Để có thể phát triển một hệ thống thị trường kiện toàn hoàn thiện được hay không, là một việc lớn liên quan đến việc kiến lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của nước ta. Căn cứ yêu cầu của kết cấu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ hiện trạng lớn lên của hệ thống thị trường của nước ta hiện nay, chúng ta phải áp dụng một loạt biện pháp, đẩy nhanh tiến trình phát triển của hệ thống thị trường của nước ta, để nhanh chóng bồi dưỡng chăm sóc hình thành một hệ thống thị trường kiện toàn, hoàn thiện.
Thứ nhất, phải tiếp tục phát triển các loại thị trường, kiến lập kết cấu thị trường đầy đủ, do một đặc điểm quan trọng của hệ thống thị trường là tính chỉnh thể, là cơ cấu chỉnh thể do nhiều loại thị trường hợp thành, vì thế bồi dưỡng và phát triển hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa, trước hết phải coi trọng việc bồi dưỡng chăm sóc các thị trường bộ phận, đúng với hiện trạng mới ra đời, còn non yếu và phát triển chậm, thậm chí nhiều chỗ còn có những biểu hiện tụt hậu, không hợp logíc phát triển. Trong đó, đặc biệt phải lấy việc phát triển thị trường các yếu tố sản xuất: tư bản, sức lao động, thông tin, kỹ thuật, bất động sản. làm trọng điểm. Đương nhiên, kết cấu hệ thống thị trường đầy đủ không thể phát triển một cách biệt lập, nó đòi hỏi Nhà nước phải thông qua việc thực hiện cải cách thể chế một cách tổng hợp, đồng bộ. Phải thông qua cải cách chế độ sử dụng công nhân lao động, kiến lập chế độ lao động - việc làm thực hiện sự chọn lựa hai chiều và sức lao động lưu động hợp lý, toàn diện mở cửa thị trường sức lao động; thông qua cải cách thể chế tài chính - ngân hàng, mở cửa và khai thác các loại hình thị trường vốn; thông qua cải cách thể chế khoa học kỹ thuật, phát triển thị trường kỹ thuật tin học; thông qua cải cách thể chế lưu thông vật tư, hoàn thiện thị trường tư liệu sản xuất; thông qua cải cách thể chế quản lý thương nghiệp, mở ra và làm sống động thị trường hàng tiêu dùng hơn nữa.
Thứ hai, phải thúc đẩy cải cách giá cả, xác lập cơ chế hình thành giá cả thị trường hợp lý và thể chế quản lý giá cả tương ứng với nó - đó là mấu chốt để hệ thống thị trường hình thành và vận hành thông suốt. Bồi đắp hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa, phải tuân theo yêu cầu của quy luật giá trị, đi sâu cải cách giá cả, làm cho cơ chế giá cả có thể nhạy bén phản ánh giá trị hàng hóa và sự cung cầu của thị trường, phát huy đầy đủ tác dụng hướng dẫn và điều tiết của nó trong việc lưu chuyển và phân bổ các nguồn lực kinh tế. Vì thế, các doanh nghiệp với tư cách là người sản xuất, là chủ thể của việc hình thành giá cả phải có quyền định giá cho những hàng hóa do họ sản xuất ra; ngoài một số hàng hóa và dịch vụ trọng yếu do nhà nước quản lý ra, thì các sản phẩm phải do thị trường hình thành và quyết định; nhà nước chủ yếu vận dụng các chính sách và đòn bẩy kinh tế, thông tin giá cả, điều chỉnh các tham số kinh tế. thực hiện sự điều hành vĩ mô một cách gián tiếp đối với việc hình thành giá cả.
Trải qua nhiều năm nỗ lực, công cuộc cải cách giá cả của nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật, giá cả hàng tiêu dùng đã phản ánh khá chính xác quan hệ cung – cầu, thị trường hóa giá cả các yếu tố sản xuất cũng đã bắt đầu. Nhưng đồng thời chúng ta cũng cần thấy được, hệ thống giá hiện nay đang có khuynh hướng ngăn cản tình hình thị trường hóa các yếu tố sản xuất, ngăn cản khuynh hướng tập trung vốn đầu tư trong nước. Do cơ chế điều tiết và hình thành giá cả vẫn chưa kiện toàn, nên đi sâu cải cách giá cả vẫn là nhiệm vụ quan trọng trước mắt chúng ta.Với việc đảm bảo giữ được tổng mức giá cả tương đối ổn định, thả nổi giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ có tính cạnh tranh, điều chỉnh hợp lý giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ do chính phủ định giá; nhanh chóng hình thành thị trường các yếu tố sản xuất; kiến lập và hoàn thiện chế độ dự trữ một số ít hàng hóa trọng yếu có liên quan đến quốc kế dân sinh, kiềm chế giá cả thị trường.
30 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới nay.
Sự trao đổi hàng hóa và thị trường từ xưa đã có, có thể nói đó là hiện tượng kinh tế chung của mọi dân tộc ngay từ thời kỳ loài người bước vào ngưỡng cửa của văn minh. Theo cách nói của Ăngghen, lịch sử của thị trường ở Ai Cập có thể tìm ngược lên khoảng 6.000 năm, ở Ba-bi-lon có thể tới hơn 7.000 năm. Song cái được Mác gọi là kinh tế thị trường – tức "kinh tế tiền tệ", của cái quan hệ trao đổi phát triển hoặc của chế độ sản xuất lấy trao đổi làm cơ sở, tức là con đẻ của giai đoạn phát triển cao của lịch sử, thì không chỉ dừng lại ở khái niệm thị trường thuần tuý, do vậy phải phân biệt nó với khái niệm "kinh tế thị trường" – chúng vừa có liên hệ với nhau lại vừa phân biệt với nhau về lịch sử và lôgíc.
Sự chuyển hoá từ thị trường sang kinh tế thị trường là quá trình lịch sử đan xen giữa tính tiệm tiến và tính nhảy vọt. Về mặt lịch sử thế giới, từ chế độ công hữu nguyên thủy tan rã, xu hướng thị trường ban đầu đến "thế giới hiện đại mà quan hệ trao đổi khống chế toàn bộ sản xuất và giữa một số hình thái xã hội như vậy" lại có một loạt chế độ kinh tế, cách nhau nhiều giai đoạn trung gian, tồn tại nhiều lớp. Tính lâu dài, tính tiệm tiến, của việc hình thành kinh tế thị trường biểu hiện ở đó. Kết quả tích lũy mấy nghìn năm của thị trường đã đưa đến một cuộc đổi mới mang tính lịch sử – từ thị trường, kinh tế thị trường ra đời. Như vậy xuất phát điểm cho cuộc biến đổi về chất này là ở đâu? Tiền đề chuyển hoá, động lực hoặc tiêu chí phản ánh sự biến đổi đó là cái gì? Đối với vấn đề này, Mác khẳng định: "Tất cả sản phẩm và hoạt động chuyển hoá thành giá trị trao đổi, vừa phải lấy sự tan rã của mọi mối quan hệ mà con người phải dựa vào một cách cố định trong sản xuất làm tiền đề, vừa phải lấy sự dựa dẫm vào nhau một cách toàn diện giữa những người sản xuất làm tiền đề. Sản xuất của mỗi người dựa vào sản xuất của mọi người; cũng như vậy, sản phẩm của nó chuyển hoá thành tư liệu sinh hoạt của bản thân nó, cũng phải dựa vào sự tiêu dùng của tất cả mọi người. Giá cả từ xưa đã có, trao đổi cũng vậy. Song giá cả ngày càng do chi phí sản xuất quyết định, trao đổi thâm nhập vào mọi quan hệ sản xuất, tất cả những cái đó chỉ được phát triển đầy đủ và ngày càng đầy đủ hơn trong xã hội tư sản, trong xã hội tự do cạnh tranh. Hiện thực của thế kỷ XVIII mà Adam Smith dựa theo được xếp vào những thứ của thời kỳ tiền sử, những cái trước lịch sử chính lại là con đẻ của lịch sử"(1) C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 46, tr 102.
