MỤC LỤC
I. TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ . 5
I.1. TÀI NGUYÊN NƯỚC CỦA TRÁI ĐẤT 5
I.2. VAI TRÒ CỦA NƯỚC . 6
1. Vai trò của nước với sức khỏe con người . 6
2. Vai trò của nước đối với con người trong nền kinh tế quốc dân . 7
II. Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC . 7
II.1. KHÁI NIỆM Ô NHIỄM NƯỚC 7
II.2. NGUỒN GỐC, CÁC TÁC NHÂN GÂY Ô NHIỄM NƯỚC . 8
1. Nguồn gốc . 8
a) Ô nhiễm tự nhiên: 8
b) Ô nhiễm nhân tạo 8
i. Từ sinh hoạt: 8
ii. Từ các hoạt động công nghiệp: . 10
iii. Từ y tế: 12
iv. Từ hoạt động sản xuất nông, ngư nghiệp: 13
2. Các tác nhân gây ô nhiễm nước: . 14
a) Các ion vô cơ hòa tan: . 14
i. Các chất dinh dưỡng (N, P) . 14
ii. Sulfat (SO4
iii. Clorua (Cl
iv. Các kim loại nặng: . 15
b) Các chất hữu cơ . 17
i. Các chất hữu cơ dễ bị phân huỷ sinh học (các chất tiêu thụ oxi) . 17
ii. Các chất hữu cơ bền vững . 17
d) Các chất có màu . 19
e) Các chất gây mùi vị 19
f) Các vi sinh vật gây bệnh 20
i. Vi khuẩn: 20
ii. Vi rút . 20
iii. Động vật đơn bào . 20
iv. Giun sán 20
v. Các sinh vật chỉ thị cho sinh vật gây bệnh 21
II.3. PHÂN LOẠI NƯỚC Ô NHIỄM 22
1. Ô nhiễm sinh học: 22
2. Ô nhiễm hóa học do chất vô cơ: 22
3. Ô nhiễm do chất hữu cơ tổng hợp: . 23
a) Hydrocarbons (CxHy
b) Chất tẩy rữa: bột giặt tổng hợp và xà bông 24
c) Nông dược (Pesticides) 24
4. Ô nhiễm vật lý: . 25
II.4. TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM NƯỚC . 25
1. Tình trạng ô nhiễm nước trên thế giới 25
2. Tình trạng ô nhiễm nước ở nước ta 27
a) Ở thành thị và các khu sản xuất: 27
b) Ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp: 29
c) Hiện trạng ô nhiễm nước ở một số sông lớn ở nước ta: 29
i. Lưu vực sông Cầu 30
ii. Lưu vực sông Nhuệ 31
iii. Lưu vực sông Ðồng Nai và sông Sài Gòn . 31
iv. Lưu vực sông Tiền Giang và Hậu Giang 32
III.1. ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG . 34
1. Nước và sinh vật nước: 34
a) Nước . 34
b) Sinh vật nước: 34
2. Đất và sinh vật đất: . 36
a) Đất . 36
b) Sinh vật đất . 36
3. Không khí: 36
III.2. ẢNH HƯỚNG ĐẾN CON NGƯỜI . 37
1. Sức khỏe con người: 37
a) Do kim loại trong nước: 37
i. Trong nước nhiễm chì . 37
ii. Trong nước nhiễm thủy ngân 38
iii. Trong nước nhiễm Asen 41
iv. Nước nhiễm Crom: . 42
v. Nước nhiễm Mangan . 43
vi. Bệnh do nồng độ nitrat cao trong nước. . 43
b) Các hợp chất hữu cơ: . 44
c) Vi khuẩn trong nước thải: . 45
i. Bệnh đường ruột: . 46
ii. Các bệnh do kí sinh trùng, vi khuẩn, viruts và nấm mốc: . 46
iii. Các bệnh do trung gian: 47
2. Ảnh hưởng đến đời sống: 48
a) Sinh hoạt thường ngày: . 48
b) Hoạt động sản xuất: . 49
LỜI NÓI ĐẦU
Nước - nguồn tài nguyên vô cùng quý giá nhưng không phải vô tận. Mặc dù
lượng nước chiếm hơn 97% bề mặt trái đất nhưng lượng nước có thể dùng cho sinh
hoạt và sản xuất rất ít, chỉ chiếm khoảng 3%. Nhưng hiện nay nguồn nước này đang
bị ô nhiễm trầm trọng do nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chính là do hoạt động
sản xuất và ý thức của con người.
Việc khan hiếm nguồn nước ngọt đã và đang gây ra hậu quả hết sức nghiêm
trọng đến môi trường, hệ sinh thái, các loài sinh vật, trong đó có con người ,tiềm ẩn
nguy cơ chiến tranh .Do vậy đề tài “ô nhiễm nguồn nước và hậu quả” với mục
tiêu giới thiệu sơ lược về hiện trạng ô nhiễm nước ở trên thế giới và ở nước ta, cũng
như hậu quả mà nó gây ra. Từ đó đề ra biện pháp giải quyết, kêu gọi mọi người
chung tay bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này, cũng chính là bảo vệ chúng ta và
thế hệ mai sau.
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2556 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ô nhiễm nước và hậu quả của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
M 6 Trang 29 /52
b) Ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp:
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp,
hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ
tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được xử lý
nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt
hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500-
3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới 3800-
12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu.
Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các
nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường
nước và sức khoẻ nhân dân.
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi
trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ
ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động
tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách các
loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ,
lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một
số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất
hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam.
c) Hiện trạng ô nhiễm nước ở một số sông lớn ở nước ta:
Sau gần 20 năm mở cửa và đẩy mạnh kinh tế với hơn 64 khu chế xuất và khu
công nghiệp, cộng thêm hàng trăm ngàn cơ sở hóa chất và chế biến trên toàn quốc.
Vấn đề chất thải là một vấn đề nan giải đối với những quốc gia còn đang phát triển,
và chất thải lỏng trong trường hợp Việt Nam đã trở thành một vấn nạn lớn cho quốc
gia hiện tại vì chúng đã được thải hồi thẳng vào các dòng sông mà không qua xử lý.
Qua thời gian, nguy cơ ô nhiễm ngày càng tăng dần, và cho đến hôm nay, có thể nói
rằng tình trạng ô nhiễm trên những dòng sông ở Việt Nam đã tăng cường độ kinh
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 30 /52
khủng và không còn phương cách nào cứu chữa được nữa.
Qua báo chí và truyền thanh ở VN từ hơn hai năm qua, tin tức ô nhiễm
nguồn nước ở hầu hết sông ngòi VN, đặc biệt ở những nơi có phát triển trọng điểm.
Nhiều dòng sông trước kia là nơi giặt giũ tắm rữa, và nước sông được xử dụng như
nước sinh hoạt gia đình. Nay tình trạng hoàn toàn khác hẳn. Người dân ở nhiều nơi
không thể dùng những nguồn nước sông này nữa. Những nơi được đề cập đến có
thể được chia ra từng khu vực khác nhau từ Bắc chí Nam tùy theo sự phát triển của
từng nơi một. Ðó là:
3 Lưu vực sông Cầu và các phụ lưu qua các tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hải Dương.
3 Lưu vực sông Nhuệ, sông Ðáy chảy qua các tỉnh Hòa Bình, TP Hà Nội,
Hà Tây, Hà Nam, Nam Ðịnh, và Ninh Bình.
3 Lưu vực sông Ðồng Nai, sông Sài Gòn gồm các tỉnh Lâm Ðồng, Ðắc Lắc,
Ðắc Nông, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Ðồng Nai (Biên Hòa), TP HCM,
Bà Rịa-Vũng Tàu, Ninh Thuận, và Bình Thuận.
3 Lưu vực Tiền Giang và Hậu Giang gồm các tỉnh thuộc ÐBSCL.
i. Lưu vực sông Cầu
Ðây không phải là nguy cơ ô nhiễm mà là một lưu vực đã bị ô nhiễm hoàn
toàn. Dân số sống trong lưu vực nầy chiếm khoảng 7 triệu trên một diện tích độ 10
ngàn km2. Trong lưu vực nầy, ngoài khu sản xuất công nghiệp lớn nhất Thái
Nguyên, qua việc khai thác mỏ và hóa chất, còn có trên dưới 800 cơ sở sản xuất tiểu
thủ công nghiệp và quy mô công nghiệp nhỏ như các làng nghề tập trung. Lượng
chất thải lỏng thải hồi vào lưu vực sông Cầu ước tính khoảng 40 triệu m3/năm.
Riêng khu vực Thái Nguyên thải hồi khoảng 24 triệu m3 trong đó có nhiều kim loại
độc hại như Selenium, Mangan, Chì, Thiết, Thủy Ngân và các hợp chất hữu cơ từ
các nhà máy sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật như thuốc sát trùng, thuốc trừ sâu
rầy, trừ nấm mốc v.v....
