Tiểu luận Phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước

Qua toàn bộ phân tích trên, em muốn khẳng định rằng nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực, một nguồn lực vô tận, nếu chúng ta biết nuôi dưỡng và khai thác hợp lý. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Đồng thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải vì sự phát triển con người Việt Nam toàn diện, con người phải được coi là giá trị tối cao và là mục đích của sự nghiệp đầy khó khăn, phức tạp nhưng tất yếu này.

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Việt Nam vẫn thuộc loại nghèo nhất thế giới, nền kinh tế vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, lạm phát còn ở mức cao, sản xuất chưa ổn định, tốc độ tăng dân số cao, lao động thất nghiệp hoặc chưa đủ việc làm ngày càng tăng, tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thua quá xa nhiều nước trong khu vực. Vì vậy, muốn không bị tụt hậu xa hơn nữa, muốn ổn định mọi mặt để đi lên và phát triển thì tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại đất nước. Cái tất yếu ấy thì mọi người dễ dàng nhận ra, song dựa vào đâu để đảm bảo thực hiện nó cho thật hiệu quả và không phải trả giá quá đắt thì lại không dễ dàng bởi vì từ chỗ thấy được tính tất yếu không cẩn thận lại dễ sa vào duy ý chí như đã xảy ra trước đây, hoặc trái lại nếu chỉ thấy nếu chỉ thấy khó khăn, bất lợi thiếu điều kiện rồi cam chịu tụt hậu thì lại là một tai họa. Cũng lại rất có thể nếu chỉ nhìn thấy khó khăn, thiếu vốn bằng mọi cách, mọi giá chấp nhận mọi sự đầu tư từ nước ngoài hoặc vay nợ tràn lan thì cũng là một sai lầm lớn. Có rất nhiều vấn đề xung quang công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhưng ở tiểu luận này chỉ đề cập đến một vài khía cạnh về nguồn nhân lực ttrong thời kỳ này. Đây có thể nói là vấn đề quan trọng và cấp thiết hiện nay. Chẳng thế mà vấn đề này luôn được xếp lên hàng đầu trong số các chính sách và biện pháp mà các nghị quyết của Đảng đã thông qua. Đại hội Đảng IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “ Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững…”, “ Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá…” Thực tiễn đã chứng minh rằng không có người lao động chất lượng cao chúng ta không thể phát triển kinh tế, đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn lạc hậu. Nhưng cũng chính do nghèo nàn lạc hậu mà về kinh tế mà chất lượng người lao động nước ta chưa cao. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này và tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì một nước còn kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền để nâng cao chất lượng người lao động. Là sinh viên năm thứ nhất của trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, mặc dù chưa có nhiều kiến thức đầy đủ song do nhận thức được tầm quan trọng của nguồn lực con người đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá- đất nước hiện nay mà em chọn đề tài “ Phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá -hiện đại hoá - đất nước” Bài viết của em bao gồm ba phần: Chương I: Nguồn gốc và cơ sở lý luận Chương II: Nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước Chương III: Thực trạng và giải pháp cho phát triển nguồn nhân lực ở nước ta thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước Do còn giới hạn về mặt trình độ và thời gian nên bài viết không thể tránh được sai sót. Rất mong sự góp ý của thầy và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành cám ơn TS. Lê Ngọc Thông đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành tiểu luận này. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn thầy! Chương I: nguồn gốc vàcơ sở lý luận 1. Bản chất con người Có thể nói vấn đề con người là một trong những chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến hiện đại. Trong lịch sử phát triển nhân loại, đã có rất nhiều những quan niệm khác nhau về con người. Trong thời kỳ cổ đại người ta cho rằng, con người cũng như các sinh vật vật chất khác đều do những nguyên tố cụ thể nào đó tạo ra như: nước, lửa, không khí…( phương Tây) hay sự kết hợp các vật thể: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ…( phương Đông ) Trong thời kỳ trung cổ người ta cho rằng, con người do lực lượng siêu nhiên tạo ra: Đạo Thiên Chúa cho rằng con người do chúa tạo ra, hay Nho giáo cho rằng Trời sinh ra con người, … Đỉnh cao trong quan niệm triết học về con người đó là chủ nghĩa Mác, học thuyết này về thực chất lấy con người làm điểm xuất phát và con người cũng là mục đích tối cao mà học thuyết này với tư cách là một khoa học hướng tới nghiên cứu. Theo chủ nghĩa Mác thì con người là một khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh học. Thế giới tự nhiên luôn luôn vận động và phát triển, từ thấp lên cao, từ chưa hoàn thiện tới hoàn thiện mà đỉnh cao là con người. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành phát triển đến mất đi qui định bản tính sinh học trong đời sống con người. Để tồn tại với tư cách là một con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống… Điều đó giải thích vì sao Mác cho rằng con người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới làm chính trị. Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người thì không thể giải thích được bản chất con người. Đặc trưng qui định sự khác biệt giữa con người và thế giới loài vật là mặt xã hội. Và để tìm ra sự khác biệt đó, Mác chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt, con người là thước đo của vạn vật… Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến đổi thế giới tự nhiên mà con người có quan hệ với nhau tạo nên bản chất con người. Để nhấn mạnh bản chất con người, Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng Luận Cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”. Luận đề trên khẳng định không có con người trìu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định. Trong điều kiện lịch sử xác định, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực lẫn tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó ( như quan hệ giai cấp, dân tộc, chính trị, kinh tế…) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà hơn nữa con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động vật chất con người sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử xã hội loài người . Tóm lại, kế thừa các quan niệm về con người trong các thời kỳ trước, Lý luận của Mác đã đưa ra bản chất con người một cách toàn diện. Đó là sinh vật có tính xã hội. “ Con người không phải là một tồn tại trừu tượng, ẩn náu đâu đó ngoài thế giới” Đó là những con người sống trong một thời đại nhất định, một môi trường xã hội nhất định, có những quan hệ xã hội phong phú, phức tạp và ngày càng phong phú với sự phát triển của văn minh. 2. Quan điểm về nguồn nhân lực Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về nguồn lực con người. Ngân hàng Thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người ( thể lực, trí lực, kỹ năng, nghề nghiệp …) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động vào được trong quá trình sản xuất, kinh doanh hay trong một hoạt đông nào đó. Có quan niệm thì cho rằng nguồn lực con người là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, có khả năng đen lại thu nhập trong tương lai. Qua các ý kiến trên có thể hiểu con người được nhìn nhận là một nguồn lực trong quá trình phát triển xã hội bao gồm tất cả các yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ… tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội. Con người được nhìn nhận là một nguồn lực trước hết là chủ thể của của mọi quan hệ xã hội. Vì vậy, con người cần có sức khoẻ, tâm sinh lý mạnh khoẻ để có thể thực hiện được nhiệm vụ mà xã hội đặt ra. Mặt khác chủ thể đó phải được lượng hoá thành chỉ tiêu về số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được xác định trên qui mô dân số, cơ cấu, độ tuổi…Còn chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về thể lực, trí lực, tay nghề, năng lực quản lí , ý thức trách nhiệm giữa cá nhân với công việc, cá nhân với gia đình…Trong các yếu tố trên thì phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn là quan trọng nhất, nó nói lên mức trưởng thành của con người. Không những vậy, chủ thể đó phải có nhân cách mà một nhân cách trọn vẹn phải có những đặc tính về tính người; tính dân tộc, tính giai cấp và có cá tính. Khi nói đến nguồn nhân lực, người ta bàn đến trình độ, cơ cấu, sự đáp ứng với yêu cầu thị trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh trong trình độ kiến thức, kỹ năng và thái độ của người lao động. Sự phân loại nguồn nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động( công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) đang rất phổ biến ở nước ta hiện nay, nhưng khi chuyển sang nền kinh tế tri thức, phân loại lao động theo tiếp cận công việc nghề nghiệp của người lao động sẽ phù hợp hơn. Lực lượng lao động được chia ra lao động thông tin và lao động phi thông tin. Lao động thông tin được chia ra hai loại: lao động tri thức và lao động dữ liệu. Lao động dữ liệu( thư ký, kỹ thuật viên…) làm việc chủ yếu với thông tin đã được mã hoá, trong khi đó lao động tri thức phải đương đầu với việc sản sinh ra ý tưởng hay chuẩn bị cho việc mã hoá thông tin. Lao động quản lý nằm giữa hai loại hình này. Lao động phi thông tin dễ dàng mã hoá và thay thế bằng kỹ thuật và công nghệ. Như vậy, có thể phân loại lực lượng lao động ra năm loại: lao động tri thức, lao động quản lý, lao động dữ liệu, lao động cung cấp dịch vụ và lao động sản xuất hàng hoá. Mỗi loại lao động này có