.
Sự chuyển hóa các quan hệ kinh tế từ thị trường hướng vào thị trường, sớm nhất xuất hiện vào đầu thời kỳ xác lập chủ nghĩa tư bản Tây Âu khoảng thế kỷ XVII. Tiền đề lịch sử và cơ chế nội tại của quá trình đó đồng thời phản ánh đặc trưng bản chất chung của kinh tế thị trường và có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, con người được giải phóng ra khỏi mọi quan hệ ràng buộc cố định phi kinh tế, trở thành chủ thể kinh tế độc lập.
Thứ hai, sự phát triển đầy đủ của phân công xã hội, lao động chuyên môn hoá, sản xuất thương phẩm hóa, gây nên tính phụ thuộc vào xã hội ngày càng chặt chẽ của các chủ thể kinh tế cá biệt.
Thứ ba, hoạt động trao đổi cùng với dịch vụ trao đổi trên thị trường nhanh chóng vươn lên giữ vai trò ngày càng quan trọng thậm chí mang tính chất quyết định đối với phát triển kinh tế.
Thứ tư, hệ thống thị trường càng phát triển thì các kiểu tổ chức, chế độ – thể chế của nó càng ngày càng phức tạp, tinh tế, văn minh hơn.
1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác cho rằng, hệ thống các quan hệ kinh tế thường bao gồm ba nhóm sau: các quan hệ kinh tế – kỹ thuật, các quan hệ kinh tế – xã hội, và các quan hệ kinh tế – tổ chức. Như vậy, trong thực tế các quan hệ cơ bản đó thường được thể hiện chủ yếu ở: công nghệ – kỹ thuật sản xuất, chế độ sở hữu, và kiểu, cơ chế tổ chức quản lý.
Biểu hiện chung nhất và căn cứ trừu tượng nhất của các hình thái kinh tế - xã hội thuộc về tính xã hội của thực tiễn sản xuất và đời sống con người. Chúng chính là điều kiện tiền đề nói chung của sản xuất và đời sống con người. Tuy nhiên, chúng tương đối độc lập và không phải là một, chúng vừa là điều kiện - tiền đề, vừa là nguyên nhân - kết quả của nhau. Nếu suy đến cùng thì tính xã hội của sản xuất phải là cái có trước, nó quy đinh tính xã hội của đời sống con người.
Mọi xã hội nào đều phải là sự kết hợp hữu cơ của chúng dưới những hình thức nhất định. Song chỉ đến một trình độ phát triển nhất định nào đó của sản xuất thì chúng mới được tách ra, trở thành những hình thức độc lập, có tính phổ biến - toàn diện, do đó nó mới có thể xứng đáng là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội hoàn chỉnh. Trong toàn bộ lịch sử phát triển của mình, kiểu tổ chức kinh tế – xã hội của loài người đã, đang trải qua ba cấp độ phát triển: kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hóa và ngày nay là kinh tế thị trường. ở hình thái thứ ba, mô hình mục tiêu đã dần quay trở về khuynh hướng sử dụng lao động xã hội trực tiếp sau khi đã chọn lọc và đào thải những hình thức vật hóa và tha hóa mối quan hệ xã hội của kinh tế hàng hoá tư hữu, trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển cao và nền sản xuất xã hội hóa cao. Nó chỉ có thể trở thành hiện thực ở chủ nghĩa cộng sản trong tương lai. Nếu vậy, quan điểm phát triển kinh tế thị trường hiện nay phải được quán triệt theo khuynh hướng đó.
Kinh tế thị trường là hoạt động kinh tế hiện thực của sản xuất và trao đổi hàng hóa mà người sản xuất xã hội thực tế làm theo. Nó trực tiếp hoặc gián tiếp đặt mọi hoạt động kinh tế vào trong mối quan hệ hàng hóa, tiền tệ, thị trường. Hoạt động của kinh tế thị trường và mối quan hệ kinh tế được chế độ hóa, pháp luật hóa, hình thành một chế độ kinh tế hoàn bị. Cho nên kinh tế thị trường về bề ngoài càng là một loại cơ chế vận hành kinh tế, thể chế kinh tế. Nó coi hiệu quả kinh tế – xã hội là mục tiêu, coi lợi ích kinh tế là cơ chế khích lệ, coi cơ chế thị trường là phương thức phân bổ nguồn lực chủ yếu, coi cạnh tranh bình đẳng tự do là môi trường vận hành thị trường thống nhất.
Do kinh tế thị trường với tư cách là hình thái kinh tế, hoạt động kinh tế, quan hệ kinh tế, chế độ kinh tế và thể chế kinh tế, được hình thành đầu tiên dưới chế độ tư bản chủ nghĩa; do kinh tế hiện đại phát triển cho đến nay gắn chặt với chế độ tư bản chủ nghĩa; do những người sáng lập chủ nghĩa Mác đã từng nghĩ rằng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản sẽ xoá bỏ hàng hóa, tiền tệ, thị trường; do từ lâu nay coi nhẹ phạm trù lưu thông cùng với tính độc lập tương đối của nó đối với chế độ sở hữu, cho nên nhiều người coi kinh tế thị trường là chế độ xã hội đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cho rằng:
Thứ nhất, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa được cấu thành do ba yếu tố lớn là lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế thị trường phát triển và chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, ba yếu tố này khác nhau về tính phổ biến, tính đặc thù, tính cá biệt trên góc độ quyết định tính chất xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản trong thống nhất có bao hàm khác biệt, trong khác biệt có bao hàm thống nhất. Trong lịch sử và đời sống hiện thực, kinh tế thị trường luôn kết hợp với kiểu quan hệ sở hữu nhất định, do đó nó có tính đặc thù của chế độ xã hội đặc thù. Sự thống nhất này không loại trừ những khác biệt căn bản của kinh tế thị trường ở những chế độ sở hữu khác nhau.
Thứ ba, giữa kinh tế thị trường với chế độ tư bản chủ nghĩa là quan hệ tiền đề và kết quả, bản chất và hình thức, thủ đoạn và mục đích. Kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản có thể nói là đồng thời hình thành về mặt lịch sử, song về mặt logíc phải phân biệt, không được đồng nhất. Chỉ dựa trên chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa thì kinh tế hàng hóa mới được phát triển đầy đủ. Đối với chủ nghĩa tư bản, hàng hóa, tiền tệ, lưu thông chỉ tồn tại với tư cách là yếu tố trừu tượng cho sự tồn tại của tư bản, chính mối quan hệ giữa tư bản với lao động làm thuê mới tạo cho nó những đặc trưng thuộc về bản chất kinh tế - xã hội đặc thù. Nó hiện thân của chính mối quan hệ, chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa.
