Suốt đời mình, Hồ Chí Minh đã kiên trì và nhất quán đi theo con đường đã lựa chọn. Dưới ngon cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành được những thắng lợi lịch sử có tầm thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: Học tập và làm theo chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần cách mạng và khoa học, cái tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác – Leenin, để giải quyết cho tốt những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới hiện nay, tức là phải luôn luôn biết gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, làm phong phú them lý luận. Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ ra rằng: khi nào chúng ta đứng vững trên tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, biết học tập có chọn lọc và cải tiến kinh nghiệm của các nước, khi đó chúng ta thành công, nếu ngược lại là không tránh khỏi sai lầm và thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng chói về mặt đó. Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh là con người của độc lập, tự chủ đổi mới và sáng tạo. Luôn xuất phát từ thực tế, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mòn, không ngừng đổi mới và sáng tạo, đó là nét đặc sắc nhất của tinh thần Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh.
21 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1806 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích: Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mẫu mực của tinh thần độc lập tự cường, đổi mới và sáng tạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI:
Trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 105 ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh có viết:
“ Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mẫu mực của tinh thần độc lập tự cường, đổi mới và sáng tạo”.
Hãy phân tích và chứng minh nhân định trên. Liên hệ với thực tế Việt Nam hiện nay.
BÀI LÀM:
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu nước quật cường chống ngoại xâm, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do của Tổ quốc. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã phải đương đầu với những kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội. Từ thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm, cha ông ta đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu. Trí tuệ đánh giặc giữ nước là một trong những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam. Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo trí tuệ đó của dân tộc. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời cũng tìm hiểu thêm tư tưởng của một số nhà yêu nước lỗi lạc khác châu Á, nâng nó lên một tầm cao mới phù hợp với cách mạng Việt Nam. Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc vừa là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Người trong việc vân dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam và các nước phương Đông, mà đặc biệt là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nó chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng của dân tộc. Chính vì vậy mà trong diễn văn kỉ niệm 105 ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh có viết:
“ Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lập tự cường, đổi mới và sáng tạo”.
Qua tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người cùng với thực tế Việt Nam hiện nay ta càng hiểu rõ nhận định trên.
Trước khi đề cập tới vấn đề độc lập dân tộc ta phải hiểu được dân tộc là gì? Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng, văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc. C. Mác, Ăngghen đã nêu ra các quan điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết những vấn đề về nguồn gốc, bản chất của vấn đề dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và đảng của nó với vấn đề dân tộc. Trên cơ sở những quan điểm này, Lênin đã phát triển thành một hệ thống lí luận toàn diện, sâu sắc về vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các đảng kiểu mới về vấn đề dân tộc. Khi bàn về sự phát triển của vấn đề dân tộc, Lênin cũng đã đề cập hai xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản.
- Xu hướng thứ nhất là sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tôc độc lập.
- Xu hướng thứ hai là với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc sẽ dẫn tới việc phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất quôc tế của chủ nghĩa tư bản, của đời sống kinh tế, chính trị, khoa học….
