MỤC LỤC
A-PHẦN MỞ ĐẦU
B-NỘI DUNG
I/ SƠ LƯỢC VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1/ Khái niệm giai cấp công nhân
2/ Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam
II/ VÌ SAO GIAI CẤP CÔNG NHÂN VN LÀ GIAI CẤP DUY NHẤT CÓ ĐỦ ĐIỀU KIỆN LÃNH ĐẠO CMVN ĐẦU THỂ KỶ XX
1/ Sứ mệnh lịch sử của GCCN và giai cấp công nhân Việt Nam
2/ Vì sao giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức thông có đủ điều kiện lãnh đạo CMVN đầu thế kỷ XX
III/ ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT ĐỀ GCCN VN LÀ GIAI CẤP DUY NHẤT CÓ ĐỦ ĐIỀU KIỆN LÃNH ĐẠO CMVN ĐẦU THẾ KỶ XX. ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT ĐỂ GCCN VN LÃNH ĐẠO ĐƯỢC CMVN.
1/ Điều kiện khách quan để khẳng định duy nhất giai cấp công nhân có đử kiều kiện lãnh đạo CMVN đầu thế kỷ XX
2/ Điều quan trọng nhất để GCCN VN lãnh đạo được CMVN
C- KẾT LUẬN
A-PHẦN MỞ ĐẦU
Qua nghiên cứu và phân tích quy luật kinh tế của sự vận động trong xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác -Lê nin đã khẳng định tính tất yếu của sự diệt vong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà lực lượng duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng thực hiện bước chuyển biến lịch sử này là giai cấp công nhân. Cuộc cách mạng này là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa khác về chất so với tất cả các cuộc cách mạng khác trong lịch sử, nó xoá bỏ hoàn toàn chế độ áp bức, bóc lột, bất công để từng bước xây dựng hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời cũng không đứng ngoài nhiệm vụ chung của giai cấp công nhân thế giới nó cũng đạm nhiệm vai trò sứ mệnh lịch sử là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc đưa nước thoái khỏi sự áp bức, bóc lột để tiến lên xây dựng một xã hội mới đó là xã hội xã hội chủ nghĩa
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 7894 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích, trình bày về nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nói chung và giai cấp công nhân Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A-PHẦN MỞ ĐẦU
B-NỘI DUNG
I/ SƠ LƯỢC VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1/ Khái niệm giai cấp công nhân
2/ Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam
II/ VÌ SAO GIAI CẤP CÔNG NHÂN VN LÀ GIAI CẤP DUY NHẤT CÓ ĐỦ ĐIỀU KIỆN LÃNH ĐẠO CMVN ĐẦU THỂ KỶ XX
1/ Sứ mệnh lịch sử của GCCN và giai cấp công nhân Việt Nam
2/ Vì sao giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức thông có đủ điều kiện lãnh đạo CMVN đầu thế kỷ XX
III/ ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT ĐỀ GCCN VN LÀ GIAI CẤP DUY NHẤT CÓ ĐỦ ĐIỀU KIỆN LÃNH ĐẠO CMVN ĐẦU THẾ KỶ XX. ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT ĐỂ GCCN VN LÃNH ĐẠO ĐƯỢC CMVN.
1/ Điều kiện khách quan để khẳng định duy nhất giai cấp công nhân có đử kiều kiện lãnh đạo CMVN đầu thế kỷ XX
2/ Điều quan trọng nhất để GCCN VN lãnh đạo được CMVN
C- KẾT LUẬN
A-PHẦN MỞ ĐẦU
Qua nghiên cứu và phân tích quy luật kinh tế của sự vận động trong xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác -Lê nin đã khẳng định tính tất yếu của sự diệt vong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà lực lượng duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng thực hiện bước chuyển biến lịch sử này là giai cấp công nhân. Cuộc cách mạng này là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa khác về chất so với tất cả các cuộc cách mạng khác trong lịch sử, nó xoá bỏ hoàn toàn chế độ áp bức, bóc lột, bất công để từng bước xây dựng hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời cũng không đứng ngoài nhiệm vụ chung của giai cấp công nhân thế giới nó cũng đạm nhiệm vai trò sứ mệnh lịch sử là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc đưa nước thoái khỏi sự áp bức, bóc lột để tiến lên xây dựng một xã hội mới đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
B-NỘI DUNG
I/ SƠ LƯỢC VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1/ Khái niệm giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để diễn đạt giai cấp công nhân như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp…Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì nó cũng thể hiện hai thuộc tính cơ bản: Thứ nhất là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Thứ hai là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư, chính thuộc tính này đã biến giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản và dựa vào đây mà C.Mác và Ph.Ăng ghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản trong xã hội tư bản.