Thứ tư, Mác đã từng phê phán các quan điểm sai lầm về quan hệ giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản.
Ngoài ra, tư tưởng của Mác về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và phát triển xã hội, những đánh giá về lịch sử và vai trò của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, về vận mệnh lịch sử của kinh tế thị trường và …thì cần phải được tiếp tục đi sâu tìm tòi nghiên cứu thêm.
1.3. Thể chế kinh tế thị trường
Hệ thống thị trường là chủ thể thống nhất hữu cơ của các loại thị trường liên hệ với nhau, tác dụng lẫn nhau, nó là kết quả của sự phát triển sản xuất lớn xã hội hóa và kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa không ngừng thúc đẩy sự phát triển của sức sản xuất xã hội và nâng cao trình độ sản xuất xã hội hóa, cùng với việc sản xuất hàng hóa trở thành hình thức phổ biến của sản xuất xã hội, thị trường cũng được phát triển toàn diện, từ đó hình thành hệ thống thị trường hoàn chỉnh. Hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa là các bộ phận cơ bản của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nó là một thể tập hợp phức tạp, do nhiều loại hình thị trường khác nhau hợp thành. Nhìn từ phạm vi không gian, có thị trường khu vực, thị trường trong nước, thị trường quốc tế...; nhìn từ kết cấu thời gian, có thị trường hàng hóa hẹn ngày giao, thị trường hàng hóa hiện có...; nhìn từ trình tự lưu thông, có thị trường bán buôn, thị trường bán lẻ...
Căn cứ thuộc tính hàng hóa đưa vào thị trường, nội dung chủ yếu của hệ thống thị trường bao gồm:
Thứ nhất, thị trường hàng hóa bao gồm thị trường hàng tiêu dùng và thị trường tư liệu sản xuất
Thị trường hàng tiêu dùng là thị trường mua bán có thể cung cấp sản phẩm cuối cùng và phục vụ cho tiêu dùng cá nhân; thị trường tư liệu sản xuất là thị trường mua bán có thể cung cấp sản phẩm vật chất cho tiêu thụ sản xuất. Thị trường hàng hóa là cơ sở và chỗ dựa của hệ thống thị trường, là khởi điểm của các loại thị trường khác, trình độ phát triển của nó quyết định sự hình thành và phát triển của các thị trường khác.
Thứ hai, thị trường yếu tố sản xuất
Chủ yếu bao gồm: thị trường lưu thông tiền tệ, thị trường sức lao động, thị trường kỹ thuật, thị trường bất động sản, thị trường tin tức... Thị trường lưu thông tiền tệ còn gọi là thị trường tiền vốn, nó là tên gọi chung của các địa điểm lưu thông vốn, cơ chế lưu thông vốn và các hoạt động lưu thông vốn; thị trường sức lao động là thị trường mua bán sức lao động theo cơ chế thị trường của hai bên cung và cầu yếu tố sản xuất sức lao động; thị trường kỹ thuật là thị trường tiến hành mua bán hàng hóa kỹ thuật như các thành quả khoa học kỹ thuật, các sản phẩm khoa học kỹ thuật...; thị trường bất động sản bao gồm thị trường đất đai và thị trường nhà cửa, chuyển nhượng quyền sở hữu đất; thị trường tin tức là thị trường tiến hành mua bán hàng hóa tin tức.
Hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể hữu cơ, các loại thị trường liên hệ với nhau, nương dựa vào nhau và chế ước lẫn nhau, một loại thị trường nào đó trưởng thành không đầy đủ hoặc vận hành không thông suốt, điều đó có thể liên quan tới các thị trường khác, thậm chí ảnh hưởng đến sự phát huy công năng của cả hệ thống thị trường. Ví dụ, nếu thị trường tư liệu sản xuất trưởng thành muộn, thì thị trường hàng tiêu dùng sẽ có thể vì sự cung cấp tư liệu sản xuất không đủ mà khó có thể được phong phú, thị trường tiền vốn cũng có thể vì nhu cầu tư liệu sản xuất không đủ mà khó có thể sôi động. Tương tự, nếu không có thị trường hàng tiêu dùng cung cấp phong phú hàng tiêu dùng, không có thị trường sức lao động cung cấp đầy đủ những người lao động thành thạo, không có thị trường tiền vốn cung cấp tiền vốn đầy đủ, sự phát triển của thị trường tư liệu sản xuất cũng sẽ bị hạn chế.
Mức độ trưởng thành của thị trường là một tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của kinh tế thị trường, đồng thời cũng là điều kiện quan trọng của sự phát triển kinh tế thị trường. Trước hết, hệ thống thị trường hoàn thiện là yêu cầu bản chất của việc kiến lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Kiến lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là mục tiêu của công cuộc cải cách thể chế kinh tế của nước ta, mà thực chất của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là phải làm cho thị trường dưới sự điều hành vĩ mô của nhà nước phát huy được tác dụng có tính cơ sở của việc phân phối bố trí tài nguyên. Hệ thống thị trường hoàn thiện là cơ sở vận hành và vật dẫn vận hành trong việc phát huy tác dụng có tính cơ sở của việc phân phối bố trí tài nguyên của thị trường. Mức độ trưởng thành của hệ thống thị trường phản ánh mức độ tác dụng phân phối bố trí tài nguyên của thị trường, cũng tiêu chí cho mức độ thành thục của thể chế kinh tế thị trường. Đồng thời, bồi dưỡng và phát động hệ thống hệ thống thị trường lại là trụ cột quan trọng của việc xây lắp nên cái khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường. Chế độ doanh nghiệp hiện đại và hệ thống điều hành vĩ mô hoàn thiện là nội dung quan trọng của cái khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Còn muốn kiến lập chế độ doanh nghiệp hiện đại, làm cho doanh nghiệp trở thành người sản xuất kinh doanh hàng hóa được tự chủ kinh doanh, tự do lời lỗ, tự hối thúc mình hướngtới kỳ vọng, tự phát triển, thật sự trở thành chủ thể trong hoạt động thị trường, thì phải có hệ thống thị trường phát triển làm tiền đề. Hệ thống điều hành vĩ mô mới chủ yếu là vận dụng các chính sách kinh tế và đòn bẩy kinh tế như: tín dụng, lãi suất, tỷ giá, tài chính, thuế, tiền lương, giá cả..., thông qua việc điều tiết khống chế thị trường để hướng dẫn doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp thực hiện việc quản lý gián tiếp, đó cũng không tách khỏi hệ thống thị trường hoàn thiện.
Thứ ba, hệ thống thị trường hoàn thiện là điều kiện bên ngoài không thể thiếu được của việc chuyển đổi thể chế kinh tế .