Xu hướng thứ nhất chiếm ưu thế trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới phát triển, còn xu hướng thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản già cỗi sắp chuyển sang xã hội xã hội chủ nghĩa, cả hai xu hướng đều phát triển trong điều kiện đối kháng giai cấp sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản và dân tộc tư sản không thể giải quyết được vấn đề dân tộc mà chỉ làm cho mối xung đột dân tộc ngày càng tăng lên. Chỉ có cách mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thủ tiêu áp bức giai cấp áp bức dân tộc, mới tạo điều kiện để thực hiện sự bình đẳng dân tộc và xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc. Lênin đã yêu cầu các đảng cộng sản phải kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa sôvanh, giành thắng lợi cho chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập ở đây không phải là vấn đề dân tộc nói chung. Khi chủ nghĩa đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, thực hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa với các nước bị xâm chiếm, thì vấn đề dân tộc đã trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa. Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập. Ở thời đại mà chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, việc nhân thức và giải quyết vấn đề dân tộc như thế nào có quan hệ tới toàn bộ đường lối, chiến lược, sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được thể hiện trong những luân điểm cơ bản sau:
a): Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm cuả tất cả các dân tộc. Lịch sử nước ta không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước luôn luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là “ độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân”. Như Người đã từng nói: cái mà tôi cần nhất trên trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập….Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu như “ Tuyên ngôn độc lập” (1776) của nước Mỹ, “ Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” (1791) của cách mạng Pháp, và tiếp cận những nhân tố có giá trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản cuả các dân tộc: “ Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Năm 1919, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến hội nghị hòa bình ở Vécxây một bản Yêu sách 8 điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách từ nội dung với lời lẽ đều rất ôn hòa, chưa đề cập vấn đề “độc lập” hay “tự trị”, mà mới chỉ tập trung vào hai nội dung cơ bản: một là đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với người châu Âu, hai là đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân như tự do ngôn luận, báo chí, tự do lập hội, hội họp…Trong điều kiện lịch sử lúc đó, một người Việt chưa có tên tuổi, giữa sào huyệt của kẻ thù, dám đưa ra yêu sách về “ quyền cuả các dân tộc ” là một hành động yêu nước dũng cảm, biết đưa ra những đòi hỏi trong phạm vi cải cách dân chủ là một hành động tài trí, khôn ngoan. Tuy vậy bản “Yêu sách” đã không được các trùm đế quốc để ý. Trước sự thật ấy Người đã rút ra bài học: “Muốn giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông vào lực lượng của bản thân mình…” Cách mạng tháng tám thành công, Người thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, long trọng khẳng định trước quốc dân đồng bào và trước thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lí do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm lên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
b): Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Các cuộc vân động yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XX đều được dẫn dắt bởi hệ ý thức phong kiến hoặc tư sản. Chủ nghĩa yêu nước khi đó vẫn chủ yếu dừng lại ở chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Đến Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được tiến hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp được đặt ra. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời đại cách mạng vô sản. Vấn đề dân tộc luôn luôn được giải quyết trên lập trường và theo quan điểm của một giai cấp nhất định và trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin nhấn mạnh rằng: chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Mác và Ăngghen đã đề cập mối quan hệ giai cấp và dân tộc: cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc, vì “Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số”. Vì vậy, “ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản , dù về mặt nội dung không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”. Từ đó, Mác kêu gọi: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Tuy nhiên ở thời đại đó, các ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì về cơ bản vấn đề dân tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, nhất là các ông chưa có điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa. Đúng như Lênin đã nhận xét, đối với Mác so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là một vấn đề thứ yếu thôi. Đến thời đại Lênin, chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách máng vô sản, Lênin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thành một hệ thống lý luận, được gọi là học thuyết về cách mạng thuộc địa. Theo Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Người đã bổ sung khẩu hiệu của Mác thành “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Tóm lại, Mác, Ăngghen, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn “đặt hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản”. Điều đó hoàn toàn đúng với đòi hỏi của thực tiễn cách mạng vô sản Tây Âu đang đặt ra lúc bấy giờ.
Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước, đang tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường của cách mạng vô sản, tức là đã tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin. Khi viết rằng: “sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp vô sản của toàn thế giới, mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó…thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam”., tức là Người đã nhân thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Nhưng tiếp thu lý luận Mác - Lênin lại phải biết vận dụng sáng tạo lý luận ấy vào việc giải quyết nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phù hợp với đặc điểm lịch sử - xã hội của các nước phương Đông. Việc xử lý mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp đặt ra cho các Đảng Cộng sản ở châu Âu và châu Á có khác nhau: khi Mác – Ăngghen viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là lúc mà đối kháng giai cấp trong thời đại tư sản ở châu Âu đã đơn giản hóa. “Xã hội ngày càng chia thành ha phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”. Vì vậy, các ông nói nhiều hơn về đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản. Khi ấy hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh, chưa có ảnh hưởng đến sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Trung tâm cách mạng thế giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh của loài người vẫn được coi là phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Do đó, tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng được nhìn nhận trong sự phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Trái lại vấn đề đặt ra trước mắt cho các nước thuộc địa phương Đông không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước hết là phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc rồi mới có địa bàn để tiến lên cách mạng làm xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc không cho phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu để được trả lại nền độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Từ thực tiễn đó Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành đấu tranh phê phán quan điểm sai trái của một số Đảng Cộng sản Tây Âu trong cách nhìn nhận , đánh giá về vai trò, vị trí, cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa và đi đến luận điểm: Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức mạnh của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới. Qua đó có thể khẳng định: ngay từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp đúng đắn dân tộc với giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết: ở các nước thuộc địa, “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Khái niệm chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc dùng ở đây, như Mác nói, “không phải theo nghĩa như giai cấp tư sản hiểu. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ mà Người nói ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là một động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chông ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, nó khác về bản chất so với chủ nghĩa dân tộc sôvanh, vị kỷ của giai cấp tư sản đã bị lịch sử lên án. Theo phân tích của Người, do kinh tế còn lạc hậu nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây. Người khằng định :Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Theo Người trong cách mạng giải phóng dân tộc, “người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”. Từ đó Người đã kiến nghị về Cương lĩnh hoạt động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi..nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế” .Qua đó có thể nhận thấy: xuất phát từ vị trí của người dân mất nước, từ chuyền thống dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự hào với lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững độc lập dân tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX cho thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do ngọn cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Sự thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời: “Trăm lần thất bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước để tìm tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Người đã sung sướng nói to lên: “Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lê-nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và giải phóng lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” .
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô sản ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí Minh. Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng góp to lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói : “Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” . Và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” . Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Chính vì vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định cần phải giải quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân. Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực giải quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà đông đảo là công nhân và nông dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong kiến chỉ là tay sai và chịu sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu của nhân dân Việt Nam, cách mạng Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn quan niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu, nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam – một cuộc cách mạng do giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975, cũng như thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước hiện nay.
Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc lập bao giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân dân, nhất là đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông dân. Dân chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy nhau, song trước hết cần tập trung vào độc lập dân tộc vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân dân ta với đế quốc xâm lược. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày nay.
Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Người không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa, mà là đề cập đến những lợi ích rất cụ thể thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân lao động. Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ đi vào lòng người và cổ vũ họ đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã hội. Để quần chúng dễ hiểu về chủ nghĩa xã hội, Người giải thích rõ : “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ (…). Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” .
Như vậy, có thể khẳng định rằng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Người thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là một chủ nghĩa xã hội tất cả vì con người và do con người. Trung thành với con đường đã chọn, suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, vì một xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Mặc dù hiện nay chủ nghĩa xã hội thế giới sau những biến động khủng hỏang, sụp đổ đã có những dấu hiệu phát triển tích cực, nhiều nước khu vực Mỹ- latin tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI, sự nghiệp đổi mới chủ nghĩa xã hội ở nước ta đạt thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử … Song các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo lọan lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Hơn nữa, ngay một bộ phận nhân dân ta, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên đã một thời không tiếc máu xương cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng đứng trước những khó khăn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường kết hợp với sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, đã mất phương hướng chính trị, dao động về lập trường tư tưởng. Thậm chí có người phủ nhận những thành quả cách mạng mà nhân dân ta giành được, cho rằng chúng ta tiến hành kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là sai lầm, gây nên sự mất mát hy sinh không cần thiết… Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, một số người còn cho rằng đã là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì phải tự do hóa, chế độ một đảng lãnh đạo là không tương xứng với kinh tế nhiều thành phần, hoặc đã chấp nhận kinh tế thị trường thì đừng nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, họ khuyên chúng ta không nên tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa mà nên đi theo chủ nghĩa xã hội dân chủ hay dừng lại ở chế độ dân chủ nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân dân đến khi nào chuẩn bị đầy đủ các yếu tố hãy đi lên chủ nghĩa xã hội cũng chưa muộn.