những đóng góp khác nhau vào việc tạo ra sản phẩm. Nồng độ tri thức, trí tuệ cao hay thấp trong sản phẩm lao động phụ thuộc chủ yếu vào đóng góp của lực lượng lao động trí thức, quản lý và phần nào của lao động dữ liệu. ở nước ta, tỷ lệ lao động phi thông tin còn rất cao trong cơ cấu lực lượng lao động, do đó hàng hoá có tỷ lệ trí tuệ thấp. Muốn tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cần tăng nhanh tỷ lệ trí tuệ trong hàng hoá trong thời gian tới. Tóm lại, xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực con người có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó, cần có sự quan tâm đúng mức trong quá trinh đào tạo, trong quá trình sử dụng và phân công lao động xã hội. Chương II: Vấn đề nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá 1. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quan niệm đơn giản nhất về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho rằng “ công nghiệp hoá là một đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị ( cho một vùng, một nước), các nhà máy, các loại công nghiệp…” Quan niệm mang tính triết tự này được hình thành trên cơ sở khái quát hình thành lịch sử công nghiệp hoá ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ. Nghiên cứu phạm trù công nghiệp hoá của các nhà kinh tế Liên Xô( cũ) ta thấy trong cuốn giáo khoa kinh tế chính trị của Liên Xô được dịch sang tiếng việt 1958, người ta định nghĩa “ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là phát triển đại công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng, sự phát triển ấy cần thiết cho việc cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến.” Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc( UNIDO) đã đưa ra một định nghĩa: “ công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ của nền kinh tế và xã hội.” Theo quan điểm này, quá trình công nghiệp hoá nhằm thực hiện nhiều mục tiêu chứ không phải chỉ nhằm một mục tiêu - kỹ thuật. Kế thừa chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút ngắn những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá, và thực tiễn công nghiệp hoá ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ bẩy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: “công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra năng suất lao động cao”. Tóm lại đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Thực hiện công nghiệp hoá là nhằm phát triển kinh tế- xã hội, đưa nước ta theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. 2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập trên cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình công nghiệp hoá là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá có ý nghĩa to lớn và có tác dụng hoàn thiện về nhiều mặt. Cụ thể: Nước ta lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là nền nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu, 80 % dân cư nông thôn có mức thu nhập thấp. Vì vậy công nghiệp hoá là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng xuất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, từ đó nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Không những vậy, mà công nghiệp hoá còn làm biến đổi về chất của lực lượng sản xuất nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm của nền kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các vùng trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng cao trình độ quản lý của kinh tế của nhà nước, nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng, tăng khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng, các yếu tố vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đó. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tác dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng. Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ thì công nghiệp hoá càng trở lên cấp thiết đối với tất cả các nước đặc biệt là các nước đang phát triển như ở Việt Nam. Vì vậy, mà hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá VII đã xác định tới đây nước ta “ chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một bước công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ, tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới”. 3. Đặc điểm của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển chung của các nước trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu “ xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh” công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng nền kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ( kinh tế, chính trị, khoa học…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái về mới chất. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là một quá trình lâu dài, có rất nhiều khó khăn, thách thức găy gắt nhưng cũng có nhiều thuận lợi và thời cơ lớn. Cần phải biết tranh thủ thời cơ, phát huy những thuận lợi, khắc phục khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách thì mới có thể thực hiện thành công sự nghiệp này. Muốn vậy, đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng ở mức độ tác động với vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng ở mức độ khác nhau, trong đó nguồn lực con người phải trở thành động lực phát triển, có vai trò quyết định thành công của sự nghiệp này. Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiện đại hoá những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt. Muốn vậy, thì phải nâng cao khả năng nhận thức của con người trong việc học hỏi tiếp thu những khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại trên thế giới để rút ngắn khoảng cách tụt hậu của ta so với các nước khác. 4. Vai trò của nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vai trò của nguồn lực con người quan trọng như thế nào đã được chứng minh trong lịch sử kinh tế của các nước tư bản phát triển như Nhật Bản, Mỹ… nhiều nhà kinh doanh nước ngoài khi đến thăm quan Nhật Bản thường chỉ chú ý đến kỹ thuật, máy móc và coi đó là nguyên nhân dẫn đến “ kỳ tích Nhật Bản” nhưng họ đã nhầm, chính người Nhật Bản cũng không quan niệm như vậy. Người Nhật cho rằng kỹ thuật và công nghệ có vai trò rất to lớn nhưng không phải là yếu tố quyết định nhất. Yếu tố quyết định nhất dẫn đến thành công của họ là con người. Chính vì vậy, họ đã tập trung cao độ và có những chính sách độc đáo phát triển yếu tố con người. Như mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cũng phải phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này quyết định. Bởi vì: - Thứ nhất: các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với xã hội khi được kết hợp với các nguồn lực con người thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết lợi dụng các nguồn lực khác, gắn chúng kết lại với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể chịu sự tác động, cải tạo khai thác của con người, tất cả chúng đều phục vụ cho nhu cầu và lợi ích của con người, nếu con người biết cách tác động và chi phối nó. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, là “ lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại”. - Thứ hai: Các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó nguồn lực con người là vô tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận xét trên bình diện cộng đồng nhân loại. Nhờ vậy, con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất mới đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá được xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói trình độ vô tận của con người. - Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động. đến nền kinh tế trí tuệ ( mà gọi là tri thức ). ở những nước này, lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc “ bắt chước” hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc của con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình. - Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Đối với những nền kinh tế nông nghiệp chưa công nghiệp hoá thì mặt số lượng của nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt vì nó qui định qui mô của thị trường. Nhưng khi tiến hành công nghiệp hoá thì mặt chất lượng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực lại là quan trọng hơn. Cơ cấu lao động cần cho quá trình công nghiệp hoá phải bao gồm: các chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các học giả, các nhà kinh doanh, các nhà kỹ thuật và công nghệ, các công nhân lành nghề… không có các chính khách, các học giả tài ba thì khó có thể có được những chiến lược, chính sách phát triển đúng đắn; không có các nhà kinh doanh lỗi lạc thì cũng sẽ không có người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn, nhân lực, công nghệ. Sự thiếu vắng hay kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nhân lực trên đây sẽ có hại cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Qua toàn bộ phân tích trên có thể kết luận rằng nguồn lực con người là nguồn lực có vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì sự nghiệp phát triển con người thì con người phải được coi là giá trị tối cao. Do vậy, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công thì phải đổi mới cơ bản các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hóa, giáo dục, y tế ở Việt Nam nhằm phát triển nguồn lực con người cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là nhiệm vụ lớn nhất và khó khăn nhất trong công cuộc đổi mới hiện nay. 5. Các yếu tố của nguồn nhân lực cần được đáp ứng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là thành công hay thất bại nó chỉ được trả lời khi yếu tố con người được đáp ứng. Việc định hướng đi vào sự phát triển con người đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu con người để phát triển con người, phát triển con người để đáp ứng các sự phát triển khác. Sự phát triển con người quyết định sự phát triển của mọi mặt. Sự thách thức đối với sự phát triển con người đó là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, do đó con người cần phải được chăm lo đào tạo cả về trí lực và thể lực. Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết phải là trí tuệ, bởi “ tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của nó” tức nói cách khác đi trí tuệ làm chủ con người, trình độ trí tuệ được phản ánh qua trình độ học vấn và tài năng sáng tạo. Nó biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật tiên tiến, ở sự nhạy bén, thích ứng nhanh và làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại, có kỹ năng lao động nghề nghiệp, có năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện. Sau trí tuệ là yếu tố sức khoẻ- yêu cầu không thể thiếu được đối với người lao động. Sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức và hoạt động thực tiễn để biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Sản xuất công nghiệp đòi hỏi người lao động hàng loạt các phẩm chất như có tính kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, có tinh thần hiệp tác và tác phong lao động công nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp và có trách nhiệm cao đối với công việc được giao… Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn đụng chạm đến vấn đề phức tạp trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Đây là vấn đề cấp bách sống còn không chỉ với mỗi quốc gia mà còn đối với nên văn minh nhân loại. Vì vậy sự hiểu biết và trách nhiệm cao đối với vấn đề môi sinh cũng là một năng lực và phẩm chất quan trọng của người lao động trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó có thể đạt được kết quả tốt nếu không có những công dân yêu nước ham học hỏi, cần cù lao động và sáng tạo có tinh thần hợp tác, ý chí tự vươn lên… Chương III: thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước 1. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. Trong công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế – xã hội, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Điều đó khẳng định do có đường lối đúng đắn của Đảng, nhà nước và phát huy được nhân tố con người, coi nguồn nhân lực là tiềm năng lớn lao đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó thì nguồn nhân lực vẫn đang tồn tại những bất cập đang cần có hướng giải quyết. Số lượng lao động: Năm 2001, nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động ở nước ta có hơn 46,7 triệu người, trong đó khu vực nông thôn gần 34,4 triệu người, khu vực thành thị 12,3 triệu người. Con số này của năm 2004 tương ứng là 51,34 triệu người, 36,92 triệu người và 14,42 triệu người. Giai đoạn 2001-2005 tốc độ nguồn nhân lực bình quân hàng năm tăng khoảng 2,8%. Tiềm năng qui mô nguồn nhân lực lớn, hàng năm có khoảng 1,78 triệu người bước vào tuổi lao động. Đây có thể nói vừa tạo thuận lợi nhưng cũng đầy khó khăn trong việc phát triển nguồn lực con người. Trước hết thuận lợi ở chỗ tạo nguồn nhân lực dồi dào cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đặc biệt trong giai đoạn chúng ta đang tiến hành công nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì đây lại là thế mạnh của chúng ta. Với lực lượng lao động dồi dào như vậy sẽ giúp hoàn thành sự nghiệp này nhanh nhất, cố gắng đến năm 2020 cố gắng đưa nước ta căn bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy vậy, lực lượng lao động dồi dào lại đang tạo ra sức ép về đào tạo dạy nghề và giải quyết việc làm cho người lao động. Tỷ lệ tăng trưởng nguồn nhân lực cao của nước ta có nguồn gốc từ cơ cấu dân số trẻ và tỷ lệ tăng dân số cao so với các thời kỳ trước. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê thì dân số trong độ tuổi lao động ở nước ta năm 2006 đạt 53,2 triệu người, chiếm 63,09% dân số, đến năm 2010 đạt trên 57,4 triệu người chiếm 64,65% dân số. Mức tăng dân số trong độ tuổi lao động bình quân các năm 2006-2010 là 1,092 triệu người / năm, hoặc bình quân tăng 2%/ năm .