Chuyển đổi cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp quốc doanh, tăng cường sức sống của doanh nghiệp, là khâu trung tâm của việc kiến lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mà mấu chốt của việc chuyển đổi cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp là thực hiện đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp trở thành thực thể kinh tế độc lập được tự chủ kinh doanh, tự do lời lỗ. Muốn thế phải có hệ thống thị trường thống nhất, hoàn thiện. Vì việc thực hiện các quyền tự chủ của doanh nghiệp như: quyền quyết sách kinh doanh, quyền tiêu thụ sản phẩm, quyền thu mua vật tư, quyền quyết sách đầu tư, quyền xử trí tài sản, quyền hợp nhất liên doanh, quyền về lao động nhân sự, quyền phân phối thu nhập... không tách rời thị trường các loại hàng hóa bao gồm cả thị trường tư liệu sản xuất và thị trường các yếu tố, bao gồm cả thị trường tiền vốn, kỹ thuật, sức lao động... cùng với việc hoàn thiện và phát triển thị trường tài sản với đầy đủ chức năng. Nếu không có điều kiện thị trường tương ứng, việc thực hiện đầy đủ các quyền tự chủ của doanh nghiệp cũng sẽ biến thành những lời nói suông.
Cuối cùng, hệ thống thị trường hoàn thiện là điều kiện tất yếu cho việc thực hiện điều hành vĩ mô của nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bản thân tác động của thị trường và cơ chế thị trường cũng tồn tại những khiếm khuyết như: tính chụp giật, tính mù quáng, tính tự phát, tính lũng đoạn... từ đó dẫn đến sự lãng phí tài nguyên và hoạt động kinh tế không có trật tự. Để khắc phục những khiếm khuyết đó, làm cho hoạt động của chủ thể thị trường phù hợp với mục tiêu chiến lược của phát triển kinh tế - xã hội, nhà nước phải tăng cường điều hành vĩ mô. Biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, có cái có thể tác dụng trực tiếp đến các chủ thể kinh tế, nhưng phần lớn thông qua thị trường để hướng dẫn các doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi phải có hệ thống thị trường hoàn thiện. Nếu không có hệ thống thị trường hoàn thiện, các biện pháp quản lý gián tiếp của nhà nước sẽ mất hiệu lực, kết quả là trật tự kinh tế - xã hội bị hỗn loạn. Chỉ có đẩy nhanh việc bồi dưỡng và hoàn thiện hệ thống thị trường, mới có thể kiến lập nổi hệ thống điều hành vĩ mô gián tiếp.
Mô thức mục tiêu của công cuộc cải cách thể chế kinh tế của nước ta là kiến lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, từ đó đối với hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa cũng có những yêu cầu mới cao hơn. Trong hệ thống thị trường hoàn hảo, cạnh tranh có thể triển khai đầy đủ, tín hiệu thị trường không thể bị xuyên tạc, tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển của cơ chế thị trường có thể được phát huy đầy đủ. Hệ thống thị trường không hoàn hảo, trong những điều kiện nhất định có thể sẽ "khuyếch đại" những khuyết tật của thị trường. Hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa có mấy đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tính hoàn chỉnh.
Tính hoàn chỉnh là chỉ hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa phải kết cấu hoàn chỉnh, không chỉ bao gồm thị trường hàng hóa, cũng không bao gồm thị trường các yếu tố sản xuất. Chỉ có các loại thị trường được phát triển đầy đủ, các loại hàng hóa và yếu tố sản xuất đều được đưa vào thị trường lưu thông, mới có thể thông qua tác dụng của cơ chế thị trường để thúc đẩy sự lưu động hợp lý và phân phối bố trí tài nguyên tốt nhất, làm cho chúng càng đáp ứng những nhu cầu của sản xuất xã hội tốt hơn.
Thứ hai, tính thống nhất.
Tính thống nhất là chỉ các loại thị trường ở trong nước là một thể thống nhất, các loại hàng hóa và yếu tố sản xuất tự do lưu động, hợp lý chuyển dịch trong phạm vi toàn quốc, không tồn tại sự chia cắt manh mún và phong toả khu vực. Tính thống nhất là điều kiện quan trọng cho sự cạnh tranh bình đẳng của người lao động và phân phối bố trí tài nguyên được tốt.
Thứ ba, tính mở cửa.
Tính mở cửa là chỉ thị trường không chỉ mở cửa đối với trong nước, mà còn phải mở cửa với bên ngoài, liên kết thị trường trong nước với thị trường quốc tế. ở trong nước, giao dịch thị trường phải công khai, cạnh tranh phải công bằng, đối với các chủ thể của thị trường phải đối xử như nhau. ở ngoài nước, phải mở rộng cửa, phát huy ưu thế, phấn đấu đứng vững trên thị trường quốc tế. Đa phương hoá, đa dạng hoá hợp tác thị trường, điều đó có lợi cho việc khai thác có hiệu quả các lợi thế cả ở trong nước và quốc tế ở mức lớn nhất, tham gia phân công quốc tế và cạnh tranh quốc tế, phát huy tác dụng của cơ chế thị trường ở phạm vi lớn hơn.
Thứ tư, tính cạnh tranh.
Tính cạnh tranh được nêu ở đây chủ yếu chỉ đề cập đến năng lực cạnh tranh thị trường của chúng ta phải thích ứng và phải được bảo hộ. Chỉ có thị trường cạnh tranh mới có thể thông qua tín hiệu giá cả để phản ánh tình hình cung cầu hàng hóa và mức độ khan hiếm tương đối của các loại tài nguyên, hướng dẫn quyết sách sản xuất kinh doanh của các chủ thể thị trường, từ đó thúc đẩy việc phân phối bố trí tài nguyên được tốt hơn. Cũng chỉ có thị trường cạnh tranh mới có thể làm cho người sản xuất hàng hóa đứng trước áp lực và có cảm giác nguy cơ về những rủi ro thị trường, từ đó nâng cao tính năng động tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Thứ năm, tính quy phạm.
Tính quy phạm còn gọi là tính trật tự, nó yêu cầu phải có hệ thống pháp luật vận hành thị trường hoàn chỉnh, làm cho các hoạt động thị trường đều phải được quy phạm hóa. Hệ thống thị trường quy phạm hóa đòi hỏi giao dịch thị trường và quản lý thị trường phải nhất trí, công bằng, trong sáng, ổn định…
Chương II
Tình hình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong thời gian qua
2.1. Vài nét tổng quan
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá hoá đã phát triển đến mức độ đầy đủ, hoàn thiện, toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều phải thông qua thị trường. Như vậy kinh tế thị trường xuất hiện như một yêu cầu khách quan không thể thiếu được của nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá ra đời thì thị trường cũng xuất hiện, nhưng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế hàng hoá thì thị trường được cũng mở rộng, đồng bộ và phong phú hơn. Khi các quan hệ thị trường đạt ở tầm tương đối hoàn thiện mới làm xuất hiện kinh tế thị trường, do đó kinh tế thị trường không phải là một giai đoạn khác biệt, độc lập, tách rời và đứng ngoài kinh tế hàng hoá mà nó là một giai đoạn cao của kinh tế hàng hoá.