Tại tỉnh Bắc Ninh, có trên 60 làng nghề đã có từ lâu đời. Nơi đây cũng còn
có các ngành chế biến lâm sản và kỹ nghệ giấy và tái sinh giấy. Các kỹ nghệ nầy đã
phát thải nhiều hóa chất hữu cơ độc hại trong đó các chất tẩy trắng chứa chlor là
một nguy cơ ô nhiễm cao nhất. Vì trong công đoạn này phát sinh ra dioxin, mầm
móng của bệnh ung thư. Thêm nữa, trong các phụ lưu của sông Cầu, hầu hết những
thông số phân tích đều vượt qua tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến hơn 50 lần như nhu
cầu oxy hóa học (COD), lượng oxy hòa tan (DO), tổng cặn lơ lững (TSS), nitrite
(NO2).
Với những thông số ghi nhận tên đặc biệt là DO, một thông số chỉ lượng oxy
hòa tan rất thấp, nhiều khi dưới 1,0 đơn vị, có nghĩa là trong lưu vực sông Cầu
lượng tôm cá hầu như không còn hiện diện nữa.
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 31 /52
Một đoạn sông bị ô nhiễm
ii. Lưu vực sông Nhuệ
Dân số trong lưu vực nầy khoảng 10 triệu trên một diện tích 7.700 km2. Ðây
là một vùng có mật độ dân số cao trên 1.000 người/km2 và cũng là một trung tâm
kinh tế quan trọng. Do đó ngoài nước thải công nghiệp, cần phải kể thêm nước thải
sinh hoạt gia cư, tất cả đều đổ thẳng ra sông hồ. Lượng nước thải sinh hoạt được
ước tính là 140 triệu m3 theo thống kê 2004. Còn các nguồn nước thải của trên 120
cơ sở sản xuất công nghiệp ở vùng này trừ Hà Nội ước tính khoảng 120 triệu
m3/năm. Riêng tại Hà Nội, có 400 xí nghiệp và khoảng 11 ngàn cơ sở sản xuất tiểu
thủ công nghiệp thải hồi trung bình 20 triệu m3/năm. Hà Tây là nơi trọng điểm của
làng nghề chiếm 120 làng trên tổng số 286 làng nghề trong khu vực.
Hai hạ lưu có ô nhiễm trầm trọng nhất là sông Nhuệ và sông Tô Lịch với
hàm lượng DO hầu như triệt tiêu, nghĩa là không còn điều kiện để cho tôm cá sống
được, và vào mùa khô nhiều đoạn sông trên hai sông nầy chỉ là những bãi bùn nằm
trơ cùng trời đất.
iii. Lưu vực sông Ðồng Nai và sông Sài Gòn
Lưu vực này chẳng những là một vùng đông dân cư như Hà Nội, với diện
tích 14.500 km2 và dân số khoảng 17,5 triệu, và cũng là một vùng tập trung phát
triển công nghiệp lớn nhất và cũng là một vùng được đô thị hóa nhanh nhất nước.
Hàng năm sông ngòi trong lưu vực nầy tiếp nhận khoảng 40 triệu m3 nước thải công
nghiệp, không kể một số lượng không nhỏ của trên 30 ngàn cơ sở sản xuất hóa chất
rải rác trong thành phố HCM. Nước thải sinh hoạt ước tính khoảng 360 triệu m3.
Ngoài những chất thải công nghiệp như hợp chất hữu cơ, kim loại độc hại như:
đồng, chì, sắt, kẽm, thủy ngân, cadmium, mangan, các loại thuốc bảo vệ thực vật.
Nơi đây còn xảy ra hiện tượng nước sông bị acid hóa như đoạn sông từ cầu Bình
Long đến Bến Than, nhiều khi độ pH xuống đến 4,0 (độ pH trung hòa là 7,0), và
trọng điểm là sông Rạch Tra, nơi tất cả nước rỉ từ các bãi rác thành phố và hệ thống
nhà máy dệt nhuộm ở khu Tham Lương đổ vào.
Lưu vực nầy hiện đang bị khai thác quá tải, nước sông hoàn toàn bị ô nhiễm và hệ
sinh thái của vùng nầy bị tàn phá kinh khủng, và đây cũng là một yếu tố sống còn
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 32 /52
cho sự phát triển cho cả nước, chiếm 30% tổng sản lượng quốc dân.
Vào tháng 12/2005, Bộ Tài Nguyên & Môi Trường đã tổ chức hội thảo “Bảo
vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Ðồng Nai” đã nói lên tính cách quan trọng của
vấn đề. Kết luận được ghi nhận trong hội thảo nầy là có 4 khu vực bị ô nhiễm trầm
trọng. Ðó là:
1 – Ðoạn sông Ðồng Nai từ cầu Hòa An đến cầu Ðồng Nai, nơi cung cấp
nguồn nước chính cho cư dân Sài Gòn,
2 - Ðoạn từ Bình Phước đến Tân Thuận, địa phận của trên 10 khu chế xuất,
3 - Ðoạn sông Thị Vải từ nhà máy hóa chất và bột ngọt Vedan của Ðài
Loan đến cảng Phú Mỹ,
4 - Và nước sông Vàm Cỏ Ðông. Riêng sông Vàm Cỏ Ðông, nước sông
nầy đang bị acid hóa nặng. Công ty Vedan sau nhiều lần được Sở Môi Trường
Thành Phố đề nghị đóng cửa từ năm 1997, hiện nay vẫn là một đề tài nhức nhối cho
Bộ Tài Nguyên và Môi Trường . Theo chỉ thị của ông Mai Ái Trực, Bộ Trưởng, tại
đây cần phải có chuyên viên túc trực hàng ngày để theo dõi tình trạng ô nhiễm ; và
trong năm 2006, nếu công ty không giải quyết các vấn đề ô nhiễm sẽ được chế tài
bằng kỹ thuật và sẽ được đệ trình đóng cửa vĩnh viễn.
Hiện nay, lưu vực sông Ðồng Nai có 39 khu chế xuất, khu công nghiệp; và
số lượng nầy sẽ tăng lên 74 đến năm 2010 theo kế hoạch đã soạn thảo xong. Do đó
tình trạng ô nhiễm trong những năm sắp đến sẽ trở nên câu chuyện hàng ngày của
lưu vực nầy.
iv. Lưu vực sông Tiền Giang và Hậu Giang
Ðây là một vùng hết sức đặc biệt và cũng là một lưu vực lớn nhất và đông
dân nhất với diện tích 39 ngàn Km2 và gần 30 triệu cư dân. Phát triển kinh tế nơi
đây đặt trọng tâm là nông nghiệp và chăn nuôi thủy sản. Vì đây không phải là một
trọng điểm công nghiệp cho nên những vấn nạn môi trường không giống như tình
trạng của 3 lưu vực vừa kể trên. Nhưng việc khai thác nông nghiệp và thủy sản đã
trở thành một vấn đề cần phải lưu tâm trong hiện tại.
Việc ô nhiễm hóa chất do dư lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật là kết
quả của việc khai thác tối đa nguồn đất cho nông nghiệp. Ðã có nhiều chỉ dấu cho
thấy các hóa chất độc hại như DDT, Nitrate, hóa chất BVTV thuộc nhóm organo-
phosphate, nguyên nhân của những mầm bệnh ung thư đã hiện diện trong nước.
Thêm nữa, viễn ảnh nguồn nước ở lưu vực nầy bị ô nhiễm arsenic do việc đào trên
300 ngàn giếng để dùng cho sinh hoạt và tưới tiêu cũng sẽ là một quốc nạn trong
tương lai không xa. Thêm nữa, việc khai thác chăn nuôi thủy sản trên sông, ngoài
việc làm cản trở dòng chảy của sông, việc di chuyển trên sông sẽ khó khăn thêm,
mà còn là một vấn nạn môi trường không thể tránh khỏi. Từ thượng nguồn Châu
Ðốc, An Giang, cho đến tận Mỹ Tho, cá bè trong mùa cá vừa qua bị chết hàng loạt
do nguồn nước ô nhiễm từ thượng nguồn do cá chết lây lan xuống hạ lưu. Kết quả
là trên 40% lượng tôm cá bị thất thoát trong mùa vừa qua (VN trong gian đoạn nầy
phải nhập cảng tôm sú và cá basa của Trung Quốc và Mã Lai để thanh toán hợp
đồng còn đang tồn động với các nước khác).
Ngoài ra, do việc tận dụng nguồn nước cho tưới tiêu, việc khai mở đê điều
không hợp lý đã khiến cho ÐBSCL phải đối mặt với vấn đề ngập mặn do nạn hạn
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 33 /52
hán kéo dài trong khi hệ sinh thái có nguy cơ bị hủy diệt do ô nhiễm. Năm 2005 vừa
qua, nước mặn đã vào sâu trên 120 Km trong đất liền làm tăng khả năng bị hoang
hóa của đất trong vùng nầy.
