch nội bộ ASEAN, cho việc hình thành AIA (khu vực đầu tư ASEAN) cũng như cho việc đẩy nhanh tiến trình AFTA và sự tham gia vào APEC trong tương lai. Cần tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi với các ưu đãi giành cho đầu tư nước ngoài không thua kém trình độ khu vực. Cùng với nó tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại và hạn chế nhập hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc trong nước có thể sản xuất được. Tham dự tích cực vào cơ chế giám sát khu vực ASEAN.
* Cải tổ cơ cấu đầu tư theo hướng phát huy lợi thế so sánh, khắc phục những tư duy còn rớt lại từ thời công nghiệp hoá lấy công nghiệp nặng làm then chốt và lấy xí nghiệp “quy mô lớn “ theo kiểu sáp nhập hành chính làm nòng cốt. Tạo đIều kiện thuận lợi hơn nữa cho FDI để tăng cường thu hút FDI mới và ngăn chặn FDI cũ bỏ đi. Có ý kiến cho rằng năm 1997 FDI mới đăng ký vào Việt Nam giảm 40%, năm 1998 có thể sẽ giảm tới 70%.
Cần tiếp tục và tăng cường qúa trình đổi mới hơn nữa theo hướng kinh tế thị trường có sự đIều tiết của Nhà nước, chú ý hơn tới chính sách tự do hoá và mở cửa nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam và nền kinh tế Việt Nam, nâng cao năng suất lao động, tăng cường liên kết quốc tế và khu vực, xây dựng một hệ thống thể chế và cơ cấu bảo đảm sự phát triển vừa ổn định trước mắt vừa năng động và bền vững lâu dài. Trong số những biện pháp thực tiễn, cần tăng cường hệ thống luật pháp và điều hành, cải cách mạnh hơn hệ thống tài chính ngân hàng, ưu tiên cho xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển các ngành đã tỏ rõ hiệu quả và các ngành mà ta có lợi thế, nhất là các ngành xuất khẩu, dùng nhiều lao động, các ngành chế biến nông sản, hải sản và khoáng sản, một số ngành mũi nhọn như viễn thông và tin học, cắt giảm bớt các ngành nặng, quy mô lớn, kém hiệu quả và chậm thu hồi vốn.
* Lành mạnh hóa khu vực tài chính ngân hàng : Tập trung chỉ đạo đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ của các doanh nghiệp, các ngành, các khu vực. Sớm hoàn thiện luật pháp và xử lý kiên quyết hơn tình trạng nợ khó đòi cả trong khu vực kinh doanh lẫn trong đời sống để lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế và quan hệ dân sự, xã hội ; Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, đề cao kỷ luật tài chính, thực hiện nghiêm túc các chế độ kế toán thống kê, kiểm toán, công khai hoá tài chính trong nền kinh tế. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, kiên quyết và đẩy lên một bước các hoạt động chống tham nhũng, hoàn thiện cơ chế giám sát an toàn kinh tế, tài chính trong nước ; Tăng cường công tác dự trữ, chống lại hiện tượng đầu cơ, gian lận thương mại, gian lận hành chính ; Quản lý có hiệu quả và thống nhất các nguồn ngoại tệ trên thị trường Việt Nam ; Cần sớm phát hiện và cho đóng cửa các tổ chức tín dụng,các ngân hàng “ có vấn đề “ tài chính, nhất là khối ngân hàng cổ phần. Xúc tiến lạI các ngân hàng yếu kém ; Giảm bớt các bảo lãnh dễ dãi của các ngân hàng nhà nước dành cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng yếu kém nhằm ngăn chặn những tổn thất tài chính to lớn có thể xảy ra ; Đề cao và cải thiện công tác thông tin, tư vấn phục vụ các hoạt động kinh doanh lẫn các hoạt động quản lý nhà nước.
40 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những vấn đề về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iữa đồng Baht và USD ( khoảng 25 Baht/1USD) là hết sức phi kinh tế, bởi trong khoảng thời gian này, các quá trình kinh tế thế giới và khu vực diễn ra rất mạnh mẽ, đồng đôla Mỹ ngày càng mạnh lên, đồng Baht yếu dần, cho đến trước thời điểm xảy ra khủng hoảng, đồng Baht đã giảm xuống còn 30,27 Baht/1USD. Lợi dụng điều này, các nhà đầu tư đã tạo ra mức bán khổng lồ hàng chục tỷ Baht để mua vài tỷ USD. Sức mạnh theo kiểu bán khống đã nâng cầu USD lên 100 lần so với bình thường và đẩy tỷ giá vượt xa tỷ giá thực. Kết quả đồng Baht bị bẻ gãy.
Thứ tư : Hệ thống ngân hàng tài chính yếu kém, công tác quản lý ngoại hối lỏng lẻo : Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ở cả Đông Nam á, Hàn quốc và Nhật đã dẫn đến một số lượng nợ lòng vòng khổng lồ mà không kịp phát hiện kịp thời. Các nước có thị trường tiền tệ khủng hoảng đều có mức nhập siêu quá lớn, trong khi tỷ lệ dữ trữ ngoại tệ trên nợ nước ngoài là quá thấp. Trong năm 1996, tỷ lệ này của Hàn quốc là 31%, Inđonesia chỉ khoảng 12% và Thái lan là 43,1%...
Bảng 8 : Dự trữ ngoại tệ của các nước ASEAN .
dự trữ ngoại tệ các nước ASEAN
Năm
Indonexia
Malaysia
Philippines
Xingapore
Thailan
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
19,83
19,86
19,87
20,38
20,99
21,08
21,67
20,38
28,40
28,70
29,10
28,30
27,70
28,00
23,30
21,10
11,00
11,79
11,83
11,56
11,42
-
9,60
-
77,45
77,36
78,82
78,99
80,54
81,85
79,51
78,05
38,20
37,20
37,10
36,30
32,20
31,40
30,40
25,90
Nguồn : Viện Phatra. Thái lan , tháng 9/1997
Cuối cùng chính sách tỷ giá cố định cứng nhắc tại các nước này đặc biệt mâu thuẫn với cơ chế tự do di chuyển vốn trong nền kinh tế các nước từ đó làm hạn chế và sai lệch khả năng kiểm soát các dòng vốn của Chính phủ .
***Thứ tư : Hệ thống ngân hàng - tài chính yếu kém, công tác quản lí ngoại hối lỏng lẻo .
Nhìn chung hệ thống ngân hàng - tài chính tại các nước bị khủng hoảng chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao . Trong một thời gian dài sự yếu kém của hệ thống ngân hàng tài chính tại các nước này được che dậy bởi những thành tựu kinh tế của các nước dẫn đến các thông tin phản ánh bị lệch lạc , méo mó. Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng do nhiều nguyên nhân đem lại song theo chúng tôi có thể do một số nguyên nhân chính như :
Thứ nhất : Chính phủ các nước có sự can thiệp ( mức độ khác nhau ) vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và các công ty tài chính nhằm hướng các hoạt động ngân hàng vào hỗ trợ cho chính sách phát triển kinh tế . Điều này dẫn đến việc quản lí tín dụng lỏng lẻo và mở rộng đầu tư quá mức khiến cho hiệu quả kinh tế thấp.
Hai là : Bản thân các ngân hàng chậm trễ trong việc đổi mới hoạt động và bảo thủ trong việc hiện đại hoá các hoạt động nghiệp vụ của mình và phụ thuộc rất lớn vào sự trợ giúp của chính phủ .
Sự yếu kém trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - tài chính thể hiện trước hết trong việc quản lí và cấp tín dụng trong nước được coi là kém hiệu quả và không chặt chẽ . Trên cơ sở của đà phát triển kinh tế đã tạo dựng tốc độ mở rộng tín dụng đã tăng nhanh , vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Tại các nước này trong những năm gần đây tốc độ cho vay đã vượt quá tốc độ tăng tiền gửi ở các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng tại các nước này đã chi và đầu tư mà không tính đến khả năng cạnh tranh với nước ngoài, ngân hàng thương mại trong nước cho vay một cách ồ ạt không cần giới hạn bằng hình thức quan hệ tín chấp thay cho quan hệ thế chấp tài sản .