Năm 1906 Lê nin đã coi kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường là hai loại chế độ xã hội cơ bản đối lập nhau. Sau cách mạng tháng 10 Đảng cộng sản Nga đã có lúc có ý định lợi dụng thời kỳ lịch sử đặc biệt – chủ nghiã cộng sản thời chiến để chuẩn bị bước “quá độ trực tiếp”, “xoá bỏ tiền tệ”. Nhưng bắt đầu mùa xuân năm 1921, Đảng cộng sản Nga buộc phải chuyển qua thực hiện chính sách kinh tế mới. Những diễn biến xảy ra trong thực tiễn có những tác động làm cho tư tưởng của Lê Nin có những sự thay đổi lớn. Lê nin chủ trương sử dụng hình thức kinh tế thị trường để thực hiện kế hoạch kinh tế của nhà nước và điều này đã đem lại cho nước Nga những thành tựu kinh tế – xã hội nhất định.
Vậy cho nên, không thể đồng nhất sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, mà kinh tế thị trường phát triển trên cơ sở chế độ xã hội nào, đặc biệt là chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất để xác định thể chế kinh tế – xã hội cho sự phát triển kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta theo tinh thần văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, tính tất yếu khách quan của nó trước hết được quy định bởi sự tồn tại của những điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta – một nền kinh tế nhiều thành phần với sự hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau do sự tồn tại song song của nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Các chủ thể tồn tại độc lập với nhau, nhưng đều nằm trong một thể thống nhất - đó là hệ thống phân công lao động xã hội, nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và cả đời sống - kinh tế. Quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện được khi có sự trao đổi hàng hoá, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau trước pháp luật. Ngay đối với cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể một mặt tuy dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất những các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ, quyền lựa chọn trong kinh doanh, mặt khác có sự khác nhau về trình độ quản lý, kỹ thuật và hiệu quả kinh doanh do đó còn có sự khác biệt về lợi ích kinh tế. Vì vậy, quan hệ hàng hoá - tiền tệ vẫn là một hình thức tất yếu thuận lợi và hợp lý, đảm bảo công bằng trong mối quan hệ giữa các đơn vị ấy với nhau và điều đó còn tất yếu đối với việc thực hiện các quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước trên thế giới, của những chủ sở hữu với các quốc gia riêng biệt.
Kinh tế hàng hoá là động lực thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội, đẩy mạnh chuyên môn hoá sản xuất trên cơ sở đó nâng cao trình độ đội ngũ người lao động, góp phần cải tiến máy móc, thiết bị, tạo điều kiện ứng dụng các kỹ thuật - công nghệ tiên tiến. Hơn nữa thúc đẩy quá trình tích luỹ và tập trung sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới phương thức tổ chức – quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống…..
Kinh tế hàng hoá thúc đẩy tính năng động của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời tạo ra cơ chế để phân bổ và sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Kinh tế hàng hoá có một vai trò to lớn trong việc mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế – văn hoá giữa các địa phương, vùng, miền của quốc gia và các nước, các dân tộc trong khu vực và thế giới, cũng như tham gia phân công lao động quốc tế, phát huy được những lợi thế tương đối và tuyệt đối của mỗi quốc gia, dân tộc.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc phát triển kinh tế hàng hoá là một yêu cầu bức thiết, khách quan – có thể xem đây là con đường cơ bản để đưa kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu so với xu thế phát triển chung của toàn cầu. Đồng thời chúng ta phải thiết lập được một môi trường kinh tế, hành lang pháp lý thuận lợi nhằm hấp dẫn, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh tế – qua đó phát triển kinh tế hàng hoá lên một tầm cao, thúc đẩy thị trường ở các cấp độ khác nhau, đan xen phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, cho nên ngoài những đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường nói chung thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những đặc trưng riêng của nó.
Về mục tiêu, phát triển kinh tế thị trường nhằm giải phóng sức sản xuất, khai thác triệt để, hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội, đảm bảo xã hội công bằng văn minh, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xoá đói giảm nghèo.
Về chế độ sở hữu, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển được thực hiện thông qua việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, nhưng về cơ bản vẫn dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu. Trong đó, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo và nền tảng.
Về chế độ quản lý, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân và do Đảng cộng sản lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân. Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích kết hợp tính định hướng và cân đối của kế hoạch với tính tự chủ, năng động và nhạy bén của thị trường. Thị trường vừa là đối tượng vừa là căn cứ để nhà nước kế hoạch hoá. Thực hiện cơ chế thị trường để thực hiện kế hoạch hoá một cách tổng thể hơn, phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của thị trường.
Về chế độ phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt có nhiều hình thức phân phối, nhưng mặt khác cũng có hình thức phân phối theo năng suất lao động với hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Đồng thời còn có các hình thức phân phối khác nữa vừa khuyến khích lao động vừa đảm bảo những phúc lợi cơ bản.
Về chính sách xã hội, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một mặt khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp, tích cực thực hiện các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo, hạn chế tối thiểu sự phân hoá giữa giàu - nghèo, thành thị – nông thôn. Mặt khác phải chăm lo các chính sách xã hội, tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong quá trình phát triển kinh tế chứ không phải đến khi kinh tế. Giữ gìn đạo đức và bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng quan hệ giữa con người với con người vì sự văn minh tiến bộ, vì sự ấm no hạnh phúc của mỗi người dân sống trong xã hội - thể chế chính trị đương đại.
Trên đây là những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và mô hình phát triển kinh tế thị trường chủ yếu dựa trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở xác định mô hình và thể chế kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay, Đại hội IX đã xác định đường lối, chính sách phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ một cách cụ thể: Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa; Đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta phát triển thành một nước công nghiệp; Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tận dụng, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để có thể phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
2.2. Thành tựu và vấn đề
Thành tựu:
Qua 15 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đất nước và nhân dân ta đã đạt được những thành tựu vượt bậc cả về kinh tế – xã hội. Về kinh tế mức tăng trưởng thể hiện ở chỗ: tổng sản phẩm quốc dân (GDP) tăng gấp hai lần sau 10 năm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng hơn trước. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế ở mức không đáng kể nhưng đến năm 2000 đã đạt được 27%. Từ tình trạng khan hiếm, sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu, phải dựa vào nguồn viện trợ nước ngoài là chủ yếu, nay không những đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng mà còn là nước đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo, ngoài ra còn có nhiều ngành hàng khác như rau quả, nông thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc, than, dầu thô… trở thành thế mạnh của chúng ta trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Kết cấu hạ tầng phát triển khá nhanh. Cơ cấu nền kinh tế có bươc chuyển dịch tích cực. Trong GDP tỷ trọng nông nghiệp từ 37,8% giảm xuống 25%; công nghiệp tăng từ 22,7% lên 34,5%; dịch vụ tăng từ 38,6% lên 40,5%.