Trước những diễn biến của tình hình trên đây, rõ ràng đều nhắm tới mục tiêu, ý đồ đen tối là phủ định tư tưởng xuyên suốt trong di sản Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta, mong muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải vững tin vào con đường Bác Hồ đã lựa chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đọan cách mạng hiện nay, tiếp tục quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Vấn đề nổi bật xuyên suốt, nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là ý chí "không có gì quý hơn độc lập tự do", là tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo, thể hiện trước hết trong việc hoạch định đường lối, chính sách, phương pháp, bước đi của con đường cách mạng nước ta. Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, ngay đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trên đất Pháp, Người đã nói "Tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn" ; về sau Người lại khẳng định Việt Nam là "một dân tộc đã tự cường, tự lập". Hơn sáu mươi năm hoạt động cách mạng sôi nổi và sáng tạo, Người đã tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với truyền thống yêu nước Việt Nam, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường dân tộc, tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường đó đã được vạch ra từ mùa xuân năm 1930, trong những văn kiện do Người soạn thảo được Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thông qua, trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Với Cương lĩnh đó, những nét lớn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành và con đường cứu nước của Việt Nam đã được khẳng định. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự thể hiện rõ nét nhất tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Từ những năm 20 của thế kỷ trước, trong khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh đã nêu rõ rằng ở phương Đông có những đặc điểm khác với phương Tây mà thời mình Mác chưa có điều kiện nghiên cứu, đồng thời mỗi dân tộc lại có những đặc điểm riêng. Trong Điều lệ tạm thời của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864 do Mác khởi thảo, một tư tưởng cơ bản được nêu lên là: "Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải do bản thân giai cấp công nhân tự giành lấy". Hơn sáu mươi năm sau, trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, Hồ Chí Minh viết: "Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em". Người vạch rõ tính chủ động của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng chính quốc: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn". Người đã chỉ ra để mỗi người Việt Nam hiểu rằng ta phải tự lực, chủ động làm cách mạng giải phóng mình, không nên chỉ trông chờ "công nông Pháp cách mệnh thành công thì nhân dân Việt Nam sẽ được tự do" mà cần chủ động "An Nam dân tộc cách mệnh thành công, thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ". Chính những luận điểm sáng tạo, mới mẻ đó đã dẫn Hồ Chí Minh đến những quyết định lịch sử. Tháng 8-1945, khi thời cơ xuất hiện, Người ra lời kêu gọi "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong những năm kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần "dựa vào sức mình là chính". Nếu như trong đấu tranh giành chính quyền, Người đòi hỏi phải "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta thì những năm kháng chiến chống xâm lược, tư tưởng ấy của Người là "Dân ta phải giữ nước ta". Khi miền bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: "Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà". Nhân dân Việt Nam và tất cả những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều biết đến câu nói mang tính thời đại của Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Người nhấn mạnh: "Mỗi một người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do". Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn, độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, đứng một mình. Ngay từ năm 1947, Người đã chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Người đề cao việc học tập, tiếp thu sáng tạo kinh nghiệm của các đảng anh em, đồng thời phê phán mọi sự sao chép, giáo điều. Người đã khẳng định: Quyền tự do độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Ngay từ năm 1914, trên đất Anh, vào lúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa nổ ra, anh Nguyễn đã mang toàn bộ số tiền dành dụm được từ đồng lương ít ỏi của mình để ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh và nói với người bạn của mình rằng: “chúng ta phải trnah đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như đấu tranh cho dân tộc ta vậy”. Đầu năm 1930, sau khi chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước lại, Hồ Chí Minh đề nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Người, mỗi Đảng cộng sản là thuộc về một dân tộc, trước hết phải chịu trách nhiệm trước dân tộc mình, bởi vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Leenin, đã chủ trương dân tộc tự quyết thì cách mạng ở mỗi nước không thể do Đảng cộng sản của nước khác áp đặt, làm thay. Nêu cao tinh thần tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nhiệm vụ quốc tế của mình trong việc giúp đỡ thành lập Đảng cộng sản an hem ở một số nước Đông Nam Á, vào đầu những năm 30 và vào đầu những năm 50 của thế kỉ XX. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi chung của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính chất khoa học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng sâu sắc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lâp cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho các dân tộc khác. Đồng thời thể hiện sự kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Leenin của Người.
Trong giai đoạn hiện nay Đảng va Nhà nước ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và luôn vận dụng một cách sáng tạo.