Phát triển kinh tế không đi đôi với việc bảo vệ môi trường, kết quả tất nhiên
là tình trạng môi trường ngày càng xuống cấp và cường độ ô nhiễm ngày càng tăng
thêm mà thôi. Tình trạng cho đến ngày hôm nay có thể nói là đã đến giai đoạn gần
như bế tắc. Bộ Trưởng Tài Nguyên và Môi Trường cũng đã kêu gọi địa phương cứu
lấy các con sông trước khi quá muộn, đừng để như trường hợp của sông Ðáy và
sông Tô Lịch. Tương lai là những dòng sông VN sẽ trở nên những dòng sông chết
cũng như việc phát triển sẽ bị ảnh hưởng vì môi trường không thể chấp nhận thêm
nguồn nước thải thêm nữa. Khả năng VN không còn nhiều thời gian để giải quyết
vấn đề nếu không nói là đã muộn rồi. Những việc cấp bách cần làm để có thể cứu
vãn tình hình cần được khẩn trương triển khai.
Một khúc sông ô
nhiễm trầm trọng
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 34 /52
III.HẬU QUẢ Ô NHIỄM NƯỚC
III.1. ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔI TRƯỜNG
1. Nước và sinh vật nước:
a) Nước
3 Nước ngầm: Ngoài việc các cặn lơ lửng trong nước mặt, các chất thải
nặng lắng xuống đáy sông, sau khi phân huỷ, 1 phần lượng chất được các sinh vật
tiêu thụ, 1 phần thấm xuống mạch nước bên dưới (nước ngầm) qua đất, làm biến đổi
tính chất của loại nước này theo chiều hướng xấu (do các chất chứa nhiều chất hữu
cơ, kim loại nặng…),bên cạnh đó, việc khai thác nước ngầm bừa bãi và người dân
xây dựng các loại hầm chứa chất thải cũng góp phần làm suy giảm chất lượng nước
ngầm, làm cho lượng nước ngầm vốn đã khan hiếm, nay càng hiếm hơn nữa.
3 Nước mặt: Do nhiều nguyên nhân khác nhau, gây ra sự mất cân bằng giữa
lượng chất thải ra môi trường nước (rác thải sinh hoạt, các chất hữu cơ,…) và các
sinh vật tiêu thụ lượng chất thải này (vi sinh vật, tảo,…) làm cho các chất hữu cơ,
chất rắn lơ lửng,… không được phân huỷ, vẫn còn lưu lại trong nước với khối lượng
lớn, dẫn đến việc nước dần mất đi sự tinh khiết ban đầu, làm chất lượng nguồn
nước bị suy giảm nghiêm trọng.
b) Sinh vật nước:
Ô nhiễm nước ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh vật nước, đặc biệt là vùng
sông, do nước chịu tác động của ô nhiễm nhiều nhất. Nhiều loài thuỷ sinh do hấp
thụ các chất độc trong nước, thời gian lâu ngày gây biến đổi trong cơ thể nhiều loài
thuỷ sinh, một số trường hợp gây đột biến gen, tạo nhiều loài mới, một số trường
hợp làm cho nhiều loài thuỷ sinh chết.
Trong 4 ngày liên tiếp (từ 18 - 21.10), tôm, cá chết hàng loạt tại kinh Giữa
Nhỏ (ấp Đầm Cùng, xã Trần Thới, huyện Cái Nước, Cà Mau), cạnh Xí nghiệp chế
biến thuỷ sản Nam Long thuộc Công ty cổ phần xuất khẩu thuỷ sản Cái Đôi Vàm
(Cadovimex). Nước trong kinh đen ngòm và mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Đi đến
đầu kinh cạnh Xí nghiệp chế biến thuỷ sản Nam Long thì thấy nước thải trong bãi
rác sinh hoạt của xí nghiệp này đang tràn xuống kinh. Xác cá chết trên kinh Giữa
Nhỏ, huyện Cái Nước (tỉnh Cà Mau). Đây là con kinh chạy dài gần 4 km, nối từ bãi
rác của Xí nghiệp chế biến thuỷ sản Nam Long với sông Cái Nước - Đầm Cùng, có
hàng trăm hộ dân lấy nước từ dòng kinh này để nuôi cá, tôm.
Đại dương tuy chiếm ¾ diện tích trái đất, nhưng cũng không thể không chịu
tác động bởi việc nước bị ô nhiễm, mà một phần sự ô nhiễm nước đại dương là do
các hoạt động của con người như việc khai thác dầu, rác thải từ người đi biển,…
gây ảnh hưởng không nhỏ đến đại dương và các sinh vật đại dương, làm xuất hiện
nhiều hiện tượng lạ, đồng thời làm cho nhiều loài sinh vật biển không có nơi sống,
một số vùng có nhiều loài sinh vật biển chết hàng loạt, ,…
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 35 /52
Hiện tượng thủy triều đen: Tình trạng chất lượng nước hồ giảm đột ngột
nghiêm trọng và tình trạng cá chết hàng loạt trong nhiều ngày kể từ thập niên 1970.
Hiện tượng này được các nhà khoa học gọi tên là “thủy triều đen”. Phân tích các
mẫu nước hồ lấy từ nhiều nước trên thế giới cho thấy hiện tượng “thủy triều đen”
thường xảy trong hồ nước vào mùa thu. Khi đó, chất hữu cơ dưới đáy hồ bắt đầu
phân hủy dưới tác dụng của các vi sinh vật, làm thiếu ôxy dưới đáy hồ, giảm hàm
lượng pH và tăng nồng độ các gốc axít kali nitrat. Chu kỳ này làm tăng tình trạng
thiếu ôxy trong nước và lây lan hợp chất sunfua, biến nước hồ có màu đen và mùi
hôi. Trong quá trình thay đổi chất lượng nước, các hoạt động của con người như
thải chất thải công nghiệp và sinh hoạt vào hồ cũng có thể tạo ra “thủy triều”.
Thủy triều đỏ: Sự phát triển quá mức của nền công nghiệp hiện đại đã kéo
theo những hậu quả nặng nề về môi trường, làm thay đổi hệ sinh thái biển. Mặt
khác, sự ô nhiễm nước biển do các chế phẩm phục vụ nuôi tôm, dư lượng các loại
thuốc kích thích, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật... góp phần làm tăng vọt tần
suất xuất hiện thuỷ triều đỏ ở nhiều nơi trên thế giới và ở Việt Nam. Không chỉ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế biển, thuỷ triều đỏ còn làm mất cân bằng sinh
thái biển, ô nhiễm môi trường biển.
Khi gặp những môi trường thuận lợi như điều kiện nhiệt độ, sự ưu dưỡng của
vực nước... các loài vi tảo phát triển theo kiểu bùng nổ số lượng tế bào, làm thay đổi
hẳn màu nước. Các nhà khoa học gọi đó là sự nở hoa của tảo hay “thuỷ triều đỏ”.
Thuỷ triều đỏ phá vỡ sự cân bằng sinh thái biển, gây hại trực tiếp đối với sinh vật và
con người. Một số loài vi tảo sản sinh ra độc tố. Vì vậy, con người có thể bị ngộ độc
do ăn phải những sinh vật bị nhiễm độc tố vi tảo.
Thuỷ triều đỏ là tập hợp của một số lượng cực lớn loài tảo độc có tên
gọi Alexandrium fundyense. Loài tảo này có chứa loại độc tố saxintoxin, đã giết
chết 14 con cá voi trên vùng biển Atlantic, vào năm 1987.
Hình ảnh :Thủy triều đỏ ở Cape Rodney, New Zealand
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 36 /52
2. Đất và sinh vật đất:
a) Đất
Nước bị ô nhiễm mang nhiều chất vô cơ và hữu cơ thấm vào đất gây ô nhiễm
nghiêm trọng cho đất.
Nước ô nhiễm thấm vào đất làm :
3 Liên kết giữa các hạt keo đất bị bẻ gãy, cấu trúc đất bị phá vỡ.
3 Thay đổi đặc tính lý học, hóa học của đất.
3 Vai trò đệm, tính oxy hóa, tính dẫn điện, dẫn nhiệt của môi trường đất
thay đổi mạnh.
3 Thành phần chất hữu cơ giảm nhanh làm khả năng giữ nước và thoát
nước của đất bị thay đổi.
Một số chất hay ion có trong nước thải ảnh hưởng đến đất :
3 Quá trình oxy hóa các ion Fe2+ và Mn2+ có nồng độ cao tạo thành các axit
không tan Fe2O3 và MnO2 gây ra hiện tượng “nước phèn” dẫn đến đóng thành váng
trên mặt đất (đóng phèn)
3 Canxi, magie và các ion kim loại khác trong đất bị nước chứa axit
cacbonic rửa trôi thì đất sẽ bị chua hóa
b) Sinh vật đất
Khi các chất ô nhiễm từ nước thấm vào đất không những gây ảnh hưởng đến
đất mà còn ảnh hưởng đến cả các sinh vật đang sinh sống trong đất.