Nền kinh tế nhiều thnàh phần trong đó nền kinh tế nhà nước là chủ đạo, hệ thống doanh nghiệp nhà nước từng bước đổi mới và phát triển, hình thành các Tổng công ty lớn trong nhiều lĩnh vực then chốt và ngành mũi nhọn của đất nước. Thể chế quản lý và phân phối được chuyển đổi phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Văn hoá – xã hội có những bước tiến bộ mới, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, chất lượng nguồn nhân lực, tính năng động trong xã hội và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, các hoạt động văn hóa - thể dục - thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có nhiều mặt tích cực và được phát triển lên một tầm cao mới. Đã cơ bản hoàn thành mục tiêu “xoá mù chữ” và phổ cập giáo dục cấp tiểu học trên cả nước, bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số thành phố, tỉnh đồng bằng. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, số hộ có mức thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30% xuống còn 11%. Tỷ lệ tăng dân số giảm từ 2,31% xuống 1,53%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 65 tuổi lên 68 tuổi. Mỗi năm thêm 1 triệu lao động có việc làm, nhiều công trình nhà ở, bệnh viện, trường học và đường giao thông không ngừng được sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới, phát triển ở cả nông thôn và thành thị. Người lao động đã đựoc giải phóng khỏi sự ràng buộc của nhiều cơ chế cồng kềnh, bất hợp lý, phát huy quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo, chủ động hơn trong việc tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các hoạt động chung của cộng đồng - xã hội. Chính những điều đó đã làm cho đời sống của nhân dân ngày càng ổn định, nâng cao, điều quan trọng hơn là niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta ngày càng được củng cố. Chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng giữ vững, quan hệ đối ngoại được mở rộng. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nước ta đã chủ động tranh thủ thời cơ từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới, bình thường hoá và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, phát triển quan hệ kinh tế với hầu hết các nước trên thế giới, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 3 lần nhịp độ tăng GDP. Thu hút đáng kể đầu tư trực tiếp và các nguồn tài trợ chính thức nước ngoài.
Trong những năm qua những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế – chính trị thế giới và thiên tai đã gây ra những thiệt hại không nhỏ đến nền kinh tế nước ta, những về cơ bản chúng ta đã hạn chế được sự ảnh hưởng, ngăn chặn, khắc phục những khó khăn và đã đạt đựơc những thành tựu quan trọng về kinh tế – xã hội đưa nước ta tiếp tục phát triển trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Nhìn chung, đến nay thế và lực của chúng ta đã mạnh hơn rất nhiều lần so với những giai đoạn trước - đã làm thay đổi bộ mặt thành thị, nông thôn, củng cố vững chắc độc lập dân tộc, nâng cao uy tín của nứoc ta trên trường quốc tế. Cùng với những thành tựu đã đạt được qua các giai đoạn thực hiện đổi mới, thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng được củng cố, bổ sung và phát triển - đó là những nhân tố nội lực chủ yếu tạo ra sức mạnh và những thời cơ lớn cho sự phát triển của những thời kỳ tiếp theo.
b. Một số vấn đề tồn tại:
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được cả trên lĩnh vực kinh tế – xã hội trong thời gian qua, kinh tế thị trường ở nước ta cũng có mặt hạn chế của nó. Do mới ra đời còn chưa phát triển, việc hình thành và phát triển hệ thống thị trường lại đòi hỏi phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều cấp độ khác nhau. Cùng một lúc với việc chúng ta vừa phải chuyển đổi từ nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chúng ta lại phải chuyển đổi nền kinh tế từ phổ biến là tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá, thậm chí nhiều nơi, nhiều chỗ phải tiến thẳng lên kinh tế thị trường; đồng thời với việc chuyển đổi nền kinh tế từ sản xuất nhỏ thủ công thô sơ lên nền sản xuất lớn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng gay gặt hiện nay…
Như vậy, về mặt tổng thể mà nói, hệ thống thị trường hoàn chỉnh, thống nhất, mở cửa, cạnh tranh, thích ứng với yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hiện nay vẫn chưa hình thành. Trong quá trình hình thành, hệ thống thị trường còn tồn tại những khiếm khuyết rõ rệt như: tính không hoàn chỉnh, tính trễ, lạc hậu, tính đóng kín và tính độc quyền phi kinh tế ... là tất yếu khách quan. Biểu hiện cụ thể là:
Thứ nhất, hệ thống thị trường què quặt không đầy đủ, cản trở việc vận hành có hiệu quả của kinh tế thị trường. Ví dụ: thị trường sức lao động phát triển không cân đối, các hành vi thị trường như người lao động tự chọn nghề, tự do lưu động... vẫn không đầy đủ, doanh nghiệp không thể kịp thời điều chỉnh số lượng công nhân viên và kết cấu của doanh nghiệp mình theo sự thay đổi điều chỉnh quy mô sản xuất và công nhân có kỹ năng khác nhau, dẫn đến lãng phí khá lớn tài nguyên sức lao động.
Thứ hai, mức độ trưởng thành của các loại thị trường sớm muộn không đều, một số thị trường nào đó phát triển quá muộn, cả hệ thống thị trường không có cách nào vận hành cân đối nhịp nhàng. Trong hệ thống thị trường của nước ta, thị trường trưởng thành tương đối hoàn hảo chỉ có thị trường hàng hóa, nhất là thị trường hàng tiêu dùng tương đối hoàn thiện, còn thị trường yếu tố thì có cái đang ở trong quá trình hình thành, như thị trường lưu thông tiền tệ vẫn chưa hình thành một hệ thống thống nhất của cả nước, tiền vốn giữa các khu vực khó có thể lưu thông hòa nhập, tiền vốn khó có thể phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Thị trường lao động còn đang trong giai đoạn phôi thai, thị trường bất động sản đang chờ hoàn thiện. Tình hình đó đã gây trở ngại không ít cho việc vận hành nền kinh tế thị trường, và ảnh hưởng đến việc phát huy toàn bộ công năng của hệ thống.
Thứ ba, chủ nghĩa bảo hộ, cục bộ địa phương dẫn đến hiện tượng mang tính khép kín mới, đã gây trở ngại cho việc kiến lập một hệ thống thị trường thống nhất, mở cửa. Do biện pháp phân quyền mang tính hành chính làm cho quyền lực tập trung của nhà nước giao xuống cho các địa phương, việc tăng cường quyền lực phối hợp với khoán ngân sách cho địa phương, hình thành cơ chế bành trướng quyền lực địa phương, giữa các khu vực đóng kín cửa với nhau, tự chia cắt thị trường, từ đó đã kéo dài việc hình thành một thị trường lớn, thống nhất, không có lợi cho sự trưởng thành của hệ thống thị trường chung của cả nền kinh tế. Đồng thời, do xuất phát từ lợi ích của địa phương mình để bố trí sản xuất, dẫn đến việc đầu tư tràn lan, không tập trung, xây dựng trùng lắp, kết cấu tài sản doanh nghiệp giữa các khu vực có xu hướng giống nhau, lãng phí tài nguyên kinh tế và sự cạnh tranh không phi kinh tế do sự tham gia của hành chính công quyền, làm cho công năng của thị trường bị suy thoái.