Ước tính trong vòng 10 năm tới, chúng ta cần tạo công ăn việc làm cho gần 18 triệu người bước vào tuổi lao động, đa số xuất phát từ các vùng nông thôn, nơi vẫn duy trì mức sinh cao hơn so với thành thị, nhưng chỉ có một phần nhỏ trong số này có thể tìm được việc làm bằng hình thức thề chỗ những người đã đến tuổi nghỉ hưu và thôi lao động. Riêng năm 2005, nước ta có 43 triệu người trong độ tuổi lao động, trong đó có 32 triệu người lao động ở nông thôn, 2,5 triệu người có nhu cầu giải quyết việc làm. Trong khi đó, số người thất nghiệp ở nước ta dù đã giảm, nhưng vẫn còn rất đáng lo ngại. ở vùng đô thị, năm 2001 là 6,28%, năm 2002 là 6,01%, năm 2003 là 5,78%, năm 2004 là 5,53%, ước tính 2005 là 5,28%. Điều đáng quan tâm là hiện nay, do sự chênh lệch lớn về giá trị lao động giữa các khu vực, nên đã dẫn đến tình trạng lao động dôi ra từ khu vực nông thôn dồn ra các vùng đô thị, công nghiệp khiến cho vấn đề việc làm vốn đã khó khăn ở đây càng trở nên khó khăn hơn. Cơ cấu lao động: Cơ cấu trình độ của đội ngũ lao động hiện nay theo tỷ lao động trình độ ĐH, THCN và công nhân kỹ thuật là 1:1,2:2,7 trong khi đó thì cơ cấu này ở nhiều nước trên thế giới và các nước trong khu vực là 1/4/10. Đây là một cơ cấu bất hợp lý và để kéo dài dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, kỹ sư làm công việc của cán bộ trung cấp kỹ thuật. Trong cơ cấu đội ngũ lao động ở các cơ sở sản xuất ở nước ta, đội ngũ công nhân và lao động giản đơn chiếm hơn 80% đội ngũ lao động, đội ngũ công nhân đã qua đào tạo, nhà kỹ thuật, quản lý, phát minh và đổi mới công nghệ chỉ chiếm 18%. Tính đến năm 2002, chúng ta đã đào tạo được hơn một triệu cán bộ các ngành kỹ thuật có trình độ đại học với cơ cấu ngành như sau: sư phạm 33,3%, khoa học kỹ thuật: 25,5%, khoa học xã hội 17%, y dược 9,3%, nông nghiệp: 8,1. Rõ ràng cơ cấu ngành đào tạo như vậy là một bất hợp lý, là một nước nông nghiệp mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học được đào tạo thuộc ngành nông nghiệp, chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH. Nguyên nhân của tình trạng trên là do thời gian qua chúng ta đã buông lỏng quản lý cơ cấu đào tạo, để phát triển tự phát theo nhu cầu của người dân, còn nặng tâm lý khoa cử, nhẹ tâm lý thực nghiệm, chưa gắn đào tạo với sử dụng và chưa chú ý đúng mức công tác đào tạo nghề.Về cơ cấu đào tạo theo ngành dịch chuyển chậm, năm 2002 tỷ trọng lao động nông nghiệp là 61,14%, công nghiệp là và xây dựng là 15,05%, dịch vụ là 23,81%, đến thời điểm năm 2004 các chỉ số tương ứng là 57,9%; 17,4% và 24,7%. Chất lượng nguồn nhân lực: Về trình độ học vấn phổ thông, qua cuộc điều tra lao động việc làm năm 2004, trong tổng lực lượng lao động cả nước có 5% mù chữ, 12% chưa tốt nghiệp tiểu học 30,5% tốt nghiệp tiểu học, 32,8% tốt nghiệp phổ thông cơ sở và 19,7% tốt nghiệp phổ thông trung học. Đặc biệt có sự cách biệt lớn về trình độ giữa lực lượng lao động thành thị và nông thôn cũng như giữa các vùng lãnh thổ. Năm 2004, ở đồng bằng sông Hồng cứ 100 người tham gia lao động thì cứ 27 người tốt nghiệp phổ thông trung học, 51 người tốt nghiệp phổ thông cơ sở và chỉ có 3 người mù chữ hoặc chưa tốt nghiệp tiểu học trong khi đó ở đồng bằng sông Cửu Long có các chỉ số tương ứng là 11; 16 và 33, Tây Bắc là 12; 23 và 35, Tây Nguyên là 16; 26 và 26. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động. Năm 2004, lao động qua đào tạo nói chung ở nước ta đạt 22,6% trong tổng lực lượng lao động. Trong đó qua đào tạo nghề mới đạt 13,4% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 4,4%, tốt nghiệp đại học, cao đẳng chiếm 4,8% nói chung còn thấp . Về đào tạo đại học và trên đại học đang có xu hướng nghiêng nhiều về các ngành xã hội, các ngành kỹ thuật, công nghệ thiếu nhân lực trình độ cao, cơ cấu đào tạo nghề bất hợp lý với 85% là đào tạo ngắn hạn, chỉ có 15% là đào tạo chính quy và dài hạn, cơ sở đào tạo nghề ở nước ta phân bố không đều, vùng chiếm tỷ trọng lớn nhất là đồng bằng sông Hồng với 30,2%, tiếp đó là đồng bằng Nam Bộ 26,5%, Đông Bắc 13%, Bắc Trung Bộ 12,1%, Duyên Hải Nam Trung Bộ 9,9%, đồng bằng sông Cửu long 6,7%, Tây Nguyên 0,9%, Tây Bắc 0,7%. Sự phát triển các cơ sở dậy nghề có sự mất cân đối giữa các vùng phản ánh nhu cầu đào tạo nghề phụ thuộc vào tình trạng tăng trưởng và phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển khu công nghiệp, thành phố và mức độ hoạt động của thị trường lao động giữa các vùng Về trang bị thiết bị phục vụ cho đào tạo chuyên môn kỹ thuật tay nghề còn bất cập vừa thiếu về số lượng vừa lạc hậu về chất lượng. Qua khảo sát thực tế ở các địa phương, cơ sở có đến hơn 50 % số trang thiết bị của cơ sở đào tạo nghề được sản xuất trước năm 1990 và hơn 6% sản xuất trước năm 1975, thậm chí từ năm 1960, số trang thiết bị hiện đại, đáp ứng tốt cho công tác dạy nghề chỉ đạt 20%. Đặc biệt là trang thiết bị đào tạo nghề trong các ngành: cơ khí, hoá chất, luyện kim, sửa chữa thiết bị chính xác, in ấn… lạc hậu rất nhiều so với công nghệ áp dụng hiện nay trên thế giới. Một bộ phận cơ sở đào tạo nghề có trang thiết bị cho đào tạo, rèn luyện kỹ năng nghề còn lạc hậu hơn so với công nghệ đang vận hành trong nền kinh tế. Ngoài ra, chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, hiện tượng dạy chay còn phổ biến, đội ngũ giáo viên còn nhiều bất cập nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền Trung… đã làm ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo dạy nghề