Những quan điểm của C. Mác và Ph. ăngghen về hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để cho chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Căn cứ hai thuộc tính cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
2/ Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam
Với chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỷ XX, trước cả sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của đế quốc Pháp, cho nên nó cũng có địa vị kinh tế xã hội, có sứ mệnh lịch sử và những đặc điểm như giai cấp công nhân quốc tế. Nhưng do sinh ra và lớn lên trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam nên ngoài những đặc điểm chung đó, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng của mình.
- Giai cấp công nhân Việt Nam kế thừa đặc tính cần cù sáng tạo trong lao động của dân tộc và truyền thống yêu nước do họ sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. ở giai cấp công nhân, nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì bị áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp là một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân nhân lên gấp bội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản, sớm tiếp thu được lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng Sản lãnh đạo nên sớm giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của mình, họ đã nhanh chóng trở thành giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc tác để nhân dân ta dễ tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin và đi theo con đường cách mạng của giai cấp công nhân.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau thời điểm chủ nghĩa cơ hội của Quốc tế II bị phá sản, sau sự thành công cách mạng tháng Mười Nga và được Quốc tế cộng sản chỉ đạo, do vậy giai cấp công nhân nước ta không bị ảnh hưởng các khuynh hướng xã hội cải lương và thống nhất được lực lượng cả nước
- Giai cấp công nhân phần lớn xuất thân từ nông dân lao động và những tầng lớp lao động khác nên gắn bó mật thiết với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, hình thành khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế và đã nhận được sự giúp đỡ mọi mặt của giai cấp công nhân quốc tế.
- Giai cấp công nhân Việt Nam từ khi ra đời, nhất là từ khi có chính Đảng của mình đã trở thành lực lượng chính trị tiên phong đi đầu trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và hoàn thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và đang tiến hành xây dựng CNXH.
II/ VÌ SAO GIAI CẤP CÔNG NHÂN VN LÀ GIAI CẤP DUY NHẤT CÓ ĐỦ ĐIỀU KIỆN LÃNH ĐẠO CMVN ĐẦU THỂ KỶ XX
1/ Sứ mệnh lịch sử của GCCN và giai cấp công nhân Việt Nam.
Lịch sử phát triển của thế giới là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp luôn có mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu; biểu hiện ra ngoài xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp lao động.
Trong sự một hình thái kinh tế xã hội, luôn tồn tại một giai cấp trung tâm, có nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện như: là giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp có hệ tư tưởng độc lập; giai cấp này phải tiến hành thuyết phục tập hợp và tổ chức quần chúng làm cách mạng. Và tiến hành xoá bỏ chế độ xã hội cũ; xây dựng hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn. Khi nghiên cứu về các giai cấp, tầng lớp trong hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra các kết luận:
Một là: giai cấp tư sản trong chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn, với lực lượng sản xuất bằng tất cả các xã hội trước để lại, tạo ra năng xuất lao động cao hơn nhiều. Do đó giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò tích cực trong lịch sử là tạo năng suất lao động cao.
Hai là: khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá cao, xuất hiện mâu thuẫn về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mà tập trung là sở hữu tư bản chủ nghĩa, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất như cũ thì xuất hiện giai cấp mới để giải phóng quan hệ sản xuất cũ, đó chính là giai cấp công nhân.
Ba là: việc giai cấp công nhân đứng lên đấu tranh để giải phóng giai cấp, điều đó không có nghĩa chỉ giải phóng giai cấp mà tập trung giải phóng xã hội và giải phóng con người vì giai cấp công nhân có lợi ích phù hợp với nhân dân lao động, với dân tộc và với nhân loại.