Thứ tư, cơ chế cạnh tranh của thị trường chậm được kiện toàn. Cạnh tranh là kết quả tất nhiên của nền kinh tế hàng hóa, nhưng muốn làm cho cơ chế cạnh tranh phát huy tác dụng đầy đủ, điều kiện cơ bản nhất là các chủ thể của thị trường đều phải là những người sản xuất và kinh doanh hàng hóa được tự chủ kinh doanh, tự lo lời lỗ, tự phát triển, có lợi ích riêng của mình, trở thành thực thể pháp nhân độc lập hưởng quyền và thực thi nghĩa vụ dân sự. Các chủ thể kinh tế thị trường ở vào vị trí bình đẳng, thực hiện cạnh tranh bình đẳng. Nhưng trên thực tế, nước ta vẫn còn những tệ nạn như: độc quyền thị trường dưới sự chia cắt của hành chính, độc quyền phân bổ tài nguyên, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, trong cung cấp tiền vốn, nhân tài vật lực,..., làm cho việc cạnh tranh không có cách nào phát huy tác dụng nổi. Mà thị trường thiếu tác dụng của cơ chế cạnh tranh, cũng khó có thể thúc đẩy kinh tế thị trường vận hành với hiệu quả cao, không có cách nào thực hiện việc phân phối bố trí hợp lý tài nguyên kinh tế - xã hội.
Thứ năm, xây dựng quy tắc vận hành thị trường chậm trễ tụt hậu. Mấy năm gần đây, chính quyền các nơi sôi nổi hào hứng với việc xây dựng "phần cứng" như các công trình thương mại, thị trấn, thị tứ..., nhưng lại ít chú trọng xây dựng "phần mềm" tức xây dựng quy chế, pháp quy tương ứng…. Lịch sử phát triển kinh tế chứng minh, phải thông qua hình thức lập pháp, tăng cường tính quyền uy và tính nghiêm túc của quy tắc thị trường, mới có thể làm cho sự vận hành của hệ thống thị trường được công khai, công bằng. Thúc đẩy cải cách phải chú trọng vận dụng vũ khí luật pháp, hệ thống thị trường lớn khoẻ mạnh phải có sự bảo đảm toàn lực của luật pháp.
Chương III
Phương hướng phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong thời gian tới
3.1. Quan điểm và phương hướng
Mục tiêu, phương hướng tổng quát của chiến lược mười năm (2001 – 2010), trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ ra rằng: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phóng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”
Hình thành và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mọi nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển và nguy cơ tụt hậu so với khu vực và thế giới. Nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân. Quá trình tăng trưởng kinh tế phải phải song song và gắn với sự tiến bộ và công bằng xã hội. Mọi sự phát triển phải có tác động tích cực đến việc giải phóng con người, phát triển con người về toàn diện, mọi hoạt động phải hướng tới lợi ích của dân, do dân và vì dân.
Tính năng động của cơ chế thị trường phải gắn với sự quản lý của nhà nước; phải phát triển kinh tế cao, hiệu quả bền vững, phải dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu. Thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng và là mũi nhọn của kinh tế quốc dân. Đa dạng hoá các hình thức phân phối nhưng phân phối theo năng suất lao động ngày càng chi phối. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc té nhưng phải làm tăng sức sống nội sinh của đất nước, biến những yếu tố ngoại sinh thành nội lực của chính chúng ta.
Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động hội nhập để thúc đẩy và mở rộng thị trường, gắn với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Hình thành và phát huy năng lực nội sinh về khoa học công nghệ, đủ khả năng ứng dụng kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tiếp cận thành tựu của thế giới và tự phát triển thêm một số lĩnh vực, nhất là về lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá.
Giữ vững ổn định kinh tế tài chính vĩ mô đảm bảo an ninh, lương thực, an toàn năng lượng, tài chính môi trường. Đặc biệt coi trọng an toàn tài chính, nhất là việc kiểm soát luồng tài chính ra vào đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư trên cơ sở phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán trong nước và đẩy nhanh xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong và ngoài nước. Tăng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Thực hiện triệt để việc tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển.
Trên cơ sở những mục tiêu, phương hướng chủ yếu đã đề ra – muốn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững cần phải có những định hướng, giải pháp cơ bản, phù hợp với tình hình thực tế của thị trường.
3.2. Mô hình và giải pháp cơ bản
Cải cách theo hướng thị trường đã trút sức sống cho đời sống kinh tế của nước ta, cùng làm cho thị trường của nước ta có cơ hội trưởng thành. Hệ thống thị trường bước đầu đã hình thành, sự phát triển thị trường hàng hóa, thị trường yếu tố sản xuất cũng đang từng bước lớn lên. Các loại thị trường phát triển, đã nâng cao mức độ thị trường hóa của kinh tế nước ta, đặt nền móng cho sự phát huy tác dụng của cơ chế thị trường. Ngoài thị trường hàng hóa ra, thị trường yếu tố như: lưu thông tiền tệ, đất đai, sức lao động, kỹ thuật, tin tức... cũng đều có sự phát triển ở các mức độ khác nhau. Thị trường lưu thông chứng khoán đã có hình thức ban đầu, lượng giao dịch chứng khoán không ngừng mở rộng.
Để có thể phát triển một hệ thống thị trường kiện toàn hoàn thiện được hay không, là một việc lớn liên quan đến việc kiến lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của nước ta. Căn cứ yêu cầu của kết cấu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ hiện trạng lớn lên của hệ thống thị trường của nước ta hiện nay, chúng ta phải áp dụng một loạt biện pháp, đẩy nhanh tiến trình phát triển của hệ thống thị trường của nước ta, để nhanh chóng bồi dưỡng chăm sóc hình thành một hệ thống thị trường kiện toàn, hoàn thiện.
Thứ nhất, phải tiếp tục phát triển các loại thị trường, kiến lập kết cấu thị trường đầy đủ, do một đặc điểm quan trọng của hệ thống thị trường là tính chỉnh thể, là cơ cấu chỉnh thể do nhiều loại thị trường hợp thành, vì thế bồi dưỡng và phát triển hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa, trước hết phải coi trọng việc bồi dưỡng chăm sóc các thị trường bộ phận, đúng với hiện trạng mới ra đời, còn non yếu và phát triển chậm, thậm chí nhiều chỗ còn có những biểu hiện tụt hậu, không hợp logíc phát triển. Trong đó, đặc biệt phải lấy việc phát triển thị trường các yếu tố sản xuất: tư bản, sức lao động, thông tin, kỹ thuật, bất động sản... làm trọng điểm. Đương nhiên, kết cấu hệ thống thị trường đầy đủ không thể phát triển một cách biệt lập, nó đòi hỏi Nhà nước phải thông qua việc thực hiện cải cách thể chế một cách tổng hợp, đồng bộ. Phải thông qua cải cách chế độ sử dụng công nhân lao động, kiến lập chế độ lao động - việc làm thực hiện sự chọn lựa hai chiều và sức lao động lưu động hợp lý, toàn diện mở cửa thị trường sức lao động; thông qua cải cách thể chế tài chính - ngân hàng, mở cửa và khai thác các loại hình thị trường vốn; thông qua cải cách thể chế khoa học kỹ thuật, phát triển thị trường kỹ thuật tin học; thông qua cải cách thể chế lưu thông vật tư, hoàn thiện thị trường tư liệu sản xuất; thông qua cải cách thể chế quản lý thương nghiệp, mở ra và làm sống động thị trường hàng tiêu dùng hơn nữa.