3 Các ion Fe2+ và Mn2+ ở nồng độ cao là các chất độc hại với thực vật.
3 Cu trong nguồn nước ô nhiễm từ các khu công nghiệp thải ra thấm vào
đất không độc lắm đối với động vật nhưng độc đối với cây cối ở nồng độ trung bình.
3 Các chất ô nhiễm làm giảm quá trình hoạt động phân hủy chất của một số
vi sinh vật trong đất
3 Là nguyên nhân làm cho nhiều cây cối còi cọc, khả năng chống chịu kém,
không phát triển được hoặc có thể bị thối gốc mà chết
Có nhiều loại chất độc bền vững khó bị phân hủy có khả năng xâm nhập tích
lũy trong cơ thể sinh vật. Khi vào cơ thể sinh vật chất độc cũng có thể phải cần thời
gian để tích lũy đến lúc đạt mức nồng độ gây độc.
3. Không khí:
Ô nhiễm môi trường nước không chỉ ảnh hưởng đến con người, đất, nước mà
còn ảnh hưởng đến không khí. Các hợp chất hữu cơ, vô cơ độc hại trong nước thải
thông qua vòng tuần hoàn nước, theo hơi nước vào không khí làm cho mật độ bụi
bẩn trong không khí tăng lên. Không những vậy, các hơi nước này còn là giá bám
cho các vi sinh vật và các loại khí bẩn công nghiệp độc hại khác.
Một số chất khí được hình thành do quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ
trong nước thải như SO2, CO2, CO,… ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường khí
quyển và con người, gây ra các căn bệnh liên quan đến đường hô hấp như: niêm
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 37 /52
mạc đường hô hấp trên, viêm phổi, viêm phế quản mãn tính, gây bẹnh tim mạch,
tăng mẫn cảm ở những người mắc bệnh hen,…
Hình ảnh : thủy triều đỏ ở Cape Rodney, New Zealand
III.2. ẢNH HƯỚNG ĐẾN CON NGƯỜI
1. Sức khỏe con người:
a) Do kim loại trong nước:
Các kim loại nặng có trong nước là cần thiết cho sinh vật và con người vì
chúng là những nguyên tố vi lượng mà sinh vật cần tuy nhiên với hàm lượng cao nó
lại là nguyên nhân gây độc cho con người, gây ra nhiều bệnh hiểm nghèo như ung
thư, đột biến. Đặc biệt đau lòng hơn là nó là nguyên nhân gây nên những làng ung
thư.
Các ion kim loại được phát hiện là hợp chất kìm hãm ezyme mạnh. Chúng
tác dụng lên phôi tử như nhóm –SCH3 và SH trong methionin và xystein.
Sau đây là một số kim loại có nhiều ảnh hưởng nhiêm trọng nhất
i. Trong nước nhiễm chì
Chì có tính độc cao đối với con người và động vật. Sự thâm nhiễm chì vào
cơ thể con người từ rất sớm từ tuần thứ 20 của thai kì và tiếp diễn suốt kì mang thai.
Trẻ em có mức hấp thụ chì cao gấp 3-4 lần người lớn. Mặt khác thời gian bán sinh
học chì của trẻ em cũng dài hơn của người lớn. Chì tích đọng ở xương . Trẻ em từ 6
tuổi trở xuống và phụ nữ có thai là những đối tượng mẫn cảm với những ảnh hưởng
nguy hại của chì gây ra.
Chì cũng cản trở chuyển hóa canxi bằng cách trực tiếp hay gián tiếp thông
qua kìm hãm sự chuyển hóa vitamin D. Chì gây độc cả cơ quan thần kinh trung
ương lẫn thần kinh ngoại biên.
Chì tác động lên hệ enzyme, đặc biệt là enzyme vận chuyển hiđro. Khi bị
nhiễm độc, người bệnh bị một số rối loạn cơ thể, trong đó chủ yếu là rối loạn bộ
phận tạo huyết (tủy xương) . Tùy theo mức độ nhiễm độc có thể gây ra những tai
biến như đau bụng chì, đường viền đen Burton ở lợi, đau khớp, viêm thận, cao
huyết áp vĩnh viễn, liệt, tai biến lão nếu nặng có thể gây tử vong. Tác dụng hóa sinh
của chì chủ yếu gây ảnh hưởng đến tổng hợp máu, phá vỡ hồng cầu. Chì ức chế một
số enzyme quan trọng trong quá trình tổng hợp máu do tích đọng các hợp chất trung
gian của quá trình trao đổi chất. Chì kìm hãm quá trình sử dụng O2 và glucozo để
sản xuất năng lượng cho quá trình sống. Sự kìm hãm này có thể nhận thấy khi nồng
độ chì trong máu khoảng 0,3mg/l. Khi nồng độ chì trong máu lớn hơn 0,8mg/l có
thể gây ra hiện tượng thiếu máu do thiếu hemoglobin. Nếu hàm lượng chì trong
máu khoảng 0,5-0,8mg/l sẽ gây rối loạn chức năng của thận và phá hủy não. JECFA
đã thiết lập giá tri tạm thời cho lượng chì đưa vào cơ thể có thể chịu đựng được đối
với trẻ sơ sinh và thiếu nhi là 25mg/kg thể trọng.
Hơn 90% lượng chì trong máu tồn tại trong hồng cầu. Dạng lớn nhất và tốc
độ chậm là trong khung xương, chu kì bán hủy là 20năm, dạng không bền hơn nằm
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 38 /52
trong mô mềm. Tổng số tích lũy suốt đời của chì có thể từ 200mg-500mg. Chì
trong hệ thần kinh trung ương có xu hướng tích lũy trong đại não và nhân tế bào.
Triệu chứng ngộ độc chì gồm: đau bụng trên, táo bón, nôn mửa. Ở trên lợi
của bệnh nhân, ngưới ta nhận thấy một đường xanh đen do chì sufua đọng lại.
Chứng viêm não tuy rất hiếm nhưng lại là biến chứng nghiêm trọng ở người trong
trường hợp nhiễm độc chì, trường hợp cũng thường hay gặp ở trẻ em.
Bệnh thiếu máu: thiếu máu thường xuyên xảy ra trong trường hợp nhiễm độc
chì vô cơ và thường xảy ra trong giai đoạn cuối, nhưng ngay khi nhiễm độc chì,
người ta đã phát hiện rối lọan tổ hợp máu.
Sự kìm hãm tổ hợp máu là yếu tố gây ra bệnh thiếu máu do chì nhưng chì
cũng tạo ra những tác động trực tiếp đến hồng cầu. Tính thấm hút của màng bị thay
đổi tùy thuộc vào lượng kali bị mất và thời kì bán phân hủy của hồng cầu bị rút
ngắn. Ngoài ra còn có những thay đổi trong quá trình trao đổi sắt và những tế bào
chứa sắt cũng xuất hiện trong máu và tủy xương. Lượng sắt trong huyết thanh tăng
lên.
Mức độ nguy hiểm tùy thuộc vào độ tuổi và tình trạng của cơ thể và nguy
hiểm chính là độc hại tới hệ thần kinh. Hầu hết nhạy cảm với chì là trẻ em, đặc biệt
là trẻ em mới tập đi, trẻ sơ sinh và bào thai. Trẻ sơ sinh, trẻ em dưới 16 tuổi và phụ
nữ có thai là đối tượng nhạy cảm nhất với độc tố chì, tác động mãn tính đến sự phát
triển trí tuệ của trẻ em. Với những phụ nữ có thai thường xuyên tiếp xúc với chì khả
năng xảy thai hoặc thai nhi chết sau khi sinh là rất lớn. Với trẻ em, hệ thần kinh
đang phát triển rất nhạy cảm khi bị nhiễm chì dù ở nồng độ thấp, hệ số thông minh
(IQ) giảm xuống. Đối với người trưởng thành, công việc thường xuyên tiếp xúc với
chì quá mức hoặc do gặp sự cố có thể bị nhiễm bệnh thần kinh ngoại vi hoặc thần
kinh mạn tính. Tuy nhiên ở người lớn các ảnh hưởng cấp tính hay hầu hết các ảnh
hưởng nhạy cảm của chì có thể là bệnh tăng huyết áp. Ngoài ra khi nhiễm độc chì
còn có thể ảnh hưởng dến một số cơ quan khác trong cơ thể như dạ dày, ruột non,
cơ quan sinh sản.
ii. Trong nước nhiễm thủy ngân
Thủy ngân vô cơ chủ yếu ảnh hưởng đến thận, trong khi đó methyl thủy
ngân ảnh hưởng chính đến hệ thần kinh trung ương. Sau khi bị nhiễm độc người
bệnh dễ cáu gắt, kích thích, xúc động, rối loạn tiêu hóa rối loạn thần kinh, viêm lợi,
rung chân. Nếu bị nhiễm độc nặng có thể tử vong. Độc tính của thủy ngân tác dụng
len nhóm sunfuahydryl (-SH) của hệ thống enzyme. Sự liên kết của thủy ngân với
màng tế bào ngăn cản sự vận chuyển đường qua màng và cho phép dịch chuyển kali
tới màng. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt năng lượng trong tế bào và gây rối loạn
thần kinh. Chính vì nguyên nhân này những trẻ sơ sinh nhiễm methyl thủy ngân từ
mẹ sẽ bị tác động lên hệ thần kinh trung ương, mắc các bệnh như tâm thần phân liệt,
kém phát triển trí tuệ, co giật. Nhiễm độc methyl thủy ngân còn dẫn tới phân lập thể
nhiễm sắc, phá vỡ thể nhiễm sắc và ngăn cản sự phân chia tế bào.