Bên cạnh đó việc phân bổ vốn còn bị chi phối nhiều bởi yếu tố chính trị . Trong khi đó lượng vốn tín dụng khổng lồ này lại được chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn song chu kì vốn lại chậm mà điển hình là lĩnh vực bất động sản và đầu tư chứng khoán . Tại Malaysia tính từ cuối năm 1992 đến tháng 12 năm 1996 tổng các khoản tín dụng dành cho khu vực bất động sản và cổ phiếu tăng 2 lần , từ 34,24 tỷ Ringgit lên 68,32 tỷ Ringgit trong khi tín dụng dành cho khu vực chế tạo chỉ tăng 88%. Tại Indonexia tình trạng cho vay đầu cơ bất động sản cũng diễn ra mạnh mẽ , chiếm tới 25% tổng tín dụng. ở Thái lan thực trạng đầu tư cũng không lấy gì làm sáng sủa. Vốn vay qua hệ thống ngân hàng thái lan được tập trung phần lớn vào lĩnh vực bất động sản và đầu tư tài chính(Bảng dưới )***
Bảng 9 : Việc sử dụng các khoản vay mượn qua các ngân hàng Thái lan ( giá trị ròng )
Đơn vị : 100 tỷ Bath.
Các ngành
1993
1994
1995
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
Giá trị
Tỷ lệ
Thực phẩm
Luyện kim
Hoá chất
Sx đồ dùng gia đình
Dệt
SXVL xây dựng
Sx máy móc
Dầu khí
Xây dựng
Thương mại
Đầu tư chứng khoán
Khai thác mỏ
Dịch vụ
Bất động sản
Những ngành khác
60,0
53,9
47,2
52,1
32,5
24,5
24,0
2,0
22,9
147,9
66,4
0,7
55,3
116,4
140,4
7,2
6,4
5,6
6,1
3,8
2,9
2,8
0,2
2,7
17,5
7,8
0,1
6,5
13,7
16,6
51,8
62,6
81,3
92,6
44,4
62,2
81,5
47,8
38,4
268,9
263,5
-3,5
83,3
160,3
254,3
3,3
3,9
5,1
5,8
2,8
3,9
5,1
3,0
2,4
16,9
16,6
-0,2
5,2
10,1
16,0
55,0
123,3
125,3
56,3
54,8
78,8
18,6
36,5
45,9
153,6
226,1
3,4
-16,4
115,6
142,3
4,5
10,1
10,3
4,6
4,5
6,5
1,5
3,0
3,8
17,6
18,5
0,3
-1,3
9,5
11,7
Tổng cộng
847,0
100,0
1589,5
1218,9
100,0
Nguồn : Nền kinh tế TháI lan đối mặt với điều chỉnh cơ cấu - Nhóm nghiên cứu kinh tế Châu á FUMYUKI-TESTUJI SANO , Viện Nomura.
Điều nguy hiểm hơn là các khoản tín dụng trên do nhiều lí do đã không được bảo đảm. Chính vì vậy khi nền kinh tế bị đình đốn, xuất khẩu giảm sút làm cho các doanh nghiệp vay vốn không có khả năng hoàn trả đã đưa các tổ chức ngân hàng đến bờ vực của sự phá sản, gây lên các cú sốc trong hệ thống tài chính ngân hàng và và khởi đầu cho sự khủng hoảng.
Thêm vào đó, chính sách quản lí nợ của hệ thống ngân hàng các nước bị khủng hoảng chưa được coi trọng đúng mức. Trong khi thị trường tài chính tại các nước này có mức độ tự do hoá mạnh, các luồng vốn được di chuyển dễ dàng thì cơ chế quản lí, giám sát của NHNN đối với các NHTM và của NHTM đối với các doanh nghiệp lại lỏng lẻo và không kiểm soát dẫn đến tình trạng vạy nợ nước ngoài tràn lan. Tại hầu hết các nước bị khủng hoảng đều duy trì chính sách lãi suất trong nước cao hơn nhiều so với lãi suất bên ngoài nên càng khuyến khích hàng loạt các công ty vay nợ từ nước ngoài để hưởng chi phí vốn thấp. Chẳng hạn, tại Thái lan 9/10 công ty do Viện Pharta Thankit thống kê đã vay nợ tại nước ngoài với lãi suất là 8,5% năm thấp hơn rất nhiều so với lãi suất trong nước là 13,5% / năm.
Đồng thời hệ thống ngân hàng tại các nước này đã không điều chỉnh hợp lí tỷ lệ vay nợ ngắn hạn và dài hạn. Khoản vay ngắn hạn ngày càng gia tăng. Chỉ tính riêng ở Thái lan đã tăng gần 42% trong vòng 2 năm từ 29,3 tỷ USD năm 1994 lên đến 41,5 tỷ USD năm 1996. Còn đối với Indonesia theo ước tính số nợ nước ngoài ngắn hạn chiếm 34,3 tỷ USD trong tổng số 120,5 tỷ vay nợ nước ngoài. Trong khi đó các nước đều duy trì tỷ giá cố định theo USD vì vậy khi nền kinh tế các nước bị lâm vào tình trạng sa sút về xuất khẩu , tăng trưởng chậm kéo theo tình trạng thiếu ngoại tệ để thanh toán nợ nước ngoài đã đến hạn. Tình hình đó dẫn đến sức ép về phá giá đồng bản tệ ngày càng mạnh. Điều này càng xấu thêm khi những lời đồn đại về khả năng phá giá đồng bản tệ đã thúc dục các công ty và cá nhân đổ xô đi mua ngoại tệ nhằm trang trải các khoản nợ. Hành động này cộng hưởng với sự gia tăng đầu cơ càng làm tăng sức ép đối với đồng bản tệ vốn được coi là bị đánh giá quá cao trong bối cảnh nền kinh tế đình đốn của các nước.
Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng các nước này còn thể hiện trong việc chậm trễ có các giải pháp đối phó với tình trạng di chuyển vốn ngoại tệ một cách khá tự do. Chính sách quản lí ngoại hối quá lỏng lẻo đã tạo điều kiện cho sự chuyển đổi dễ dàng giữa đồng bản tệ và ngoại tệ dẫn đến không kiểm soát được sự rời đi của các dòng vốn do sự bán tháo đồng nội tệ để lấy USD khi xuất hiện các dấu hiệu bất ổn định trên thị trường tiền tệ .
Tóm lại, theo chúng tôi khủng hoảng tiền tệ tại các nước Châu á năm 1997 là kết quả của một nền kinh tế hướng ngoại bị lệ thuộc nặng nề vào một số ngành công nghiệp xuất khẩu và vào các khoản vay nợ, đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn bên ngoài không được kiểm soát. Trong khi đó các nước lại duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc với sự vận hành của hệ thống ngân hàng tài chính yếu kém.
III/ Tính chất của cuộc khủng hoảng
Tính chất của cuộc khủng hoảng ở Châu á hiện nay cũng là một vấn đề quan trọng được bàn cãi. Ban đầu khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra người ta cho rằng đó là sự biến động tiền tệ hay khủng hoảng tiền tệ thông thường, dần dần với mức độ tác động mạnh và ngày càng sâu rộng nhiều quan điểm nhận định đây là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ rồi khủng hoảng tài chính. Theo chúng tôi cần thiết phải có quan điểm đúng về tính chất của cuộc khủng hoảng, cùng với xác định đúng nguyên nhân việc xác định chuẩn xác tính chất của cuộc khủng hiện nay sẽ là cơ sở để các nước đề ra các biện pháp phục hồi lại nền kinh tế và đối với các nước chịu ảnh hưởng ít sẽ là cơ sở để có các biện pháp ngăn chặn. Căn cứ vào diễn biến và nguyên nhân cơ bản của cuộc khủng hoảng đã phân tích ở trên chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng cuộc khủng hoảng hiện nay đã thực sự trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế -tài chính và mang tính quốc tế hoá sâu sắc. Cuộc khủng hoảng diễn ra theo cơ chế hình sóng, lan toả từng đợt và tác động, xâm nhập vào các nền kinh tế khác theo cơ chế “Đôminô “theo nguyên tắc càng xa, càng cách biệt trong quan hệ kinh tế thì mức độ càng nhẹ.
Những tác động
I/ Đối với các nước trong khu vực.
Sự phá giá của đồng Baht và các đồng tiền khác của các nước Đông Nam á gây ra hậu quả nghiêm trọng lâu dài và tác động xấu đến mọi hoạt động của đời sống kinh tế xã hôị của đất nước.