Thứ hai, phải thúc đẩy cải cách giá cả, xác lập cơ chế hình thành giá cả thị trường hợp lý và thể chế quản lý giá cả tương ứng với nó - đó là mấu chốt để hệ thống thị trường hình thành và vận hành thông suốt. Bồi đắp hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa, phải tuân theo yêu cầu của quy luật giá trị, đi sâu cải cách giá cả, làm cho cơ chế giá cả có thể nhạy bén phản ánh giá trị hàng hóa và sự cung cầu của thị trường, phát huy đầy đủ tác dụng hướng dẫn và điều tiết của nó trong việc lưu chuyển và phân bổ các nguồn lực kinh tế. Vì thế, các doanh nghiệp với tư cách là người sản xuất, là chủ thể của việc hình thành giá cả phải có quyền định giá cho những hàng hóa do họ sản xuất ra; ngoài một số hàng hóa và dịch vụ trọng yếu do nhà nước quản lý ra, thì các sản phẩm phải do thị trường hình thành và quyết định; nhà nước chủ yếu vận dụng các chính sách và đòn bẩy kinh tế, thông tin giá cả, điều chỉnh các tham số kinh tế... thực hiện sự điều hành vĩ mô một cách gián tiếp đối với việc hình thành giá cả.
Trải qua nhiều năm nỗ lực, công cuộc cải cách giá cả của nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật, giá cả hàng tiêu dùng đã phản ánh khá chính xác quan hệ cung – cầu, thị trường hóa giá cả các yếu tố sản xuất cũng đã bắt đầu. Nhưng đồng thời chúng ta cũng cần thấy được, hệ thống giá hiện nay đang có khuynh hướng ngăn cản tình hình thị trường hóa các yếu tố sản xuất, ngăn cản khuynh hướng tập trung vốn đầu tư trong nước. Do cơ chế điều tiết và hình thành giá cả vẫn chưa kiện toàn, nên đi sâu cải cách giá cả vẫn là nhiệm vụ quan trọng trước mắt chúng ta.Với việc đảm bảo giữ được tổng mức giá cả tương đối ổn định, thả nổi giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ có tính cạnh tranh, điều chỉnh hợp lý giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ do chính phủ định giá; nhanh chóng hình thành thị trường các yếu tố sản xuất; kiến lập và hoàn thiện chế độ dự trữ một số ít hàng hóa trọng yếu có liên quan đến quốc kế dân sinh, kiềm chế giá cả thị trường.
Thứ ba, cải cách thể chế lưu thông đã xoá bỏ về cơ bản tình trạng ngăn sông, cấm chợ…Hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta phải kiến lập là hệ thống thị trường thống nhất, mở cửa, cạnh tranh, nó là hoàn toàn xa lạ với việc chia cắt, phong toả khu vực, lũng đoạn ngành nghề. Vì thế, cần phải đi sâu cải cách thể chế lưu thông hơn nữa, đẩy nhanh việc kiến lập thể chế lưu thông có nhiều thành phần kinh tế, nhiều phương thức kinh doanh… cùng tồn tại, thể chế lưu thông mà trong đó các thành phần kinh tế cùng tham gia, cùng hoà nhập với nhau, thực hiện mở cửa thị trường giữa các khu vực, giữa các ngành nghề, không cho phép bất cứ khu vực nào lấy bất cứ lý do và thủ đoạn nào để ngăn cản việc xuất khẩu tài nguyên và sản phẩm. Như vậy, mới có thể thật sự hạn chế độc quyền ngành nghề, khu vực, hình thành thị trường lớn, lưu thông lớn, thị trường thành thị và nông thôn kết hợp chặt chẽ, thị trường trong nước và quốc tế khớp nối với nhau…
Thứ tư, tăng cường xây dựng các chế tài pháp luật làm cơ sở pháp lý để điều tiết các hành vi, quan hệ thị trường, hình thành trật tự thị trường hợp lý. Hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa là hệ thống thị trường phải là thị trường lành mạnh, có trật tự. Việc kiến lập và phát triển nó đòi hỏi phải có pháp luật, pháp quy bảo đảm. Vì thế, trước hết phải kiến lập quy tắc cạnh tranh, giao dịch, trọng tài, xuất nhập thị trường v.v... bình thường, lấy các hình thức: luật pháp, pháp quy, khế ước, công ước v.v... để xác định rõ chế độ quy chế mà chủ thể thị trường phải tuân theo, dùng để giám sát hành vi thị trường của chủ thể thị trường, làm cho các hành vi thị trường được qui phạm hoá, thể chế hoá. Sau đó, phải tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp cho thị trường, nhằm giám sát, kiện toàn hoạt động của các lĩnh vực quản lý nhà nước như: thuế vụ, thẩm định, hải quan, kiểm hóa v.v..., coi trọng việc giám sát của dư luận đối với thị trường, nghiêm khắc ngăn chặn và xử lý các hành vi lợi dụng quyền hạn để mưu lợi riêng của những người quản lý thị trường.
Thứ năm, phát triển các tổ chức trung gian môi giới thị trường, qui phạm hoạt động giao dịch thị trường. Các tổ chức trung gian môi giới thị trường là các tổ chức kinh tế - xã hội liên kết, phối - kết hợp nhịp nhàng các quan hệ giữa các chủ thể thị trường với nhau, giữa các chủ thể thị trường với thị trường trong vận hành kinh tế…Để đẩy nhanh việc bồi dưỡng và phát triển hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa, trước mắt phải ra sức phát triển văn phòng kế toán, kiểm toán, luật sư, các cơ quan công chứng và trọng tài, cơ quan chứng nhận đo lường và chất lượng, cơ quan thông tin tư vấn, cơ quan đánh giá tài sản..., phát huy tác dụng của các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức thương nghiệp. Nhưng các tổ chức trung gian môi giới thị trường phải thông qua việc nhận định tư cách theo pháp luật, căn cứ vào quy tắc thị trường, kiến lập luật pháp, đồng thời tiếp thu sự giám sát và quản lý của các cơ quan hữu quan của chính phủ…
kết luận
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan trong tiến trình lịch sử của nhân loại. Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ ở nước ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ảnh hưởng, tác dụng nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tạo tiền đề vật chất cho sự chuyển biến mới của nền kinh tế nước ta – cái nền kinh tế mà trong suốt cả thời gian dài tồn tại phổ biến và thống trị là sản xuất nhỏ, lạc hậu, không thoát ra khỏi cái bóng của tự cung tự cấp, đói khổ triền miên.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì kinh tế thị trường cũng có không ít những khuyết tật, kể cả trong kinh tế cũng như trong các lĩnh vực chính trị – xã hội. Những hạn chế đó làm thoái hoá, biến chất không ít những cán bộ trong bộ máy nhà nước và những người dân lao động chân chính….
Kinh tế thị trường vừa tạo ra cho chúng ta những cơ hội phát triển, nhưng cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức. Nhưng với đường lối, chính sách lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng sẽ dẫn dắt đắt nước ta tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa, đảm bảo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta sẽ phát triển mạnh mẽ và đảm bảo mục tiêu tối cao là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28268.doc