Từ những kết luận của C.Mác và Ph.Ăngghen và những khẳng định về giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến cách mạng, từ hình thái kinh tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình thức bóc lột. Hay nói cách khác, đó chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
- Trong lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu tư liệu sản xuất, nâng cao năng suất lao động thoả mãn từng bước nhu cầu phát triển của nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong lĩnh vực này chỉ rõ mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân, thoả mãn nhu cầu ngày càng đầy đủ hơn: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Do đó nó cần phải được thực hiện một cách lâu dài, gian khổ, trải qua từng bước cụ thể. Xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất; xây dựng chế độ công hữu là quá trình phù hợp nhưng phải dần dần từ từ.
- Trong lĩnh vực chính trị: giai cấp công nhân phải trở thành giai cấp thống trị trong xã hội. Đó là phải đập tan chính quyền tư sản; xây dựng chính quyền nhà nước(nền chuyên chính vô sản): thực chất là để đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, giữ vai trò quan trọng là công cụ xây dựng xã hội mới, là kiểu nhà nước: nhà nước nửa nhà nước và nhà nước tự tiêu vong.
- Trong lĩnh vực xã hội đó là: phải tiến hành xoá bỏ giai cấp bóc lột; phải tiến hành xoá bỏ giai cấp nói chung, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. Ở đây xoá bỏ giai cấp bóc lột với tư cách là giai cấp chứ không xoá bỏ các cá nhân vì họ có thể là những cá nhân có ích trong xã hội mới. Có thể nói nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm bốn sự nghiệp. Đó là sự nghiệp giải phóng giai cấp; sự nghiệp giải phóng xã hội, dân tộc; sự nghiệp giải phóng người lao động; và sự nghiệp giải phóng con người. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải được thực hiện trên toàn thế giới.Và để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, nên những người cộng sản phải kiên trì, không nóng vội, nó phải được tiến hành hai giai đoạn: tập trung lực lượng để giành chính quyền và tập trung lực lượng để xây dựng chế độ xã hội mới.
Đánh giá về vị trí vai trò của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác Lênin xác định giai cấp công nhân chính là giai cấp có sứ mệnh lịch sử hết sức to lớn là xoá bỏ chế độ bóc lột TBCN, thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ xã hội TBCN lên xã hội XHCN và Cộng sản chủ nghĩa. Ph. Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”. V.I. Lênin cũng chỉ rõ: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”.
Đối với nước ta thì ngay từ khi mới ra đời giai cấp công nhân Việt Nam cũng đã phải đảm nhiệm vai trò sứ mệnh lịch sử của mình, trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, phát huy sức mạnh của dân tộc và sức mạnh giai cấp đưa cách mạng dân tộc dân chủ đến thắng lợi thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam và đội tiên phong của nó đã lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được những thành tựu như xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng cơ sơ vật chất ban đầu của chủ nghĩa xã hội, giải quyết tốt các vấn đề xã hội như văn hoá, giáo dục, y tế v.v.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng để hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
2/ Vì sao giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức nước ta không có đủ điều kiện lãnh đạo CMVN đầu thế kỷ XX
Theo quan điểm của Mác “Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống của họ với tính cách là những tầng lớp trung đẳng. Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ. Thậm chí, hơn thế nữa, họ lại là phản động: họ tìm cách làm cho bánh xe lịch sử quay ngược trở lại. Nếu họ có thái độ cách mạng thì cũng chỉ trong chừng mực là họ thấy họ sẽ phải rơi vào hàng ngũ giai cấp vô sản: lúc đó, họ bảo vệ lợi ích tương lai của họ, chứ không phải lợi ích hiện tại của họ, họ từ bỏ quan niệm của chính họ để đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản.”
- Giai cấp nông dân nước ta là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... trực tiếp sử dụng một tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất ra nông sản. Nông dân có phương thức sản xuất phân tán, năng suất thấp. Giai cấp nông dân, không đại diện cho một lực lượng sản xuất - phương thức sản xuất tiên tiến, về quan hệ sản xuất: tư hữu nhỏ về điều kiện tự nhiên dẫn đến sự phân hóa về mặt xã hội, do đó phân tán trong hành động, đó chính là mâu thuẫn. Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Họ vốn có cơ cấu không thuần nhất, không có sự liên kết chặt chẽ cả về kinh tế và cả về tư tưởng, tổ chức. Trong một nước nông nghiệp thì họ là lực lượng chính trị - xã hội đông đảo nhất và khi được giác ngộ họ trở thành lực lượng cách mạng to lớn nhất trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Đội ngũ trí thức nước ta là những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, có trình độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động trong lĩnh vực lao động của mình. Họ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng khoa học, văn học, nghệ thuật, lãnh đạo và quản lý... Đội ngũ trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ thuộc vào giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.