Trong thời gian trước và trong khủng hoảng, các nước đều phải tiêu tốn số lượng ngoại tệ lớn để chống đỡ giữ cho đồng tiền không bị mất giá quá mức. Thái lan sử dụng 15 tỷ USD trong tổng số 33 tỷ USD dự trữ ngoại tệ của Nhà nước để cứu nguy cho đồng Baht, Philippines cũng sử dụng 20% tổng số dự trữ để hỗ trợ cho đồng peso. Các nước khác như Malaysia, Indonesia cũng sử dụng nhiều tỷ đôla Mỹ vào mục đích nói trên.
Nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ tăng lên khoảng 25-40 % tuỳtheo mức độ phá giá của đồng tiền. Như vậy, nợ nước ngoài của Thái lantừ 85 tỷ USD lên 119 tỷ USD ; Malaysia từ 29 tỷ lên 36,5 tỷ USD ; Philippines từ 43, 5 tỷ lên 54,4 tỷ USD ; Indonesia từ 109,3 tỷ lên150,5 tỷ USD.
Hoạt động đầu tư, kinh doanh bị đình đốn. Hàng loạt các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản.
Do đồng tiền bị mất giá, nền kinh tế vĩ mô không ổn định, nguồn đầu tư nước ngoài sẽ bị giảm sút và có thể sẽ chuyển sang khu vực khác ổn định và có nhiều lợi thế hơn như Trung quốc, khu vực Mỹ Latinh...
Hệ thống tài chính đổ vỡ gây sức ép lớn tới lạm phát, giảm thu nhập của người lao động, tác động xấu đến các mặt của đời sống chính trị, xã hội.
Cuối cùng để khắc phục được hậu quả khủng hoảng, ổn định trở lại nền kinh tế trên thế cân bằng mới, các quốc gia này phải tiêu tốn một lượng tài chính rất lớn, theo ước tính vào khoảng trên dưới 10% GDP. Đây là khó khăn lớn nhất không thể giải quyết ngay được trong một thời gian ngắn.
Bên cạnh những tác động tiêu cực, cuộc khủng hoảng cũng có những yếu tố tích cực sau :
Giảm giá đồng tiền lại góp phần khuyến khích xuất khẩu, hàng xuất khẩu của các nước này có thêm cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế nhất là trong tương quan so sánh với các mặt hàng cùng loại của các nước trong khu vực có đồng tiền ổn định hơn.
Các yếu tố đầu vào tính bằng ngoại tệ, bao gồm tiền lương, đất đai, dịch vụ... giảm một cách tương đối cao so với các nước khác, nên khi khủng hoảng kết thúc thì chính các nước này lại có lợi thế thu hút vốn đầu tư, cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Nếu xét về lâu dài, thì đây là dịp các nước này rút ra được các bài học điều chỉnh lại các chính sách vĩ mô, điều chỉnh lại cơ quan phát triển kinh tế. Những kết quả của các cải cách này sẽ tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển một cách bền vững hơn.
Không chỉ ảnh hưởng tới các nước trong khu vực châu á, cuộc khủng hoảng còn có tác động tới nền kinh tế khoẻ mạnh của Mỹ. Năm 1997 là năm sức khoẻ nền kinh tế Mỹ tốt hơn bao giờ hết. Giới kinh doanh Mỹ tự nhủ nếu không có khủng hoảng châu á, năm 1998 này họ đã có thể dễ dàng tiên đoán thêm một năm ăn nên làm ra nữa. Cuộc khủng hoảng đang làm các nhà xuất khẩu Mỹ đau đầu : thâm hụt mậu dịch chừng 115 tỷ USD trong năm 1997 sẽ tăng vọt quá con số kỷ lục là 153 tỷ USD như năm 1987, nếu các công ty Mỹ không tìm được thị trường mới ở châu á và châu Mỹ để bù đắp vào xuất khẩu sang châu á đang giảm sút.
Vì vậy, tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) chỉ khoảng 2,4 % so với 3,7 % của năm 1997, năm có mức tăng trưởng cao nhất của Mỹ kể từ 1988. Lạm phát trong năm 1997 chỉ còn 2,1%, thấp nhất kể từ năm 1965, nhưng nhiều người tin rằng con số này sẽ tăng lên 2,5% năm nay. Tỷ lệ thất nghiệp đã xuống còn 4,6 % vào tháng 11 năm ngoái, cũng là mức thấp nhất trong vòng 24 năm qua, sẽ nhích lên 5% vào đầu năm 1998
II/ Đối với Việt Nam
Là một quốc gia nằm trong khu vực khủng hoảng, trong bối cảnh quốc tế hoá cao như hiện nay, rõ ràng Việt Nam không tránh khỏi những tác động trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn, tốt và xấu của nó đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước.
Ban đầu khi cuộc khủng hoảng vừa bùng nổ nhiều ý kiến phân tích nhận định rằng nền kinh tế Việt nam sẽ không bị ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể , căn cứ của luận điểm trên mới chỉ dừng ở sự phân tích bề ngoài như :
+ Đồng tiền Việt nam chưa phải là đồng tiền được chuyển đổi dễ dàng , chưa tham gia vào thị trường tiền tệ khu vực.
+ Việt nam chưa có thị trường chứng khoán
Tuy nhiên theo chúng tôi việc phân tích các tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Châu á đến nền kinh tế Việt nam phải xuất phát từ góc độ Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN , bước đầu gia nhập AFTA và tới đây trong xu thế hội nhập sẽ gia nhập APEC , WTO . Chỉ có như vậy mới có thể đưa ra được những đánh giá mang tính khoa học.
Đối với Việt nam cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã có những tác động ở mức độ khác nhau trên nhiều lĩnh vực chủ yếu như : thương mại, đầu tư , tâm lí xã hội và vấn đề nợ nước ngoài. Sau đây ta sẽ di xem xét những ảnh hưởng trên từng lĩnh vực cụ thể :
1/ Thương mại
So với các nước, tỷ trọng thương mại của Việt nam với các nước trong khu vực Châu á đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong đó về nhập khẩu các nướ ASEAN chiếm tỷ trọng trên 25%, các nước Châu á khác chiếm trên 45% tổng kim ngạch nhập nhẩu của Việt nam. Tính chung lại thì hàng năm Việt nam nhập khẩu từ các nước Châu á với tỷ trọng lớn trên 70%. Các mặt hàng chủ yếu nhập khẩu từ các nước này vào Việt nam gồm : xăng dầu, sắt thép, phân bón, xi măng, linh kiện điện tử, ôtô, xe máy. Về xuất khẩu, đối với thị trường các nước ASEAN kim ngạch xuất khẩu của Việt nam chiếm tỷ trọng không dưới 20%, thị trường Châu á chiếm 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam. Tính chung, Việt nam xuất khẩu hàng hoá sang các nước Châu á chiếm khoảng trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm : dầu thô, than đá, cao su, cà phê hạt, gạo, dệt may, da giầy và hải sản .
Bảng 10: Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt nam và ASEAN .
Nguồn : Bộ thương mại
Các nước
Năm 1996
Năm 1997
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Trị giá
Tỷ trọng
Trị giá
Tỷ trọng
Trị giá
Tỷ trọng
Trị giá
Tỷ trọng
Tổng số
11.668
100
7.350
100
11.150
100
8.760
100
Các nước Asean
2.948
25,2
2.252
30,6
3.098
27,8
1.787
20,4
Các nước Châu á khác
5.537
47,4
2.177
37,0
5.391
48,3
3.740
42,7
Phần còn lại
3.195
27,4
2.379
32,4
2.661
23,9
3.323
36,9
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á hoạt động xuất nhập khẩu của Việt nam cũng có một số biến động.