Trong môi trường nước, thủy sinh vật có thể hấp thụ thủy ngân vào cơ thể,
đặc biệt là cá và các loài động vật không xương sống, cá hấp thụ thủy ngân và
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 39 /52
chuyển hóa thành methyl thủy ngân (CH3Hg+) rất độc với cơ thể người. Chất này
hòa tan trong mỡ, phần chất béo của các màng và trong tủy.
Tác hại cấp tính do nhiễm độc thủy ngân: Khi bị nhiễm độc thủy ngân nặng
bệnh nhân thường ho, khó thở, thở gấp, sốt, buồn nôn, nôn ọe và có cảm giác đau
thắt ở ngực. Có những bệnh nhân có biểu hiện bị rét run, tím tái. Trong trường hợp
nhẹ hiện tượng khó thở có thể kéo dài cả tuần lễ, nếu ở cấp độ năng hơn bệnh nhân
có thể bị ngất đi và dẫn đến tử vong.
Tác hại mạn tính: Nhiễm độc thủy ngân kinh niên có thể gây tác động
nghiêm trọng tới hệ thần kinh và thận. Những triệu chứng đầu tiên là vàng da, rối
loạn tiêu hóa, đau đầu, viêm lợi và tiết nhiều nước bọt. Răng có thể bị long và rụng,
những chiếc còn lại có thể bị xỉn và mòn vẹt, trên lợi có những đường màu đen sẫm
màu. Tiếp xúc thường xuyên với hợp chất thủy ngân vô cơ có thể bị xạm da và
những bệnh bột phát ngứa viêm da, lở loét. Những biểu hiện rối loạn thần kinh do
nhiễm độc thủy ngân kinh niên như run tay, tiếp theo là mí mắt, môi, luỡi, tay chân
và cuối cùng là nói lẫn. Ngoài ra còn có các triệu chứng như rối loạn thần kinh,
dáng đi co cứng, các phản xạ gân cốt bị rối loạn, đặc biệt là đầu gối co giật nhiều.
Các triệu chứng rối loạn cảm giác như: rối loạn khứu giác, vị giác, mất cảm giác ở
đầu ngón tay ngón chân, khi chạm vào thường thấy đau. Có trường hợp bị điếc, ngộ
độc thủy ngân hữu cơ gây co thắt thần kinh ngoại biên, teo vỏ não.
Tuy nhiên không thể không nói đến các tác động chính của thủy ngân đến
quá trình sống của con người: Gây ung thư và biến đổi gen. Khi các nhà khoa học
nghiên cứu thực nghiệm thì thấy một số thể nhiễm sắc bị gãy, sự phân chia bị sai
bởi tiếp xúc với thủy ngân.
Một ví dụ về bệnh do thủy ngân gây ra đó là căn bệnh Minamata, ở thị trấn
Minamata Nhật Bản, sau 12 năm ngiên cứu, đến năm 1969 các nhà nghiên cứu đã
đưa ra kết luận căn bệnh này do nhiễm độc methyl thủy ngân gây ra. Methyl thủy
ngân do hệ thống nước thảu nhà máy phân hóa học Chisso thải ra. Hậu quả 2248
người mắc bệnh, trong đó 1004 người chết và 2000 người đòi bồi thường.
Minamata là tên của một thành phố thơ mộng, xinh đẹp thuộc tỉnh Kumamoto
(Nhật Bản). Nhưng Minamata còn là tên gọi một căn bệnh đã từng gây nỗi kinh
hoàng cho biết bao người Nhật. Năm 1956 và năm 1968, người ta phát hiện ra
những người mắc bệnh ở Minamata với biểu hiện chân tay bị liệt hoặc run lẩy bẩy,
tai điếc, mắt mờ, nói lắp bắp... Nhiều bệnh nhân đã bị điên, bất tỉnh và chết sau một
tháng mắc bệnh. Có nhiều người bị mắc bệnh Minamata kinh niên, hoặc bẩm sinh.
Họ sinh ra bị tàn tật vì người mẹ khi mang thai đã ăn cá bị nhiễm độc ở vùng
vịnh....
Vì sao lại như vậy? Mãi đến năm 1968, Chính phủ Nhật Bản mới chính thức
tuyên bố: căn bệnh này do Công ty Chisso gây ra vì đã làm ô nhiễm môi trường.
Các nhà máy hóa chất của Công ty này đã thải ra quá nhiều lượng thủy ngân hữu cơ
độc hại làm cho cá bị nhiễm độc. Khi ăn cá, thủy ngân hữu cơ xâm nhâp vào cơ thể
con người, chúng sẽ tấn công vào cơ quan thần kinh trung ương, gây nên căn bệnh
mà các nhà y học gọi là bệnh Minamata. Tổ chức cứu trợ Nhật Bản cho biết, đến
nay có gần 13.000 người mắc bệnh Minamata, có hơn 2.000 người bị chết.
Năm1965, bệnh Minamata còn bùng phát dọc theo con sông Agano thuộc tỉnh
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 40 /52
Nigata, do công ty Showa Denko thải thủy ngân xuống lòng sông. Ngoài bệnh
Minamata, các nhà nghiên cứu về kinh tế-môi trường của Nhật đã không ngần ngại
khi đưa ra bản danh sách các căn bệnh, các vụ nhiễm độc như bệnh itai-itai ở tỉnh
Toyama, nhiễm độc catmi, nhiễm độc đồng.... do các nhà máy thải chất thải nguy
hại ra môi trường trong suốt mấy chục năm phát triển công nghiệp.”
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 41 /52
Chứng tích kinh hoàng về căn bệnh Minamata do thủy ngân mang lại
iii. Trong nước nhiễm Asen
Asen gây ra ba tác động chính tới sức khỏe con người là: làm đông keo
protein, tạo phức với asen(III) và phá hủy quá trình phốt pho hóa.
Các triệu chứng của nhiễm độc asen như: Ở thể cấp tính gây ho, tức ngực và
khó thở, mất thăng bằng, đau đầu, nôn mửa, đau bụng đau cơ. Nếu nhiễm độc kinh
niên thì ảnh hưởng đến da như đau, sưng tấy da, vệt trắng trên móngtay…
Asen và các hợp chất của nó tác dụng lên sunfuahydryl (-SH) và các men
phá vỡ quá trình photphoryl hóa, tạo phức co-enzyme ngăn cản quá trình sinh năng
lượng. asen có khả năng gây ung thư biểu mô da, phế quản, phổi, xoang…
Asen vô cơ có hóa trị 3 có thể làm sơ cứng ở gan bàn chân, ung thư da. Asen
vô cơ có thể để lại ảnh hưởng kinh niên với hệ thần kinh ngoại biên, một vài nghiên
cứu đã chỉ ra asen vô cơ còn tác động lên cơ chế hoạt động của AND.
Sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm asen lâu dài là không an toàn và ở một ssố
nước trên thế giới vấn đề ảnh hưởng sức khỏe do asen rất đáng lo ngại. Đầu tiên là
các ca tổn thương da do asen ở Tây Ban Nha, Ấn Độ năm 1983, hơn 1,5 triệu người
được cho là nhiễm asen tại đây, với khoảng hơn 20000 ca nhiễm độc. Tại
Bangladesh khoảng 35 đến 77 triệu người trong tổng số 125 triệu người đang đối
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 42 /52
mặt với nguy cơ nhiễm asen trong nước uống. Có ít nhất 100000 ca bị tổn thương
da.
Khi sử dụng nước uống có hàm lượng asen cao trong thời gian dài, dẫn đến
rối loạn mạch máu ngoại vi và có triệu chứng lâm sàng như là chân răng đen. Các
ảnh hưởng có hại có thể xuất hiện như yếu chức năng gan, bệnh tiểu đường, các loại
ung thư nội tạng( bàng quang, gan, thận), các loại bệnh về da( chứng tăng mô biểu
bì, chứng tăng sắc tố mô và ung thư da).