Từ những lý do trên chúng ta khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo CMVN đầu thế kỷ XX.
III/ ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT ĐỂ GCCN VN LÃNH ĐẠO ĐƯỢC CMVN.
1/ Điều kiện khách quan để khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo CMVN đầu thế kỷ XX
Xuất phát từ quan điểm chung của Chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lich sử của giai cấp công nhân.
Thứ nhất là do địa vị kinh tế-xã hội khách quan quy định. Giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản và là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình.
Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó là khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản.
Thứ hai là do đặc điểm chính trị-xã hội quy định giai cấp công nhân mà những giai cấp khác không thể có được, đó là giai cấp tiên phong cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Vì họ đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Là giai cấp được trang bị bởi lý luận khoa học, cách mạng và luôn luôn đi đầu trong mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ nhờ đó mà họ có thể tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp khác vào phong trào cách mạng
Giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao nhất: Vì là sản phẩm của nền đại công nghiệp nên giai cấp này được tôi luyện trong môi trường lao động công nghiệp ngày càng hiện đại cũng như trong cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến trước đây cũng như chống giai cấp tư sản ngày nay.
Giai cấp công nhân còn mang bản chất quốc tế bởi vì giai cấp tư sản không chỉ bóc lột giai cấp vô sản trong nước mà còn bóc lột giai cấp vô sản ở các nước khác. Cho nên muốn chiến thắng giai cấp tư sản buộc giai cấp công nhân phải liên minh quốc tế.
Ngoài những điều kiện khách quan chung quy định sư mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thì giai cấp công nhân Việt nam cũng còn có những điều kiện khách quan riêng để khẳng định là giai cấp duy nhất lãnh đạo được CMVN đầu thế kỷ XX đó là:
- Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Ở giai cấp công nhân, nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong không khí sôi sục của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp liên tục nổ ra như: phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, các cuộc vận động yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, v.v. đã có tác dụng to lớn đối với việc cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và quyết tâm đập tan xiềng xích nô lệ của toàn thể nhân dân ta. Nhưng tất cả các phong trào ấy đều thất bại và sự nghiệp giải phóng dân tộc đều lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối.
- Vào lúc đó, phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ, thắng lợi và ảnh hưởng đến phong trào dân tộc dân chủ ở nước khác, nhất là ở Trung Quốc, trong đó có phong trào cách mạng ở nước ta. Tấm gương cách mạng Nga và phong trào cách mạng ở nhiều nước khác đã cổ vũ giai cấp công nhân non trẻ Việt Nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh lãnh đạo cách mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc tác khích lệ nhân dân ta lựa chọn, tiếp nhận con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và đi theo con đường cách mạng của giai cấp công nhân. Từ đó giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ nông dân lao động và những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ tự nhiên với đông đảo nhân dân lao động bị mất nước, sống nô lệ nên cũng là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng nên khối liên minh công nông vững chắc và khối đoàn kết dân tộc rộng rãi bảo đảm cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta.
2/ Điều quan trọng nhất để GCCN VN lãnh đạo được CMVN
Ngay từ khi mới ra đời, bản thân giai cấp công nhân Việt Nam đã không ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng. Về số lượng chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu, các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú phát triển. Về chất lượng, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn, về khoa học công nghệ và tay nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thông qua các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp và cao nhất là dẫn đến hình thành đảng tiên phong là Đảng Cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp công nhân đã từ chỗ là “giai cấp tự nó” (tức là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là “giai cấp vì nó” (tức giai cấp tự giác). Vì thế, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của Đảng Cộng sản.
Có áp bức giai cấp thì tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp. Ngay từ khi mới ra đời giai cấp công nhân đó tiến hành những cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Những cuộc đấu tranh ban đầu diễn ra lẻ tẻ, mang tính tự phát vì mục đích kinh tế như đập phá máy móc, đòi cải thiện điều kiện làm việc v.v do thiếu lý luận cách mạng dẫn đường, tổ chức tiên phong lãnh đạo nên đều thất bại.