Thứ nhất : Về xuất khẩu. Do đồng nội tệ của các nước bị khủng hoảng mất giá hơn so với Việt nam Đồng nên theo nguyên lí xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang các nước này sẽ bị hạn chế do giá của các hàng hoá này trở lên đắt tương đối và nhu cầu nội địa tại các nước bị khủng hoảng giảm sút. Bên cạnh đó như phần trên đã chỉ ra cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt nam cũng giống như cơ cấu hàng xuất của các nước ASEAN do đó chắc chắn vễ xuất khẩu của Việt nam hiện tại và trong tương lai sẽ có sự sụt giảm đáng kể. Điều này được phản ánh qua số liệu tình hình xuất nhập khẩu năm 1997 khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra và lan rộng, xuất khẩu của Việt nam thời gian này giảm từ 2.252 triệu USD năm 1996 xuống còn 1.787 triệu USD ( bảng trên ) , mức giảm là 465 triệu USD. Đặc biệt phân tích tình hình xuất khẩu cho thấy thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt nam đang có xu hướng bị thu hẹp. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang các nước ASEAN, Nhật và Hàn Quốc đạt khoảng 42,2 % tổng kim ngạch xuất khẩu trong đó trên 24% là sang các nước ASEAN nhưng trong đó 65-79% là hàng xuất sang Singapore một quốc gia bị ảnh hưởng ít của cuộc khủng hoảng. Dự đoán của các chuyên gia sang năm 1998 và kéo dài ít nhất 1-2 năm nữa mức ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến xuất khẩu của Việt nam còn lớn hơn . Số liệu đầu năm 1998 ( tháng 1/98) cho thấy xuất khẩu của Việt nam sang các nước ASEAN đã giảm 57% so với tháng 12 năm 1997 , xuất khẩu sang Hàn Quốc giảm 24% và sang Đài loan giảm 50%, theo báo cáo của NHNN xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm 1998 chỉ tăng 10,2% ( trong khi đó cùng kì năm 1997 tăng 32%). Vì vậy trong thời gian tới Chính phủ cần có các biện pháp kịp thời nhằm hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng và thúc đẩy xuất khẩu .
Thứ hai : Về nhập khẩu. Theo lí thuyết thì nhập khẩu của Việt nam từ các nước bị khủng hoảng Châu á sẽ tăng mạnh song thực tế ngay từ đầu năm 1997 Chính phủ Việt nam đã áp dụng các biện pháp để hạn chế nhập siêu, đặc biệt là đối với các mặt hàng trong nước có khả năng đáp ứng và những mặt hàng tiêu dùng. Vì vậy qua tình hình nhập khẩu năm 1997 cho thấy các mặt hàng nhập khẩu vào Việt nam bao gồm các loại vật tư, nhiên liệu, máy móc phục vụ cho sản xuất đều được nhập khẩu khá dễ dàng nhờ thuế suất thấp, rõ ràng đây là mặt lợi mà cuộc khủng hoảng trong khu vực đem lại cho Việt nam. Theo báo cáo của Bộ thương mại giá máy móc thiết bị giảm từ 20-40% so với trước khi xảy ra khủng hoảng, giá nguyên liệu nhựa giảm 10-30%, linh kiện điện tử giảm 10-30%, bông xơ các loại giảm 10-15%. Đây thực sự là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt nam tận dụng để giảm chi phí đầu vào .
Bên cạnh đó do tác động của cuộc khủng hoảng tệ nạn buôn lậu ngày càng gia tăng do giá cả hàng hoá tại các nước này rẻ so với hàng hoá tại Việt nam và các nước không bị ảnh hưởng mạnh. Điều này nếu không có sớm các biện pháp ngăn chặn sẽ tạo ảnh hưởng không tốt đến quá trình sản xuất của các doanh nghiệp trong nước.
Theo chúng tôi, hiện nay có thể áp lực của cuộc khủng hoảng đối với nhập khẩu không là đáng kể song trong thời gian tới mức độ tác động sẽ lớn hơn khi Việt nam phải thực hiện các chương trình cắt giảm thuế quan nhập khẩu theo quy định của AFTA .
2/ Đối với đầu tư nước ngoài.
Đầu tư dưới dạng ODA : Thực tế về huy động vốn đầu tư ODA của Việt nam cho thấy hiện nay đang diễn ra quá trình cạnh tranh và giành giật hết sức quyết liệt giữa các nước nghèo, các nước đang phát triển nguồn vốn ODA từ các nước phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế. Số liệu cho thấy trong các hiệp định cho vay đa phương thì WB ( World Bank ) chiếm 22% tổng số vốn cam kết, tiếp sau là ADB 16%. Như vậy sau khi xảy ra khủng hoảng chắc chắn mức cam kết của ADB sẽ giảm xuống. Các nước trước đây thường cho Việt nam vay vốn ODA như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đang bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng nên việc gia tăng các nguồn vốn ODA từ các nước này cũng sẽ rất khó khăn .
Như vậy việc huy động nguồn vốn ODA sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn dưới tác động của cuộc khủng hoảng.
Về thu hút đầu tư dưới dạng FDI ( Foreign Direct Invesment ) : Đầu tư ở Việt nam từ sau khi ban hành Luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ( năm 1987 ) đã ngày càng tăng mạnh cả về chất và lượng.
Bảng 11 : Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam
Chỉ tiêu
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
Số dự án cấp phép
155
193
272
362
404
501
479
Vốn đăng kí ( Tr.USD)
1388
2271
2987
4071
6616
9212
5548
Số dự án giải thể
38
48
34
58
56
52
55
Số vốn giải thể
293
401
79
217
477
1024
243
Số dự án tăng vốn
6
10
51
73
122
134
143
Số vốn tăng
7,7
49
222
504
1247
684
1095
Vốn thực hiện
221
398
1106
1952
2652
2371
2950
Tỷ lệ VTH/VĐK(%)
24
22,7
28
34,1
34,8
33
53,1
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư
Số liệu năm 1997 cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam đã có dấu hiệu chững lại.
3/ Tâm lí xã hội
Cơn bão tài chính tiền tệ tại các nước Châu á mà tâm điểm là khu vực Đông Nam á nổ ra đã tác động mạnh đến tâm lí của người dân Việt nam. Những ảnh hưởng này thể hiện rõ nhất qua việc rút tiền tiết kiệm hàng loạt của dân cư và các tổ chức kinh tế quy đổi sang ngoại tệ hoặc các loại tài sản khác như vàng, đá quý vì lo sợ sự mất giá nghiêm trọng của VNĐ. Trong cơ cấu tiền gửi tại ngân hàng tiền gửi bằng Việt nam đồng có xu hướng tăng chậm trong khi tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh kể cả tiền gửi ngoại tệ của dân chúng và của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên theo chúng tôi tác động tâm lí mạnh nhất của cuộc khủng hoảng là đã có không ít những quan điểm cho rằng : cơn bão tài chính tiền tệ chỉ xảy ra và lan truyền theo hiệu ứng đến những quốc gia có nền kinh tế đang trong thời kỳ tự do hoá và hội nhập vào khu vực và trên thế giới và như vậy, để tránh một cuộc khủng hoảng tương tự Việt nam không vội vàng gì phải đẩy nhanh quá trình hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế, và cuối cùng cần phải xem lại mô hình và đường lối phát triển kinh tế của Việt nam. Thêm nữa, sau khi nhận thấy một trong những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng là do việc điều hành chính sách tỷ giá không hợp lí tại các nước bị khủng hoảng không ít những nhà kinh tế đã lên tiếng cho rằng việc giữ ổn định tỷ giá hiện nay của Việt nam là sai lầm và cần phải phá giá VNĐ để trả lại giá trị đích thực cho đồng bản tệ , chỉ có như vậy mới có thể thúc đẩy xuất khẩu. Về gián tiếp, những quan điểm này đã tác động mạnh đến xu hướng đầu cơ và tích trữ ngoại tệ ở Việt nam trong thời gian này .
4/ Sản xuất trong nước
Do biến động của tỷ giá VNĐ/USD và hiệu ứng tâm lí của cuộc khủng hoảng làm cho quá trình đầu tư trong nước có xu hướng giảm. Khi có biến động về tiền tệ các khoản tiết kiệm sẽ chuyển thành các ngoại tệ mạnh và các loại taì sản quý để tích trữ điều này gây khó khăn cho hoạt động huy động vốn trong nước của ngành ngân hàng. Mặc dù qua số liệu năm 1997 lượng vốn huy động trong nước qua hệ thống ngân hàng thương mại tiếp tục tăng trưởng 21 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 1996 ( tăng 25% ), trong đó tốc độ tiền gửi ngoại tệ tăng 27,9%, tiền gửi bằng VNĐ tăng 24,8% đưa tỷ lệ tiền gửi so với GDP tăng từ 25% năm 1996 lên 28%. Song hiện tại ngân hàng mới chỉ đáp ứng được được khoảng 45-46% nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp quốc doanh. Trong khi đó việc các nước trong khu vực phá giá đồng nội tệ đã làm cho hàng sản xuất từ các nước này trở lên rẻ tương đối và cạnh tranh gay gắt với hàng sản xuất của Việt nam. Như vậy cuộc khủng hoảng đã làm cho việc đầu tư mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu vốn và bị cạnh tranh gay gắt bới hàng hoá rẻ từ các nước trong khu vực.