Nhìn lại 20 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội X của Đảng rút ra 5 bài học lớn. Bản lĩnh chính trị của Đảng, được khẳng định là bài học thứ nhất: "trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng"(1). Như vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chính trị không thay đổi, dù trong bất cứ giai đoạn nào, hoàn cảnh nào của cách mạng Việt Nam.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và bài học mẫu mực của Cách mạng Tháng Mười Nga, vấn đề độc lập dân tộc của Việt Nam được Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"(2). Nhờ có quan điểm đúng về sự gắn bó và chi phối lẫn nhau giữa hai nhiệm vụ và hai giai đoạn cách mạng này mà sự nghiệp độc lập dân tộc của cách mạng Việt Nam mới giành thắng lợi triệt để và trọn vẹn.
Sau 20 năm đổi mới, bài học đầu tiên được Đảng ta rút ra cũng chính là vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một sự thật khách quan là, quan điểm chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội soi sáng cách mạng Việt Nam hơn 77 năm qua, xuất phát trực tiếp từ tư tưởng Hồ Chí Minh, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Một lần nữa khắc sâu bài học về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khi chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đã thuộc về nhân dân ta hơn 30 năm, công cuộc đổi mới qua 20 năm, càng khẳng định bản lĩnh chính trị đúng đắn, vững vàng của Đảng ta về kiên định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong giai đoạn mới.
Công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta là tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, trong điều kiện mới. Độc lập dân tộc lúc này, đối với chúng ta, chính là sự vươn lên để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, khẳng định vị thế của Việt Nam bình đẳng với tất cả các quốc gia dân tộc khác trên thế giới, ở mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học... Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điều kiện cơ bản để bảo vệ nền độc lập dân tộc một cách thực tế, vững chắc trong hội nhập kinh tế quốc tế rất phức tạp và đầy rẫy nguy cơ mất còn hiện nay. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã sớm cảnh báo tới nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ ảnh hưởng không tốt tới an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc và nền độc lập của đất nước.
Đổi mới để phát triển và phát triển để đổi mới mạnh mẽ và vững chắc hơn là nhận thức căn bản và biện chứng về quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc. Tập trung cho tăng trưởng mạnh kinh tế trong thời kỳ quá độ chính là làm cho cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ngày một nhiều hơn trên thực tế; do đó, càng có điều kiện thuận lợi hơn trong công tác bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định trong phát triển kinh tế thị trường có ý nghĩa căn bản đảm bảo cho nền kinh tế vừa phát triển theo quy luật một cách đúng hướng vừa làm điều kiện nền tảng giải quyết những vấn đề xã hội bền vững.
Thực tế 20 năm đổi mới, một lần nữa cho thấy, nền độc lập dân tộc càng được bảo vệ vững chắc thì hiệu quả công cuộc xây dựng chế độ mới ngày càng cao. Đến lượt nó, công cuộc xây dựng xã hội mới có hiệu quả càng là điều kiện quan trọng thiết thực bảo vệ nền độc lập dân tộc vững vàng. Nhờ xác định đúng mối quan hệ này và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế nên cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong cả đối nội và đối ngoại.
Bài học của Đại hội X về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sau 20 năm đổi mới, là sự trung thành và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay:
Càng đổi mới, chúng ta càng nhận thức đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về phát triển kinh tế, chuyển mạnh từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về bản chất, đây là sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ tất yếu khách quan, nên Người chủ trương, sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, chúng ta chọn con đường rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng phải trải qua thời kỳ quá độ. Cách đi này được Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa...
Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội..."(3).
Quan niệm tiến dần lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhận thức rằng, thời kỳ quá độ là một chặng tiến gần và trực tiếp với chủ nghĩa xã hội, nhưng nó là một giai đoạn độc lập tương đối. Đó là thời kỳ xã hội đang từ bỏ những cái cũ, cái lạc hậu và bước đầu xây dựng những cái mới, cái tiến bộ. Nó hoàn toàn chưa phải là thời kỳ hàm chứa toàn vẹn những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Người nói, ta bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, không qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa với nghĩa là bỏ qua một phương thức sản xuất, một hình thái kinh tế - xã hội, một chế độ chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ xây dựng chế độ dân chủ mới, trong đó, về chính trị, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; về kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần.