Sự phát triển của phong trào công nhân ngày càng mở rộng, phát triển từ thấp đến cao đòi hỏi phải có lý luận tiên tiến dẫn đường và tổ chức tiên phong lãnh đạo. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được đòi hỏi của phong trào công nhân, xâm nhập vào phong trào công nhân, được công nhân tiếp thu nhanh chóng trở thành hệ tư tưởng, vũ khí lý luận của giai cấp công nhân.
Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng của nó mới thật sự là một phong trào chính trị. Trình độ lý luận đó cho phép giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng nhân loại. Phải có chủ nghĩa Mác soi sáng, giai cấp công nhân mới đạt tới trình độ nhận thức lý luận về vai trò lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính Đảng của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản là đội tiên phong, là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản bao gồm những phần tử tiên tiến nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đấu tranh một cách triệt để và trung thành vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Lịch sử Việt Nam cũng chứng minh rằng, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời chưa được bao lâu ngay cả khi nó chưa có Đảng mà đã tổ chức một cách tự phát nhiều cuộc đấu tranh chống bọn tư bản thực dân như. Cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn năm 1922. Năm 1927 có gần chục cuộc bãi công với hàng trăm người tham gia. Năm 1928-1929 có nhiều cuộc bãi công khác với hàng nghìn người tham gia, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của công nhân xi măng Hải Phòng, sợi Nam Định, xe lửa Trường Thi (Vinh), AVIA (Hà Nội), Phú Riềng (Bình Phước)... Những cuộc đấu tranh như thế không chỉ giới hạn trong công nhân mà còn tác động sâu sắc đến các tầng lớp khác, đặc biệt là đến giai cấp nông dân, các tầng lớp nhân dân lao động, thanh niên, sinh viên làm cho bọn thống trị thực dân hoảng sợ.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta vào đầu năm 1930 của thế kỷ XX. Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác và thực sự cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh đạo là nói đến toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng nhóm, từng người. Để có thể lãnh đạo, giai cấp công nhân phải có lực lượng, có tổ chức tiêu biểu cho sự tự giác và bản chất giai cấp của mình. Lực lượng đó là Đảng Cộng sản. Xét về thành phần xuất thân thì nước ta có nhiều đảng viên không phải là công nhân. Nhưng, bất cứ đảng viên nào cũng phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác-Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Điều này được Đảng ta khẳng định rất rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Đảng của giai cấp công nhân nước ta đã lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và đang tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ lịch sử khó khăn, phức tạp nhất.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, đội ngũ công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và lao động trí óc hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp và dịch vụ thuộc các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay thuộc khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài, tạo thành một lực lượng giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước ta, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh hình thành, điều kiện kinh tế - xã hội quy định, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những nhược điểm (như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay nghề còn thấp...). Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng ta, một Nghị quyết gắn trực tiếp vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng phát triển giai cấp công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay là: “Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình”.
C/ KẾT LUẬN
Tóm lại, qua việc phân tích, trình bày về nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nói chung và giai cấp công nhân Việt Nam. Chúng ta khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất có đử điều kiện lãnh đạo CMVN đàu thề kỷ XX.Vì vậy hiểu rõ về giai cấp công nhân, đặc biệt hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là điều hết sức quan trọng trong nhận thức thức mỗi chúng ta, từ đó giúp mỗi người có một cái nhìn, một nhận thức đúng đắn hơn trong từng giai cấp xã hội nói chung cũng như giai cấp công nhân nói riêng, để qua đó mỗi người cần lỗ lực nâng cao ý thức trách nhiệm về giai cấp công nhân cũng như nâng cao tri thức bản thân.
Công cuộc đổi mới đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là bằng chứng một lần nữa chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò không có lực lượng xã hội nào có thể thay thế được trong sự nghiệp cách mạng.
Trong tình hình xã hội nước ta hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang cố gắng thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đồng thời Đảng và nhà nước đã và đang nâng cao trình độ giai cấp công nhân để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Để nâng cao trình độ nhận thức mỗi người dân nước ta cũng như giai cấp công nhân Việt Nam thì vấn để cấp thiết là tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai cấp công nhân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994
2. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 2006
3. Giáo Trình Những Nguyên Lý Cơ Bản Của Chủ Nghĩa Mác-Lê Nin, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà nội 2009
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_menh_lich_su_gccn__4349.doc