5/ Ngân sách Nhà nước
Về thu ngân sách : Như đã phân tích ở phần trên, do tác động của cuộc khủng hoảng lượng hàng nhập sẽ có xu hướng gia tăng vì vậy thu thuế từ nhập khẩu sẽ tăng lên. Song theo chúng tôi, xét về dài hạn thì mức tăng thêm sẽ không nhiều vì để đảm bảo các điều kiện cho quá trình hội nhập về kinh tế Việt nam phải cắt giảm hàng loạt thuế các mặt hàng nhập khẩu. Do tác động của cuộc khủng hoảng sẽ dẫn đến thu ngân sách Nhà nước có hai hiệu ứng trái ngược nhau :
Một là : có khả năng tăng thu thuế xuất nhập khẩu.
Hai là : gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên vật liệu tăng lên có thể làm cho các doanh nghiệp sản xuất Việt nam bị đình đốn thậm chí là phá sản và như vậy tác động của khủng hoảng sẽ làm giảm thu ngân sách.
Về chi ngân sách : Trong thời gian tới do VNĐ mất giá 10-15% do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng lên việc chi ngân sách Nhà nước sẽ tăng lên để đối phó với lạm phát có thể lên cao và chi trả nợ nước ngoài. Các khoản nợ tính bằng VNĐ của Nhà nước và các doanh nghiệp sẽ tăng lên do VNĐ mất giá sẽ là gánh nặng cho các doanh nghiệp và Nhà nước, làm giảm đáng kể dự trữ quốc tế của Việt nam.
6/ Tác động đến lĩnh vực ngân hàng - tài chính :
Cuộc khủng hoảng đã gây ra sức ép giảm giá đồng Việt nam trên thị trường hối đoái. Do đồng tiền của các nước trong khu vực mất giá từ 30-70% nên trên thực tế VNĐ đã lên giá so với đồng tiền các nước này và gây sức ép phá giá. Thực tế, tâm lí lo sợ VNĐ phá giá đã dẫn đến việc vội vàng chuyển từ VNĐ sang USD để tích trữ, đẩy tỷ giá USD trên thị trường tự do tăng mạnh trong một thời gian, có thời điểm lên tới 1USD=14.600 VNĐ. Để đối phó lại NHNN đã phải dùng nhiều biện pháp để đối phó như tung ngoại tệ ra bán, nâng mức biên độ dao động, tăng cường các biện pháp kiểm soát ngoại hối.
Cơ cấu tiền gửi tại hệ thống ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng hoảng. Vào thời điểm đầu năm 1998, lượng tiền gửi bằng VNĐ tăng chậm trong khi đó tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh ( kể cả tiền gửi của dân cư và của các doanh nghiệp ). Nhiều doanh nghiệp giữ lại ngoại tệ trên tài khoản mà không bán lại cho NHNN để tránh rủi ro do sự mất giá của VNĐ. Tình hình trên đã gây mất cân đối ngoại tệ ở từng thời điểm, gây sức ép đến tỷ giá VNĐ và sự ổn định của thị trường hối đoái.
Ngoài ra ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng còn được thể hiện rõ qua hoạt động giao dịch ngoại tệ. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tính từ đầu năm đến tháng 3/1998, các hoạt động giao dịch có chiều hướng giảm sút , các ngân hàng thương mại chỉ tiến hành mua vào mà không bán ra ngoại tệ dẫn đến cầu vượt xa cung gây mất cân đối cung cầu ngoại tệ từ đó gây sức ép tăng lãi suất và dễ làm mất ổn định hệ thống ngân hàng. Ngoại tệ tăng giá làm tăng nhu cầu vay vốn bằng Việt nam đồng do lãi suất thấp và tránh rủi ro về tỷ giá song khi nhu cầu vay vốn bằng VNĐ tăng lên tạo sức ép tăng lãi suất VNĐ, lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng đến việc khuyến khích đầu tư trong khi đó hệ thống ngân hàng Việt nam hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn về huy động vốn, cho vay và khả năng thanh toán trong nước và quốc tế.
B/ Tác động đối với tiến trình hội nhập kinh tế Việt nam vào AFTA , APEC và WTO.
Theo các mục tiêu của AFTA : tăng chu chuyển thương mại nội bộ giữa các nước ASEAN và thế thương lượng cạnh tranh thương mại của toàn ASEAN với thế giới, tạo lập khu vực hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực và làm cho nền kinh tế ASEAN thích ứng với mọi biến đổi của nền kinh tế thế giới.. thì cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã hoàn toàn ảnh hưởng đến mục tiêu và các định hướng đặt ra. Do đó tiến trình rút ngắn thời hạn thực hiện AFTA của một số nước thành viên trong bối ảnh hiện nay là hết sức khó khăn. Vì vậy đối với Việt nam tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới bằng việc gia nhập ASEAN, APEC, WTO chắc chắn sẽ không tránh khỏi những trở ngại.
Như phần trên đã phân tích xét về lâu dài những tác động của cuộc khủng hoảng trong khu vực đối với nền kinh tế Việt nam không phải là nhỏ, thêm vào đó ở trong nước, Việt nam cũng đang vấp phải những hiện tượng kinh tế có những nét tương tự giống như tình hình của các nền kinh tế ASEAN trước khi bị khủng hoảng như : hệ thống ngân hàng yếu kém, xuất hiện các khoản nợ khó đòi trong hệ thống các ngân hàng thương mại, thâm hụt ngoại thương và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút.. Những dấu hiệu này sẽ ảnh hưởng và làm giảm sút khả năng phát triển kinh tế của việt nam vào những năm tới. Theo đó, lộ trình thực thi AFTA mà Việt nam cam kết hoàn thành vào năm 2006 sẽ không dễ dàng thực hiện chứ chưa nói gì đến mong muốn rút ngắn thời hạn hoàn thành vào năm 2003 như một số người đã kỳ vọng trước khi cuộc khủng hoảng trong khu vực xảy ra. Điều này lại càng trở lên khó khăn hơn khi cuộc khủng hoảng đã diễn ra hết sức sâu sắc và nghiêm trọng, quy mô tác động của nó không chỉ giới hạn ở Châu á mà đã lan toả ảnh hưởng khắp toàn cầu. Do hậu quả của cuộc khủng hoảng tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN sẽ chậm lại trong một vài năm tới do đó sẽ làm chậm tốc độ chu chuyển thương mại của các nước ASEAN với nội bộ khu vực cũng như thế giới. Mức độ bổ sung lẫn nhau giữa các nước ASEAN theo đó sẽ không được tăng cường. Vì vậy mục tiêu của AFTA đặt ra là tăng chu chuyển thương mại nội bộ và thế thương lượng cạnh tranh thương mại của toàn ASEAN với thế giới ngày càng trở lên khó khăn hơn .
Bên cạnh đó, khó khăn đối với tiến trình hội nhập của Việt nam hiện nay là quá trình thúc đẩy tự do hoá tài chính diễn ra chậm chạp trong khi quá trình xúc tiến tự do hoá thương mại và đầu tư mới đang ở bước đầu triển khai. Thêm nữa, trong khu vực, ảnh hưởng của khủng hoảng đã làm đầu tư nước ngoài giảm sút, nhu cầu trong nước do đồng tiền các nước bị mất giá cũng trở lên yếu kém cộng hưởng với nguy cơ sụt giảm và thâm hụt cán cân vãng lai tại thị trường Mỹ và Châu âu do tác động mang tính toàn cầu của cuộc khủng hoảng làm cho tiến trình AFTA của các nước ASEAN nói chung và Việt nam nói riêng trở lên khó khăn khi các thị trường làm điều kiện cho sự tăng trưởng năng động của nền kinh tế ASEAN cũng rơi vào tình trạng suy thoái.
Tuy vậy, xét về lâu dài, theo chúng tôi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á đã tạo ra sự cần thiết phải đổi mới một cách toàn diện nền kinh tế các nước ASEAN theo xu hướng toàn cầu hoá và theo đó với những lợi thế của mình tiến trình thực hiện gia nhập APEC, WTO trong một số năm sau cuộc khủng hoảng sẽ được thúc đẩy nhanh hơn .
Phần II : Biện pháp hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ
I Đối với các nước trong khu vực.