Bệnh sạm da, mất sắc tố da, cahi cứng da, và rối loạn tuần hoàn ngoại biên là
các triệu chứng do tiếp xúc thường xuyên với asen. Ung thư da và nhiều ung thư nội
tạng cũng do vậy. Các bênh như tim mạch cũng được phất hiện có lien quan đến
thức ăn, nước uống có asen và do tiếp xúc với asen. Trong nghiên cứu số người dân
uống nước có nồng độ asen cao cho thấy, tỷ lệ ung thư gia tăng theo liều lượng asen
và thời gian uống nước.
Các bệnh về da do nhiễm độc asenic
iv. Nước nhiễm Crom:
Hợp chất CR+ rất độc có thể gây ung thư phổi, gây loét dạ dày,ruột non,
viêm gan, viêm thận, gây độc cho hệ thần kinh và tim…Crom xâm nhập vào nguồn
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 43 /52
nước từ nước thỉ của các nhà máy mại điện, nhuộn thuộc da, chất nổ, đò gốm, sản
xuất mực viết, mực in, in tráng ảnh…
v. Nước nhiễm Mangan
Mangan di vào môi trường nước do quá trình rửa trôi, sói mòn và chất thải
công nhiệp luyện kim, acquy, phân hóa học…
Với hàm lượng cao mangan gây độc mạnh với nguyên sinh chất của tế bào,
đặc biệt là tác động lên hệ thần kinh trung ương, gây tổn thương thận và bộ máy
tuần hoàn, phổi, ngộ độc nặng và tử vong.
Tiêu chuẩn cho phép của WHO với mangan không quá 0,1mg/l
vi. Bệnh do nồng độ nitrat cao trong nước.
Nồng độ nitrat cao trong nước có thể do phân hủy chất hữu cơ trong tự nhiên
hoặc do ảnh hưởng của chất thải ô nhiễm. Trong nước chứa hàm lượng nitrat trên
10mg/l có thể gây bệnh tím tái ở trẻ em. Người ta thấy hàm lượng mthemoglobine
trong máu cao với cả trẻ em và người lớn khi dùng nước có hàm lượng nitrat cao
hơn giới han cho phép.
Bảng giới thiệu một số kim loại trong nước ô nhiễm và tác hại của nó đến
sức khỏe của con người
Stt
Nguyên
tố
Nguồn thải Tác dụng
1 As
Thuốc trừ sâu, chất thải
hóa học
Rất độc, gây ung thư
2 Cd
Đảo ngược vai trò hóa sinh của
ezym, gây cao huyết áp,hỏng
thận, phá hủy các mô và hồng
cầu, có tính độc với động vật
dưới nước.
3 Be
Than đá, năng lượng
hạt nhân và công
nghiệp vũ trụ.
Độc tính mạnh và bền, có khả
năng gây ung thư.
4 B
Than đá, sản xuất chất
tẩy rửa, chất thải công
nghiệp
Độc với một số loại cây
5 Cr Mạ kim loại Nguyên tố cần ở dạng vết, gây
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 44 /52
ung thư(VI)
7 F(ion)
Các nguồn địa chất tự
nhiên, chất thải công
nghiệp, chất bổ sung
vào nước
Nồng độ 5mg/l gây phá hủy
xương và gây vết ở răng.
8 Pb
Công nghiệp mỏ, than
đá, xăng, hệ thống ống
dẫn.
Gây thiếu máu, bệnh thận. rối
loạn thần kinh, môi trường bị
phá hủy.
9 Mn
Chất thải công nghiệp
mỏ.
Tác động lên hệ thần kinh trung
ương, gây tổn thương thận và bộ
máy tuần hoàn, phổi
10 Hg
Chất thải công nghiệp
mỏ, thuốc trừ sâu, than
đá
Độc tính cao.
12 Se
Các nguồn địa chất tự
nhiên, than đá
Gây độc
13 Zn
Chất thải công nghiệp,
mạ kim loại, hệ thống
ống dẫn
Độc ở nồng độ cao
b) Các hợp chất hữu cơ:
Trên thế giới hang năm có khoảng 60.105 tấn các chất hữu cơ tổng hợp bao
gồm các chất nhiên liệu,chất màu, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng, các
phụ gia trong dược phẩm thực phẩm. Các chất này thường độc và có đọ bền sinh
học khá cao, đặc biệt là các hidrocacbnon thơm gây ô nhiễm môi trường mạnh, gây
ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người.
Các hợp chất hữu cơ như: các hợp chất hữu cơ của phenol, các hợp chất bảo
vệ thực vật như thuốc trừ sâu DDT, linden(666), endrin, parathion, sevin, bassa…
Các chất tẩy rửa có hoạt tính bề mặt cao là những chất ảnh hưởng không tốt đến sức
khỏe, bị nghi ngờ là gây ung thư.
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 45 /52
Bảng sau là một số hợp chất gây ung thư
Hợp chất Sử dụng Mức độ gây nguy hiểm
4-nỉtophenyl
α-Naphtylamin
4,4-Metylenbis(2-
cloanilin)
Metyl-cloanilin ete
3,3-Diclobenzidin
Bis(clometyl)ete
β-Naphthylamin
Benzidin
Etylenimin
β-propiolacton
etylen diclorua
Phân tích hóa học
Chất chống oxi hóa. Sản
xuát phảm màu, phim màu
Tác nhân lưu hóa chất dẻo
Sản xuất nhựa trao đổi ion
Sản xuất phẩm màu
Sản xuất nhựa trao đổi ion
Sản xuất thuốc nhuộm thuốc
thử
Sản phẩm màu cao su, chất
dẻo, mực in
Chế hóa giấy vải.
Sản xuất chất dẻo.
Dung môi công nghiệp. chất
sát trùng hạt lương thực và
chất phụ gia cho xăng để thu
gom chì, mỗi năm thải ra
ngoài môi trường 74.106
Gây ung thư bàng quang
Gây ung thư bàng quang
Gây ung thư bàng quang
Bị nhiễm chất gây ung
thư biclometyl ete
Chất gây ung thư nổi
tiếng
Gây ung thư phổi
Gây ung thư bàng quang
Gây ung thư bàng quang
Chất gây ung thư nổi
tiếng
Nghi ngờ gây ung thư cho
ngừời.
Gây ung thư dạ dày, lá
lách, phổi
c) Vi khuẩn trong nước thải:
Vi khuẩn có hại trong nước bị ô nhiễm có từ chất thải sinh hoạt của con
người và động vật như bệnh tả, thương hàn và bại liệt.
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 46 /52
Ecoil- vi khuẩn đường ruột gây bệnh dạ dày, viêm nhiễm đường tiết liệu ,
ỉa chảy cấp…
i. Bệnh đường ruột:
Bệnh đường ruột gây nên chủ yếu do các loại vi khuẩn sống trong nước như
vi khuẩn đại tràng, thương hàn. tả, lỵ… ngoài ra trong nước tự nhiên và nước sinh
hoạt còn có thể có các loại vi khuẩn gây bệnh ỉa chảy trẻ em như Leptospira,
Brucella,tularensis, các siêu vi khuẩn bại liệt, viêm gan, ECHO, Coksaki…
Bệnh ỉa chảy là bệnh lây lan chủ yếu bởi phân người. Bên cạnh đó thức ăn
nước uống bị ô nhiễm cũng là nguyên nhân gây bệnh. Nhiều nước trên thế giới kh
người mẹ sinh con, có nhiều khả năng là đứa trẻ sẽ chết trước khi sinh nhật lần thứ
nhất. Tỷ lệ có thể lên tới 220 trẻ chết trong 1000 trẻ sinh ra, trong đó ít nhất có 25%
trẻ chết vì các bệnh ỉa chảy.
ii. Các bệnh do kí sinh trùng, vi khuẩn, viruts và nấm mốc:
Con người có thể mắc các bệnh do kí sinh trùng gây ra như amip, giun sán
các loại; bệnh ngoài da, viêm mắt do các loại vi khuẩn, viruts, nấm mốc và các loại
kí sinh trùng khác. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu nước sạch và vệ sinh cá nhân
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 47 /52
kém. Nước bị ô nhiễm kí sinh trùng là do việc quản lý phân và chất thải không tốt,
gây ô nhiễm môi trường xung quanh và tăng tỉ lệ mắc bệnh trong dân cư
bệnh sốt do leptospira
Bệnh sốt do Leptospira ở các vùng rừng núi, các khu vực khai hoang phát triển
nông nghiệp hay xây dựng công nghiệp. Đó là bệnh truyền nhiễm do nhiều chủng
Leptospira từ gia súc chuyển sanh người. Đường lây nhiễm chủ yếu là do tiếp xúc
với đất hoặc nước bị ô nhiễm do nước tiểu của súc vật bị bệnh, trong khi lao động
phải ngâm mình dưới nước hoặc bùn lầy. Cũng có thể lây trực tiếp từ súc vật, mầm
bệnh vào cơ thể do da xây xát hoặc qua niêm mạc, bênh còn có thể lây qua nước
uống hoặc thực phẩm bị ô nhiễm. Điều kiện tồn tại và phát triển của mầm bệnh là
nóng và ẩm ướt. Tại những vùng nhiệt đới nóng ẩm quanh năm, bệnh dễ phát triển
ở những người phải lao động bên súc vật bị bệnh hay tiếp xúc với đất, nước ô nhiễm
ở những ao tù, hồ nước đọng, sông suối chảy chậm..