và nguồn nhân lực ở nước ta. 2. Một số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện được mục tiêu phát triển về quy mô và cơ cấu đôi ngũ lao động đã qua đào tạo đến năm 2010, từng bước nâng cao chất lượng về trí lực và thể lực và tính năng động lao động xã hội, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá về kinh tế, giai đoạn 2006-2010 cần tập trung vào các nhóm cơ bản sau: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dưới góc độ dân số, giáo dục và đào tạo Gia tăng dân số tác động không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Nếu không kiểm soát được tình trạng này chắc chắn sẽ dẫn đến hàng loạt vấn đề thách thức như an ninh lương thực, môi trường…Vì thế song song với việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số phải tích cực lồng ghép chương trình dân số vào chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, của từng vùng, miền, địa phương. Không những vậy việc thực hiện chính sách dân số phải đồng bộ, từng bước và có trọng điểm để điều hoà quan hệ giữa số lượng và chất lượng dân số, giữa phát triển dân số và phát triển nguồn nhân lực… để có thể tận dụng được một cách tốt nhất những cơ hội, đồng thời hạn chế những bất cập do việc gia tăng dân số đem lại, để nguồn nhân lực thực sự trở thành thế mạnh và tài sản vô giá của đất nước, cả hiện tại và mai sau. Khác với xã hội nông nghiệp trước đây, sự phát triển kinh tế của nền kinh tế, xã hội ngày nay phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nguồn nhân lực và khoa học công nghệ. Trong khi đó chất lượng nguồn nhân lực lại phụ thuộc nhiều vào công tác giáo dục và đào tạo. Vì vậy không có gì quan trọng hơn việc tăng cường công tác giáo dục, đào tạo để qua đó nâng dần chất lượng nguồn nhân lực, đúng như Đảng ta xác địn “Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ”. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhắc nhở: “ Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi”.V.I. Lê- nin, trong tác phẩm Thà ít mà tốt cũng đã đề cao vai trò của việc học tập khi nhấn mạnh rằng: “ Không có cách nào khác ngoài việc học tập,… học tập,… học tập mãi mãi và phải làm sao cho việc học tập thực sự ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người, hoàn toàn và thực sự trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống” Kinh nghiệm về giáo dục - đào tạo của các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc cho thấy để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự phát triển, đều quan tâm đến vấn đề đào tạo. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản là một nước bại trận, thiếu thốn tụt hậu về kỹ thuật nhưng quốc gia này vẫn lựa chọn truyền thống trong giáo dục. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản được ưu tiên đầu tư trên khía cạnh, được sự quan tâm tạo điều kiện của mỗi gia đình và toàn xã hội. Hàn Quốc bị ảnh hưởng nhiều của nền văn hoá Nho giáo nên chú trọng phát triển giáo dục và coi trọng người thầy. Nhờ đó, đầu tư cho giáo dục của Hàn Quốc đã không ngừng tăng lên trong suốt gần 50 năm qua. Trung Quốc có chính sách mạnh dạn tìm người tài. Trước tiên Trung Quốc đang thực hiện việc phát hành “thẻ xanh”, một loại thẻ dành cho những kỹ thuật viên, các nhà đầu tư, các nhà doanh nghiệp với một đặc quyền là vào Trung Quốc không cần visa… Còn tại Việt Nam, cần thực hiện mạnh mẽ các cuộc cải cách giáo dục, thực hiện giáo dục đào tạo theo 4 phân hệ: phân hệ giáo dục đào tạo cơ bản cho mọi người, phân hệ giáo dục đào tạo chất lượng cao, phân hệ giáo dục đào tạo thích hợp, phân hệ giáo dục đào tạo thường xuyên. Các phân hệ này được đặt trong một hệ thống giáo dục thống nhất, có sự liên kết chặt chẽ và hỗ trợ nhau. Không những vậy cần đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các cấp trình độ. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục- đào tạo. Đổi mới cơ chế giáo dục đào tạo hướng vào thực hiện các mục tiêu: Tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; phát huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hoá. Thực hiện công bằng trong giáo dục và đào tạo, thực hiện xã hội hoá nguồn đầu tư cho giáo dục, mở rộng nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, thực hiện đa dạng hoá các loại hình giáo dục… Để việc giáo dục- đào tạo phát huy được vai trò trong sự nghiệp đổi mới cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng. Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao nhất là những người tài là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng bởi “ máy móc không chỉ thay thế lao động cơ bắp mà còn nhân lên sức mạnh trí tuệ con người, lực lượng sản xuất xã hội chuyển từ dựa nhiều vào vật chất sang nhiều hơn vào trí lực và sức sáng tạo của con người. Sức sáng tạo con người là vô hạn, tài nguyên là có hạn. Cho nên kinh tế dựa vào tri thức mở ra nhiều triển vọng to lớn, những khả năng vô hạn cho con người giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách mà mình đang phải đối mặt” Vì thế cần đổi mới cơ chế quản lý đối với nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Bởi vì, có người tài, lại có một cơ chế quản lý phù hợp sẽ phát huy tối đa được những kiến thức của họ, sẽ góp phần làm cho đất nước không bị tụt hậu. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dưới góc độ phát triển việc làm Hiện nay sức ép lớn nhất, trực tiếp nhất của gia tăng dân số chính là vấn đề việc làm. Để giải quyết tốt vấn đề này cần tập trung vào các nội dung sau: Phát triển việc làm phải nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu việc làm phù hợp với yêu cầu phát triển, góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hiệu quả lao động và sức cạnh tranh trên thị trường. Thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trước hết là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại và cả kinh tế hộ gia đình, phát triển các ngành sử dụng công nghệ phù hợp với khả năng thu hút nhiều lao động. Phát triển mạnh các ngành kinh tế mũi nhọn, theo hướng xuất khẩu các khu du lịch và dịch vụ với chất lượng ngày càng cao; các ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao; các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở nhiều việc làm. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia, khuyến khích hỗ trợ tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm mới cho lao động thất nghiệp, lao động thiếu việc, lao động cần chuyển dịch việc làm phù hợp đặc biệt là lao động trẻ. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm tạo môi trường thuận lợi về mặt pháp lý ngoài những chính sách, chế độ hiện hành, các cấp các ngành hữu quan cần tiếp tục nghiên cứu ban hành những quy định cụ thể tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, ách tắc cản trở phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đồng thời Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung, sửa đổi, hoặc ban hành các chính sách mới và giải pháp về di dân có tổ chức bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, phù hợp với tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển những năm tới, có cơ chế quản lý và phối hợp đồng bộ giữa nơi đi và nơi đến để nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước đối với các luồng di dân khác đảm bảo sự phân bố hợp lý nguồn nhân lực của đất nước. Kết luận Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã, đang và sẽ là xu hướng phát triển chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng nền kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực đời sống xã hội, làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Nhưng cơ sở, động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là gì? Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, đồng thời là trung tâm của của mọi biến đổi lịch sử. Trong xã hội hiện nay, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn chính là con người. Chính vì vậy, quá trình này đòi hỏi phải có về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác, nguồn nhân lực phải trở thành động lực thật sự của sự phát triển. Qua toàn bộ phân tích trên, em muốn khẳng định rằng nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực, một nguồn lực vô tận, nếu chúng ta biết nuôi dưỡng và khai thác hợp lý. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Đồng thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải vì sự phát triển con người Việt Nam toàn diện, con người phải được coi là giá trị tối cao và là mục đích của sự nghiệp đầy khó khăn, phức tạp nhưng tất yếu này. Hà Nội, ngày 26 tháng 5 năm 2006 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Hương Tài liệu tham khảo C.Mac- F. Anghen tuyển tập, tập I. Nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội – 1981 C. Mac- F. Angen tuyển tập, tập VI. Nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội- 1981 Hồ Chí Minh: toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội- 1997 Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2001 Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện hội nghị lần thứ tư. Ban chấp hành TW khoá VII. Tạp chí Lý luận chính trị số 4- 2001 Tạp chí Lao động và xã hội số 267( 16- 31/7/2005) Tạp chí cộng sản số 10( T5/2005) Nghiên cứu con người số 2(5) 2003. Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH-HĐH - Phạm Minh Hạc, Nxb chính trị quốc gia 1996. Giáo trình triết học Mác – Lênin của Nxb chính trị quốc gia( tập I, tập II) Giáo trình kinh tế chính trị học cuả Nxb Giáo Dục 1996 Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học của Nxb chính trị quốc gia- 2005 Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35810.doc
Tài liệu liên quan