1/Huy động vốn hỗ trợ trong và ngoài nước
Sự hỗ trợ tài chính khẩn cấp của cộng đồng quốc tế là nhân tố có hiệu lực tức thì và mạnh mẽ nhất để chế ngự cuộc khủng hoảng, tránh sự lan rộng và hậu quả lâu dài ở trong và ngoài nước. Dựa vào chương trình hỗ trợ IMF, WB và các tổ chức tài chính quốc tế khác.
Lịch sử cho thấy rằng, các tổ chức tài chính quốc tế, đặc biệt là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính. Mặc dù hiện đang có những đánh giá khác nhau về vai trò của tổ chức tài chính này trong việc hạn chế khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu á, song thực tế cho thấy rằng, trước những khó khăn nặng nề do cuộc khủng hoảng tài chính gây ra như hiện nay, sử dụng vốn hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế và của nước ngoài lf biện pháp thiết thực để có thể thoát nhanh khỏi cuộc khủng hoảng. Trong chừng mực nhất định, IMF vẫn là tổ chức có những tác động tích cực để cải thiện nền tài chính cũng như kinh tế các nước đang chìm trong khủng hoảng.
Đối với Thái lan, nước chịu tác động mạnh mẽ nhất, vào giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, sau những cố gắng vận động khu vực và quốc tế tại phiên họp do IMF chủ trì ở Tokyo tháng 8/1997, các tổ chức tài chính quốc tế đã cam kết hỗ trợ cho nước này 17,2 tỷ USD, trong đó IMF và Nhật Bản mỗi bên góp 4 tỷ USD. Ngân hàng thế giới (WB) và ngân hàng phát triển Châu á (ADB) góp 2,7 tỷ USD ; Australia, Malaysia, Singapore, Hồng Kông, Trung Quốc, mỗi bên góp 1tỷ USD, Hàn Quốc và Brunei mỗi bên góp 500 triệu USD. Đáng lưu ý là, để nhận được khoản tín dụng này, Chính phủ Thái lan phải chấp nhận “giải pháp cả gói “ do IMF đưa ra : với ngân sách, Thái lan vừa phải tăng thuế VAT từ 7- 10%, vừa giảm chi tiêu 10%; phải đóng cửa các công ty tài chính yếu kém và duy trì dữ trữ ngoại tệ ít nhất là 25 tỷ USD; giữ tỷ lệ lạm phát ở mức 8- 9% ; giảm thâm hụt tài khoản vãng lai xuống còn 5% GDP trong năm 1997 và 3% GDP trong năm 1998 ; cải tổ cơ cấu và sát nhập một số định chế tài chính, thiết lập hệ thống bảo hiểm tiết kiệm...
Đối với Hàn Quốc thì sao ? Để nhanh chóng khắc phục khủng hoảng, Chính phủ đã kêu gọi các tổ chức ngân hàng nước ngoài hỗ trợ tài chính, củng cố nguồn vốn đầu tư trong nước. Theo công bố của IMF, vào đầu tháng 12- 1997 tổ chức ngân hàng quốc tế và các nước khác đồng ý cho Hàn Quốc vay 57 tỷ USD. Hoạt động của IMF trở nên tích cực hơn từ khi Hàn Quốc bị cuốn vàovòng xoáy khủng hoảng và khi đồng Rupiah mất giá mạnh. Kể từ tháng 8/1997 đến nay, IMF đã cam kết tài trợ cho Thái lan, Hàn Quốc và Indonesia khoảng 100 tỷ USD. Để đổi lấy những khoản tiền đó, ngoài những cam kết như Thái lan, ba nước này còn phải thực hiện những chính sách mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng.
2/ Các biện pháp trục vớt và cải thiện hệ thống tài chính quốc gia.
Ngoài biện pháp kêu gọi hỗ trợ tài chính quốc tế, ở trong nước, sau khi thả nổi đồng nội tệ và thực hiện các biện pháp tình thế, tập trung tấn công vào giới đầu cơ, Chính phủ các nước đã đưa ra những chính sách khắc phục khủng hoảng của mình. Một mặt duy trì một cách nhất quán các chính sách kinh tế tài chính tiền tệ cứng nhắc và thận trọng ; tăng cường áp dụng tỷ giá hối đoái linh hoạt ; tạo ra những khuyến khích mang tính thị trường nhằm nâng cao sự minh bạch trên thị trường vốn cũng như hiệu quả phân phối nguồn vốn, tăng cung tiền tệ và quản lý tốt khu vực tư nhân. Mặt khác, tăng cường năng lực của các tổ chức tài chính ngân hàng trong nước và định hường ưu tiên cho các nỗ lực vượt qua khủng hoảng.
Căn cứ vào cách tiếp cận đối với chính sách tỷ giá hối đoái có thể thấy rõ hai đối sách khác nhau. Một nhóm thả nổi tiền tệ, mà đại diện của nó là Thái lan, Philippines, Malaysia, Indonesia. Một nhóm duy trì giá trị đồng nội tệ gồm Hồng Kông, Trung Quốc và Hàn Quốc.
* Mục đích của thả nổi tỷ giá hối đoái là cố gắng lập lại thế cân bằng về cán cân xuất nhập khẩu do phá giá tiền tệ ở các nước gây ra. Trừ Singapore chủ động phá giá tiền tệ, trình tự các đối sách của các nước này là : Tìm mọi cách can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách bán ngoại tệ dữ trữ để mua đồng bản tệ ; Tìm mọi cách chống lại đầu cơ : nghiêm cấm cho vay với mục đích đầu cơ đồng thời cắt phần vốn USD mà ngân hàng có thể nắm giữ ; Sau khi hết cơ chống đỡ, các nước thả nổi tiền tệ và chủ động nâng lãi suất trong nước để bảo vệ đồng bản tệ ; Xốc lại hệ thống tại chính ngân hàng bằng cách loại bỏ các tổ chức yếu kém để tránh lây lan sang các tổ chức lành mạnh ; Tăng sinh lực cho những chính sách Nhà nước trên cơ sở cắt giảm chi tiêu, cắt giảm đầu tư vào các dự án lớn trong lĩnh vực bất động sản ; Giảm thâm hụt tài khoản vãng lai ; Khôi phục lại hoạt động của các doanh nghiệp trên cơ sở hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, lập ra các quỹ hỗ trợ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, gia hạn nợ.
Thái lan là nước đầu tiên thực hiện chương trình kinh tế tổng thể gồm 9 điểm, tập trung vào việc khắc phục khủng hoảng tài chính tiền tệ trong nước trên cơ sở đưa ra những quyết định và biệp pháp nhằm cải tạo vốn, đảm bảo dữ trữ quốc gia, cân bằng chính sách, cắt giảm thâm hụt v.v... Theo yêu cầu của IMF, Thái lan đã đưa ra những quyết định buộc phải dừng hoạt động hoặc cưỡng bức sáp nhập các công ty tài chính yếu kém. Chính phủ cũng phát hành trái phiếu, năm 1997, riêng ngân hàng Trung ương đã phát hành trái phiếu giá trị khoảng 30 tỷ Baht (tăng 10 tỷ Baht so với năm 1996) để giúp các tổ chức gặp khó khăn trong thanh toán, thậm chí chính phủ còn mua lại với giá chiết khấu 25% những khoản cho vay để hỗ trợ. Các ngân hàng thương mại Thái lan còn lập ra một quỹ 50 tỷ Baht để cứu vãn thị trường chứng khóan.
Để cân bằng chính sách và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, các nước trong khu vực cũng như Thái lan đã tiến hành các biện pháp ngặt nghèo về tài chính như cắt giảm chi tiêu chính phủ, tăng thuế, ngừng tăng lương, định hướng lại các khoản chi ngân sách và quản lý vay nợ nghiêm ngặt hơn.
* Đối với các nước duy trì giá trị đồng bản tệ, trước hết họ cố gắng duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất trong nước phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo ảnh hưởng trên thị trường thế giới và trong khu vực. Các nước này đã thực hiện tuần tự các bước sau :
Công bố dự trữ ngoại tệ, và quan tâm bảo vệ đồng tiền bản tệ để yên lòng các nhà đầu tư.
Trừng phạt nặng các hành động đầu cơ cũng như có liên quan đến đầu cơ.
Thắt chặt chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát, chấn chỉnh toàn bộ hệ thống tài chính ngân hàng.
Củng cố lại hệ thống doanh nghiệp, lập uỷ ban chống phá sản doanh nghiệp và quỹ đặc biệt thanh toán các khoản nợ tồn đọng của các doanh nghiệp gặp khó khăn.