Triệu chứng:
Các triệu chứng sớm xuất hiện là :
• Ăn không ngon, đau cơ, nhức đầu dữ dội, liên tục, người lả vì đau
vùng sau nhãn cầu, mồ hôi vã ra nhiều.
• Bệnh nhân thường buồn nôn, có thể bị ỉa chảy hoặc táo bón, viêm
thần kinh mắt và đôi khi viêm nhẹ thần kinh vận động nhãn cầu.
• Màng não bị tổn thương, có biểu hiện cổ bị cứng. Bạch cầu đơn nhân
tăng lên >50/mm3, cơ yếu và liệt. Thận bị tổn thương, đi tiểu ra mủ, máu.
Bệnh do Leptospira nặng thường do Lipterohaemorrhagiae gây ra. Các triệu
chứng cũng như vậy nhưng nặng hơn, buồn nôn đặc biệt là tiêu chảy nặng, rất hay
co biểu hiện xuất huyết, viêm phổi, viêm cơ tim, trụy mạch ngoại biên. Gan to, vàng
da, chức năng gan bị ảnh hưởng, các triệu chứng về hệ thần kinh trung ương thường
nặng hơn, bạch cầu tăng, chủ yếu bạch cầu đa nhân. Thận bị suy, protein liệu tăng,
tiểu tiện ít hoặc vô hiệu.
iii. Các bệnh do trung gian:
Côn trùng trung gian truyền bệnh chủ yếu là các loại muỗi. quá trình sinh sản
của muỗi phải qua môi trường nước. trong các vùng có dịch bệnh lưu hành, muỗi có
khả năng truyền các bệnh như bệnh sốt rét, bệnh Dengue, bệnh sốt xuất huyết, bệnh
giun chỉ…
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 48 /52
bệnh sốt rét
Sốt rét là một trong những bệnh nguy hiểm bậc nhất tác động đến con người
ở các nước đang phát triển có khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. sốt rét đặc biệt
nguy hiểm với phụ nữ có thai và trẻ em ( dưới 5 tuổi). Nếu họ bị sốt rét, có thể
nhanh chóng lâm vào tình trạng suy nhược trầm trọng và có thể dẫn đến tử vong.
Sốt rét là bệnh gây ra do những vi sinh vật cực nhỏ được gọi là kí sinh trùng trong
máu. Một vật trung giam truyền bệnh là muỗi. Muỗi cái có khả năng đốt người và
truyền nhiễm nguy hiểm cho con người. muỗi đực không thể hút máu và không thể
truyền bệnh. Muỗi thường cư trú ở những nơi như: vùng nước ngọt hoặc nước lợ
nhẹ. Nhất là nơi nước tù đọng hay chảy chậm, vũng nước tù sau cơn mưa hoặc do
thoát nước kém, đầm lầy, ruộng lúa, hồ chứa, ao hồ nhỏ, chuôm mương,vũng trâu,
đầm có nước tù đọng, dấu chân động vật chứa nước, chum, thùng, bể chứa…
Báo cáo môi trường quốc gia 2006 đối với ba lưu vực sông (LVS) Cầu,
Nhuệ- Đáy và hệ thống sông Đồng Nai cũng nêu rõ: tại những nơi có dòng chảy ô
nhiễm đi qua tỷ lệ người dân mắc các bệnh liên quan đến chất lượng nước mặt
tương đối cao. Cụ thể, tại LVS Cầu tỉnh Bắc Kạn (có nước sông Cầu và các phụ
lưu ít bị ô nhiễm) và Thái Nguyên (sử dụng chủ yếu nước hồ Núi Cốc) cho nước
sinh hoạt, số người mắc bệnh về đường tiêu hoá ít hơn so với các tỉnh hạ nguồn như
Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang và Hải Dương.
Bên cạnh đó, tại khu vực nước sông Nhuệ- Đáy bị ô nhiễm cũng đã ảnh
hưởng đến sức khoẻ của cộng đồng trong lưu vực. Điều này được thể hiện qua sự
gia tăng mắc các bệnh về đường tiêu hoá so với các tỉnh khác. Chẳng hạn trong tỉnh
Hà Tây các huyện nằm cạnh sông Nhuệ có tỷ lệ mắc người dân mắc bệnh lỵ và các
bệnh tiêu chảy cao hơn hẳn so với các huyện khác.
Cũng theo báo cáo này; tỷ lệ người dân mắc các bệnh liên quan đến nước tại
các tỉnh thuộc LVHTS Đông Nai trong những năm gần đây tăng khá nhanh. Đáng
lưu ý là trong số đối tượng mắc bệnh liên quan đến nguồn nước thì trẻ em chiếm tỷ
lệ khá cao.
2. Ảnh hưởng đến đời sống:
a) Sinh hoạt thường ngày:
Nước ô nhiễm ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt của người dân, làm xáo trộn
cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày. Một số nơi ở nông thôn, nhân dân lấy nguồn
nước sông làm nước sinh hoạt hàng ngày như ở: huyện Hưng Hà, Đông Hưng, Vũ
Thư và Thành Phố Thái Bình, người dân ở đây lấy nước sinh hoạt từ hệ thống sông
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 49 /52
phía Bắc của tỉnh Thái Bình, sông Sa Lung. Vậy mà giờ đây nguồn nước đó lại bị ô
nhiễm làm cho đời sống sinh hoạt của nhân dân nơi đây sẽ phần nào bị xáo trộn do
nguồn nước sinh hoạt hàng ngày của họ đã không còn giữ được như xưa. Bà Hà Thị
Hiến, ở thôn Tống Thỏ, xã Đông Mỹ, đã không khỏi xót xa khi hàng ngày chứng
kiến cảnh con gái và cháu ngoại của mình sử dụng nguồn nước sông này để làm
nước sinh hoạt: “Hàng ngày con, cháu tôi cứ phải sinh hoạt, rửa ráy ở đây, còn
nước ăn thì đi xin. Nhưng mà chúng tôi lo ngại cho cháu cứ như thế này rồi sau này
không biết dùng nước bẩn như thế này, rồi có nhiều người ốm như vậy, liệu có bị
bị nhiễm bệnh không?Nhưng biết làm sao được, bây giờ tôi thì già rồi, 80 tuổi rồi,
chủ yếu lo cho các cháu.” Ở các xã Quảng Lưu, Quảng Hải, Quảng Thái, huyện
Quảng Xương (Thanh Hoá), hơn bảy năm qua, gần 100 hộ dân ở một số thôn của
phải đi hàng km chở nước về sinh hoạt vì nguồn nước ở đây bị ô nhiễm nặng do
nước thải từ các hồ nuôi tôm trên cát. Hàng ngày, những hộ dân ở thôn 1 xã Quảng
Lưu phải dùng xe đạp mang theo canh, thùng đi hàng km để thồ nước sạch về sinh
hoạt. Trong khi đó những chiếc giếng khoan phải bỏ phí vì nguồn nước bị ô nhiễm
nặng nề từ các hồ nuôi tôm trên cát. Chị Trịnh Thị Sành, thôn 1 xã Quảng Lưu cho
biết: “Trước đây người dân chúng tôi không phải đi xa chở nước vất vả như bây
giờ, đã mấy năm nay nguồn nước bị ô nhiễm nặng không thể sử dụng được. Hàng
ngày trong gia đình tôi phải phân công một người chuyên đi chở nước nhưng cũng
chỉ đủ để ăn uống, còn tắm rửa thì vẫn phải dùng nguồn nước bị ô nhiễm”. Vì hàng
ngày phải tắm rửa bằng nguồn nước bị ô nhiễm nên nhiều người trong thôn, nhất là
trẻ con có hiện tượng bị ngứa, nổi mẩn, có người còn bị mọc u lạ sau gáy. Nhiều
người dân đi khám tại các cơ sở y tế nhưng các bác sỹ không chuẩn đoán được bệnh
gì nên hiện tại người dân rất hoang mang. Không riêng gì người dân thôn 1 xã
Quảng Lưu mà hàng chục hộ dân khác ở thôn 1 xã Quảng Thái và thôn 8 Quảng Hải
cũng phải sống chung với nguồn nước ngầm bị ô nhiễm nặng nề.