Như vậy, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ phát triển kinh tế nhiều thành phần. Quan điểm này đã được chúng ta thực thi từ khởi sự đổi mới (1986) và ngày một hoàn thiện nó. Đại hội X khẳng định trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và năm thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Ở đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển; kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Hồ Chí Minh rất coi trọng các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản và xác định vị trí kinh tế - xã hội to lớn của nó trong thời kỳ quá độ. Người cho rằng, nếu ta khéo lãnh đạo, khéo tổ chức thì giai cấp tư sản cũng có thể theo chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Về bản chất, đây là thời kỳ phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Muốn vậy, phải tập trung phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng triệt để sức sản xuất; quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Đại hội đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường, thể hiện trên bốn tiêu chí lớn:
- Về mục tiêu, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
- Về cơ cấu, phát triển đồng bộ các thành phần và khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Về định hướng xã hội và phân phối, phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
- Về lĩnh vực quản lý, phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước là yếu tố quan trọng bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế hiện nay ở nước ta. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, Đại hội X chỉ rõ Nhà nước phải tập trung làm tốt các chức năng:
- Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
- Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển.
- Hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội.
- Bảo đảm tính bền vững tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Về văn hóa xã hội, con người, một lần nữa, Đại hội X làm rõ và vận dụng đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với năm quan điểm chỉ đạo cơ bản mang tính chiến lược trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà trong thời kỳ quá độ. Đồng thời Đại hội X cũng xác định, phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội là một trong những nhiệm vụ lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng
Đại hội X khẳng định: Đảng ta "Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh... Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng"(4), với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa:
- Kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và sáng tạo; trong quá trình đổi mới, phải luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng. Đây chính là bản lĩnh chính trị của Đảng trung thành với quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo cách mạng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đổi mới công tác xây dựng Đảng. Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê bình và phê bình; giữ gìn và tăng cường xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đấu tranh kiên quyết với những phần tử cơ hội thực dụng... Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn; xác định thẩm quyền, trách nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
- Đảng chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ. Đặc biệt, coi trọng xây dựng hạt nhân lãnh đạo, trọng dụng nhân tài mà Hồ Chí Minh hằng quan tâm.
- Tăng cường gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích chính đáng của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công chức luôn thực sự là công bộc của nhân dân như Hồ Chí Minh đã dạy.
- Để làm trong sạch Đảng và bộ máy công quyền, tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát - chức năng và phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp thời mọi sai phạm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát kết quả công tác, năng lực và phẩm chất của cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nhìn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong những giai đoạn đã qua và nhìn rộng ra tình hình thế giới ở thập niên cuối của thế kỉ XX, chúng ta dễ dàng nhận thấy đâu là nguyên nhân dẫn đến thắng lợi, đâu là nguyên nhân dẫn đến sự tan rã, sụp đổ, đến chiến tranh dân tộc, xung đột sắc tộc…chúng ta càng trân trọng và tự hào biết bao với di sản tư tưởng lí luận quý báu mà Hồ Chí Minh đẻ lại cho Đảng và cho dân tộc.
Suốt đời mình, Hồ Chí Minh đã kiên trì và nhất quán đi theo con đường đã lựa chọn. Dưới ngon cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành được những thắng lợi lịch sử có tầm thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: Học tập và làm theo chủ nghĩa Mác – Lênin là học tập cái tinh thần cách mạng và khoa học, cái tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác – Leenin, để giải quyết cho tốt những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới hiện nay, tức là phải luôn luôn biết gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, làm phong phú them lý luận. Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ ra rằng: khi nào chúng ta đứng vững trên tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, biết học tập có chọn lọc và cải tiến kinh nghiệm của các nước, khi đó chúng ta thành công, nếu ngược lại là không tránh khỏi sai lầm và thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng chói về mặt đó. Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh là con người của độc lập, tự chủ đổi mới và sáng tạo. Luôn xuất phát từ thực tế, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mòn, không ngừng đổi mới và sáng tạo, đó là nét đặc sắc nhất của tinh thần Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31535.doc