Để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính, Chính phủ Hàn Quốc cũng tăng cường xúc tiến chương trình cải tổ nền kinh tế, tập trung cải cách hệ thống ngân hàng tài chính. Với yêu cầu của IMF về việc tự do hoá hơn nền kinh tế và thực hiện cải tổ sâu rộng hệ thống tài chính tiền tệ cũng như hệ thống Chaebol, chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra một số biện pháp để trục vớt như : Mở rộng thị trường trái khoán trong nước cho đầu tư nước ngoài, bao gồm cả trái khoán chuẩn với thời hạn là 3 năm, đáp ứng yêu cầu mua của các nhà đầu tư nước ngoài ; Lập một quỹ mua ít nhất là 10.000 tỷ Won (10 tỷ USD) các khoản nợ khó đòi ; Ban hành các thủ tục bắt buộc sáp nhập các ngân hàng yếu kém vào thành một ngân hàng có năng lực tài chính và kinh doanh ; Mở rộng mức giao động hàng ngày của đồng Won so với đồng USD khoảng 10% ; Chính phủ sửa đổi và bổ sung luật Lao động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty và giảm bớt số lao động dư thừa ở các công ty ; Nâng mức trần đầu tư nước ngoài vào khu vực ngân hàng nội địa. Cho phép giải thể các ngân hàng mất khả năng thanh toán ; Khuyến khích tư nhân hoá các ngân hàng do chính phủ quản lý ; Cắt giảm các nguồn chi phí của tổ hợp công nghiệp ; Cắt giảm và xem xét cụ thể việc cung cấp tài chính cho các Chaebol ; Thành lập ban tư vấn cho Tổng thống về cải cách tài chính để tìm ra những biện pháp xoá lạc hậu và kém hiệu quả của ngành taì chính ngân hàng ; Quy định câpn vốn cho các dự án lớn ; Chuyển hệ thống ngân hàng cấp vốn thương mại và công ty đầu tư uỷ thác thành ngân hàng kinh doanh và các công ty môi giới chứng khoán ; Phân loại hệ thống ngân hàng tài chính.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc tiến hành đồng thời các biện pháp kinh tế khác như giảm bớt quy mô hoạt động và quyền hạn của các công ty. Đẩy mạnh tư nhân hoá, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trên cơ sở khai thác lợi thế cạnh tranh thông qua chính sách đầu tư kỹ thuật công nghệ tiên tiến.
Tóm lại, để thoát khỏi cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ, ngoài việc kêu gọi vốn hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế, các nước trong khu vực đều đưa ra một chương trình tổng thể cải cách hệ thống tài chính trong nước. Cụ thể là: thực hiện chính sách thắt chặt tài chính ; xốc lại hệ thống ngân hàng ; nâng cao hiệu quả và tạo sinh lực cho các ngân hàng và công ty tài chính ; đẩy mạnh tư nhân hoá những cơ sở tài chính do nhà nước quản lý ; mở rộng hệ thống tài chính đối với nước ngoài ; tăng cường áp dụng và đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, nâng cao năng lực xuất khẩu.
Với đồng loạt những chính sách đó, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực có xu hướng dịu hơn. Từ tháng 2/1998 đến nay, các chỉ số kinh tế đã báo hiệu khả quan cho việc phục hồi giá trị đồng tiền của cả ba nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là Thái lan, Hàn Quốc và Indonesia. Tỷ giá đồng tiền của ba nước so với USD vào thời điểm này lần lượt là 45,5 Baht, 1.557 Won, 7.400 Rupiah, cao hơn nhiều so với tháng 1/1998. Đồng tiền các nước trong khu vực cũng phục hồi phần nào. Người ta hy vọng rằng, cứ tiếp tục xu hướng này ba đồng tiền trên sẽ tăng gía trị và đạt mức 40 Baht/USD, 5.000 Rupiah/USD và 1.000 Won/USD. Chỉ số thị trường chứng khoán tăng đã bước đầu “ cải thiện “ được “ tình cảm “ của các nhà đầu tư. Đặc biệt ở Hàn Quốc, Inđonesi và Thái lan.
II/ Đối với Việt Nam
Thực tế phân tích trên đây đặt ra cho chúng ta một loạt vấn đề phải giải quyết, nếu không đến một lúc nào đó quả bóng ngày nay đang căng lên rất có thể sẽ xẹp dần hoặc nổ tung. Những vấn đề đặt ra cho chúng ta vừa có tính cấp bách (hạn chế sự tác động tiêu cực của khủng hoảng tiền tệ), vừa có tính lâu dài : đảm bảo sự phát triển bền vững của một đất nước trong suốt quá trình công nghiệp hóa đến năm 2020 (giai đoạn đầu) và tiếp đó vào khoảng 20- 30 năm cho đến khi Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển (giai đoạn hai). Cụ thể như sau :
1/Trước tiên ,cần chủ động xúc tiến đến các đối sách cần thiết mà cụ thể là : hướng tới đổi mới toàn diện, đồng bộ và nhanh hơn, trước hết là về mặt chính sách và luật pháp.
Những điều chỉnh chính sách và pháp luật mà chúng ta cần làm ngay, làm nhanh là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương mại, thu hút vốn đầu tư và vốn nước ngoài, khu vực doanh nghiệp nhất là DNNN. Phải đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, có hệ thống và có thể dự báo trước được, ngày càng tiếp cận các chuẩn mực và thông lệ khu vực và thế giới trong quá trình thay đổi chính sách. Xúc tiến mạnh chiến lược và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực : lực lượng lao động trực tiếp, các doanh nhân, các nhà quản lý và công chức nhà nước, các nhà hoạch định chính sách.
2/ Thực hiện đồng bộ các giải pháp cải cách cơ cấu, nhằm thành lập và lành mạnh hoá các cân đối cơ cấu lớn : cơ cấu xuất nhập khẩu, tích luỹ- tiêu dùng, cơ cấu công nghệ- lao động, cơ cấu doanh nghiệp, cơ cấu nợ...
* Chính sách tỷ giá hối đoái : Thời gian đầu của cuộc khủng hoảng mặc dù đồng Việt Nam đã mất giá, song tỷ giá hối đoái vẫn cố định ở mức 11.060VND/USD [E], nếu chính phủ vẫn cố định tỷ giá như vậy tất yếu sẽ tác động hết sức xấu đến toàn bộ nền kinh tế Việt Nam bởi thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam đã và đang mất ổn định. Do vậy, nhà nước chủ trương đIều chỉnh lại tỷ giá hối đoáI cho linh hoạt bằng cách nới lỏng biên độ dao động của nó.
Trước chính sách nới lỏng biên độ dao động của tỷ giá, tốc độ mất giá đồng Việt Nam tăng lên rất cao và có nguy cơ bị phá giá. Theo các nhà phân tích đồng Việt Nam có thể mất giá tối thiểu là 20 % ; cao nhất là 80%, tuy nhiên đến cuối tháng 12/ 1998 tỷ giá E của VND so với USD mới đạt mức 14.600. Với thực trạng như vậy, một mặt vẫn phải duy trì biên độ dao động của tỷ giá, một mặt cần tiến hành các biện pháp quản lý ngoại tệ tránh tình trạng đô la hoá nền kinh tế Việt Nam.
Về mặt lý thuyết, để đIều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể sử dụng bốn phương pháp khác nhau :
Phương pháp lãi suất chiết khấu
Sử dụng quỹ bình ổn tỷ giá
Nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối
Phá giá đồng bản tệ.
Song với đặc điểm nền kinh tế Việt Nam- nền kinh tế kém phát triển- trong trường hợp này chính phủ đã sử dụng hiệu quả quỹ bình ổn tỷ giá bằng cách tung ra thị trường một lượng lớn USD đồng thời kiểm soát chặt chẽ lượng USD trôi nổi trên thị trường. Cụ thể là :
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu : Nhà nước quy định lượng ngoại tệ tối đa cần thiết (chủ yếu là USD) cho việc thanh toán ; Lượng ngoạI tệ còn lạI- do dư thừa, tích trữ từ trước khủng hoảng phải bán hêt cho ngân hàng.
Với doanh nghiệp xuất khẩu : Lượng ngoại tệ thu về phảI chuyển thành VND thông qua ngân hàng đồng thời quy định tỷ lệ giữ lại lượng ngoại tệ thu về. Nghiêm cấm mở tài khoản bằng ngoạI tệ ; mọi giao dịch trong nước đều sử dụng đồng nội tệ.