Không những vậy ô nhiễm nguồn nước còn làm cho bốc mùi hôi thối ở các
khu vực này làm cho đời sống người dân không còn ổn định như trước. Người dân
buộc phải sống chung với ô nhiễm, thậm chí họ phải “bán nhà” đi nơi khác sinh
sống để đảm bảo sức khỏe cho người thân của mình. Tệ hơn nữa nhiều người “lỡ”
mua phải nhà ở khu vực này thì phải đóng cửa bỏ trống, không về ở nữa. Tại một số
vùng nông thôn hệ thống xả nước thải được xây dựng tạm bợ giờ đây trở nên ứ
đọng, tràn ra xung quanh làm ô nhiễm môi trường không những thế nó còn gây trở
ngại cho lưu thông, đi lại của nhân dân trong vùng.Mặc khác nó còn làm cho nguồn
nước ngầm bị ô nhiễm trầm trọng, gây thiếu hụt nguồn nước ngọt nghiêm trọng.
Còn ở thành thị, nguồn nước sinh hoạt chủ yếu là nước máy. Tuy nhiên chất
lượng nguồn nước này đang đặt ra dấu chấm hỏi lớn. Khi nguồn nước này bị ô
nhiễm người dân không còn cách nào khác là phải mua nước khoáng về dùng trong
khi đó vẫn trả tiền hàng tháng cho công ty cấp thoát nước. Việc mua nước phải thực
hiện lúc sáng sớm hoặc tối vì ban ngày họ phải đi làm nên ảnh hưởng rất lớn đến
thời gian làm việc và sinh hoạt.
b) Hoạt động sản xuất:
Nước thải ô nhiễm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, đặc biệt tại các
thành thị lớn nơi có hàm lượng chất ô nhiễm cao.
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 50 /52
Tại TP.Hồ Chí Minh – Tám tuyến kênh chính phục vụ tưới tiêu cho 8.000 ha
đất sản xuất nông nghiệp thuộc năm xã của huyện Bình Chánh và Hóc Môn bị ô
nhiễm trầm trọng: kiến, cá chết, cây cối đổi màu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời
sống của người dân. Trong khi ấy, các cơ quan chức năng lại bất lực đứng nhìn,
chưa tìm ra phương thuốc đặc trị hữu hiệu nào để cứu đất, cứu lúa.
Cá chết vì nguồn nước bị ô nhiễm
Hệ thống thuỷ lợi của huyện Hóc Môn – bắc Bình Chánh bao gồm tám tuyến
kênh chính: kênh Thầy Cai, kênh An Hạ, kênh An Hạ – kênh C, kênh liên vùng,
kênh ranh Long An, kênh A, kênh B, kênh C… Hệ thống này đảm bảo tưới tiêu cho
trên 8.000ha đất nông nghiệp, trong phạm vi các xã Phạm Văn Hai, Lê Minh Xuân,
Vĩnh Lộc B (Bình Chánh); xã Xuân Thới Sơn, Tân Thới Nhì (Hóc Môn), và một
phần quận Bình Tân.
Theo kết quả phân tích chất lượng nguồn nước kênh Thầy Cai, An Hạ, kênh
B, C của sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT) TP.HCM cho thấy,
các thông số COD, BOD5, Coliform (các chỉ tiêu xác định mức độ nhiễm bẩn của
nước) đều vượt tiêu chuẩn chất lượng nước dùng cho thuỷ lợi và tiêu chuẩn nước
thải công nghiệp từ vài lần đến hàng chục ngàn lần. Từng dòng nước có màu nâu
đen, mùi khó chịu chảy về các nhánh. Nhiều hộ dân, sống dọc theo con kênh này
cho biết, kênh B, C thường xuyên bốc mùi hôi thối. Nguồn nước hai kênh này bị ô
nhiễm bởi khu công nghiệp, cụm công nghiệp Lê Minh Xuân và các cơ sở nhỏ lẻ
dọc kênh.
Đại diện của sở NN&PTNT cho biết, khu công nghiệp Lê Minh Xuân tập
trung chủ yếu từ kênh C12 đến C18. Đây là khu công nghiệp tập trung nhiều ngành
sản xuất có tính chất ô nhiễm nặng. Khu công nghiệp này hiện có khoảng 277 doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh các ngành nghề như: sản xuất sơn, bao bì nhựa, cao su,
bình ắcquy. Khu công nghiệp này tuy đã xây dựng nhà máy xử lý nước thải với
công suất 4.000 m3 khối/ngày nhưng chưa có giấy phép xả thải vào hệ thống công
trình thuỷ lợi.
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 51 /52
Việc ô nhiễm kênh B và C đã ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn nước tưới toàn
bộ khu nam tỉnh lộ 10 thuộc hệ thống thuỷ lợi Hóc Môn – bắc Bình Chánh (trên
4.500 ha).
Kênh Thầy Cai – con kênh đầu nguồn của hệ thống nước phục vụ tưới tiêu
toàn công trình thuỷ lợi Hóc Môn – bắc Bình Chánh (trên 8.000 ha) và nguồn nước
sông Sài Gòn phục vụ các dự án cấp nước thành phố còn ô nhiễm nặng nề hơn. Kết
quả quan trắc chất lượng nước tại đây cho thấy, năm 2008 chỉ tiêu COD vượt tiêu
chuẩn 1 – 2 lần, chỉ tiêu Fcal Coliform vượt từ 1 – 120 lần.
Hệ thống thuỷ lợi Hóc Môn – bắc Bình Chánh, theo thiết kế chỉ có chức
năng ngăn mặn, giữ ngọt, tưới tiêu theo triều, phục vụ sản xuất nông nghiệp và
không có nhiệm vụ điều tiết, giảm thiểu ô nhiễm. Tuy nhiên, trước tình hình ô
nhiễm nặng, công trình này còn phải gánh thêm trách nhiệm tiêu thoát nước ô
nhiễm trong khu vực, dẫn đến hệ thống kênh này quá tải, gây khó khăn cho sản xuất
nông nghiệp của các huyện ngoại thành.
Theo quan sát, con kênh này bị ô nhiễm bởi nguồn chất thải của khu xử lý
chất thải rắn Hiệp Phước và khu công nghiệp Tân Phú Trung (Củ Chi). Khu công
nghiệp này mặc dù đã xây dựng được nhà máy xử lý nước thải tập trung nhưng hệ
thống đấu nối, thu gom nước thải chưa hoàn chỉnh nên nhà máy này chưa vận hành
được. Các đơn vị sản xuất trong khu công nghiệp xử lý cục bộ và xả nước thải riêng
lẻ, trực tiếp vào kênh Thầy Cai.
Đại diện sở NN&PTNT cho biết, nguồn nước bị ô nhiễm đã ảnh hưởng đến
công tác điều tiết phục vụ tưới tiêu, ngăn mặn, xổ phèn và phòng chống cháy rừng,
đặc biệt là ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt, sức khoẻ của người dân quận vùng ven
và các huyện ngoại thành. Trong nhiều năm qua chất thải ô nhiễm từ khu công
nghiệp Lê Minh Xuân đã gây ra hiện tượng cá chết, vịt chết (2004), cây cỏ biến đổi
màu (2007), cá sấu chết, kiến chết hàng loạt (2008)…
Nguồn nước ô nhiễm cũng làm giảm thiểu năng suất cây trồng, có những
khu đất phải bỏ không vì ô nhiễm quá nặng. Trước đây tại ấp 1, xã Phước Thái,
huyện Long Thành - gần Vedan, có một cánh đồng với diện tích trên 10 ha sản xuất
3 vụ lúa/năm nhưng do ô nhiễm bởi những chất thải độc hại chưa qua xử lý của
Vedan, nên phải bỏ hoang từ hàng chục năm qua. Hơn 200 hộ dân với hơn 1.000
nhân khẩu sinh sống bằng nghề trồng lúa và nghề chài lưới phải tự tìm kiếm nghề
khác sinh sống. Ngoài ra, còn hơn 40 hộ dân tại khu vực này làm nghề nuôi trồng
thuỷ sản với diện tích mặt nước 70 ha cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi ô nhiễm, tôm
cá không thể sống nổi, nhiều ao hồ phải bỏ không từ nhiều năm qua… Ở một số nơi
khác vì ô nhiễm quá nặng nên người dân không thể trồng trọt, chăn nuôi được,
nhiều người dân đành bỏ nghề hoặc đi nơi khác sinh sống.
Ô nhiễm nước và hậu quả của nó
DH08DL- NHÓM 6 Trang 52 /52
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Th.s Đặng Đình Bạch-TS Nguyễn Văn Hải. Giáo trình hóa học môi
trường. 123-176, NXB KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
2. Đỗ Trọng Sự, 1997. Hiện trạng ô nhiễm nước dưới đất ở một số khu dân cư
kinh tế quan trọng thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Báo cáo Hội thảo Tài nguyên nước
dưới đất: 99-112. Hà Nội.
3. UNICEF Việt Nam, 2002. Hướng tới giảm nhẹ sự ô nhiễm arsen ở Việt
Nam. Báo cáo Hội thảo xây dựng chương trình hành động về arsen, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Hà Nội.
4. Th.s Hoàng Thái Long, 2007. Hóa học môi trường.51-77.NXB Huế
5.
6.
7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- O nhiem nuoc va hau qua cua no - DH08DL.pdf