Với dân cư ; nhà nước chủ trương đIều chỉnh mức lãi suất hấp dẫn để thu hút ngoại tệ thông qua hình thức giữ tiền. Bên cạnh đó nghiêm cấm buôn bán ngoại tệ ; phạt nặng đối với bất kỳ hình thức buôn bán ngoại tệ nào nhất là đầu cơ.
*Đi đôi với điều chỉnh tỷ giá, cần nỗ lực tối đa để giảm bớt sự mất cân đối tiến tới cân bằng, rồi có số dư trong cán cân thanh toán và cán cân ngoại thương. Để đạt được mục đích này, cần thực hiện một chính sách tạo nguồn thu và hạn chế nguồn chi, tránh tình trạng tận thu có hại, cần muốn nhấn mạnh tới khía cạnh thúc đẩy kinh doanh phát triển, nhất là kinh doanh tư nhân. Khắc phục tư duy cũ cái gì cũng muốn kiểm soát, như “kiểm soát hoạt động kinh doanh “, “kiểm soát đầu tư nước ngoài “.. chúng ta cần chuyển sang một tư duy mới là tạo điều kiện thuận lợi cho dân.
Về chi tiêu, một chính sách thắt lưng buộc bụng là cần thiết, trước hết cần cắt bớt những khoản bao cấp phi lý và các khoản chi tiêu xa xỉ, nhất là chi tiêu cao cấp cho những doanh nghiệp làm ăn kinh tế mà liên tục thua lỗ và những trang thiết bị đắt tiền cho những đơn vị kinh doanh làm ăn kém hiệu quả.
*Cần giải quyết nhanh chóng các vấn đề nợ, trước mắt là nợ trong nước và trong các năm tới là nợ nước ngoài. Đây là một yếu tố nghiêm trọng đã dẫn tới khủng hoảng ở các nước trong khu vực và cũng là yếu tố nghiêm trọng ở nước ta. Nếu vì sợ đau không cắt bỏ những xí nghiệp quốc doanh nặng nợ hiện nay, thì trong tương lai những ung nhọt đó sẽ còn trầm trọng hơn nữa, không những đau, mà còn có thể đe dọa cả sinh mệnh của nền kinh tế và chính trị, thậm chí đến vốn kinh doanh của các xí nghiệp và dự trữ quốc gia được coi là “ tiền của người khác” chứ không phảI tiền của chính mình trong tình trạng hiện nay ở những nước đang bị khủng hoảng ở châu á.
*Nâng cao năng lực và hiệu quả ngoại thương. Xuất khẩu của ta trong thời kỳ 1990- 1996 có xu hướng phát triển tốt, đã tạo được hơn một chục mặt hàng có giá trị xuất khẩu mỗi mặt hàng trên 100 triệu USD. Từ 1997, xuất khẩu có xu hướng giảm, có nguyên nhân từ những chính sách trước đây thích hợp, nay đã bất cập, cần sửa đổi ; có nguyên nhân do cuộc khủng hoảng tài chính, đồng tiền các nước có hàng hoá cạnh tranh với ta hạ, làm cho giá cả một số mặt hàng xuất khẩu của ta cũng hạ theo tới 20- 30%, riêng giá dầu lửa thế giới giảm tới trên 7 USD/1 thùng…
Trong bối cảnh như vậy, một mặt cần có các chính sách kích thích xuất khẩu thông qua thuế, lãi tức, tín dụng, sử dụng ngoại tệ ( quyết định kiểm soát ngoại tệ như vừa rồi chỉ đạt mục đích tình thế trước mắt, lâu dài sẽ có hại cho xuất nhập khẩu), mặt khác cần tăng cường đầu tư cho các mặt hàng chủ lực và những mặt hàng khác đã tỏ rõ hiệu quả trên thị trường xuất khẩu.
Việc xuất khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng trong nước thay thế nhập khẩu cũng được xếp vào diện ưu tiên. Hạn chế nhập hàng nguyên chiếc và hàng có thể cạnh tranh làm hại cho hàng sản xuất tại trong nước.
Cần nhanh chóng ký hiệp định thương mại với Mỹ và thực hiện dần chính sách tự do hoá thương mại để tăng cường liên kết khu vực và quốc tế (tham gia AFTA, APEC, WTO).
*Hoà nhập nhiều hơn vào kinh tế khu vực và thế giới : Quá trình tự do hoá tài chính cần được định hình cụ thể và thúc đẩy nhanh hơn, chủ động hơn, đồng bộ hơn. Chuẩn bị tích cực hơn, sớm hơn về thể chế và các nghiệp vụ kỹ thuật phục vụ sử dụng bản tệ chi thanh toán các giao dịch nội bộ ASEAN, cho việc hình thành AIA (khu vực đầu tư ASEAN) cũng như cho việc đẩy nhanh tiến trình AFTA và sự tham gia vào APEC trong tương lai. Cần tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi với các ưu đãi giành cho đầu tư nước ngoài không thua kém trình độ khu vực. Cùng với nó tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại và hạn chế nhập hàng tiêu dùng xa xỉ hoặc trong nước có thể sản xuất được. Tham dự tích cực vào cơ chế giám sát khu vực ASEAN.
* Cải tổ cơ cấu đầu tư theo hướng phát huy lợi thế so sánh, khắc phục những tư duy còn rớt lại từ thời công nghiệp hoá lấy công nghiệp nặng làm then chốt và lấy xí nghiệp “quy mô lớn “ theo kiểu sáp nhập hành chính làm nòng cốt. Tạo đIều kiện thuận lợi hơn nữa cho FDI để tăng cường thu hút FDI mới và ngăn chặn FDI cũ bỏ đi. Có ý kiến cho rằng năm 1997 FDI mới đăng ký vào Việt Nam giảm 40%, năm 1998 có thể sẽ giảm tới 70%.
Cần tiếp tục và tăng cường qúa trình đổi mới hơn nữa theo hướng kinh tế thị trường có sự đIều tiết của Nhà nước, chú ý hơn tới chính sách tự do hoá và mở cửa nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam và nền kinh tế Việt Nam, nâng cao năng suất lao động, tăng cường liên kết quốc tế và khu vực, xây dựng một hệ thống thể chế và cơ cấu bảo đảm sự phát triển vừa ổn định trước mắt vừa năng động và bền vững lâu dài. Trong số những biện pháp thực tiễn, cần tăng cường hệ thống luật pháp và điều hành, cải cách mạnh hơn hệ thống tài chính ngân hàng, ưu tiên cho xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển các ngành đã tỏ rõ hiệu quả và các ngành mà ta có lợi thế, nhất là các ngành xuất khẩu, dùng nhiều lao động, các ngành chế biến nông sản, hải sản và khoáng sản, một số ngành mũi nhọn như viễn thông và tin học, cắt giảm bớt các ngành nặng, quy mô lớn, kém hiệu quả và chậm thu hồi vốn.
* Lành mạnh hóa khu vực tài chính ngân hàng : Tập trung chỉ đạo đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ của các doanh nghiệp, các ngành, các khu vực. Sớm hoàn thiện luật pháp và xử lý kiên quyết hơn tình trạng nợ khó đòi cả trong khu vực kinh doanh lẫn trong đời sống để lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế và quan hệ dân sự, xã hội ; Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, đề cao kỷ luật tài chính, thực hiện nghiêm túc các chế độ kế toán thống kê, kiểm toán, công khai hoá tài chính trong nền kinh tế. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, kiên quyết và đẩy lên một bước các hoạt động chống tham nhũng, hoàn thiện cơ chế giám sát an toàn kinh tế, tài chính trong nước ; Tăng cường công tác dự trữ, chống lại hiện tượng đầu cơ, gian lận thương mại, gian lận hành chính ; Quản lý có hiệu quả và thống nhất các nguồn ngoại tệ trên thị trường Việt Nam ; Cần sớm phát hiện và cho đóng cửa các tổ chức tín dụng,các ngân hàng “ có vấn đề “ tài chính, nhất là khối ngân hàng cổ phần. Xúc tiến lạI các ngân hàng yếu kém ; Giảm bớt các bảo lãnh dễ dãi của các ngân hàng nhà nước dành cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng yếu kém nhằm ngăn chặn những tổn thất tài chính to lớn có thể xảy ra ; Đề cao và cải thiện công tác thông tin, tư vấn phục vụ các hoạt động kinh doanh lẫn các hoạt động quản lý nhà nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0614.doc