Tiểu luận Phép biện chứng có ý nghĩa như thế nào đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người

Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với qui luật phát triển của nhận thức.Đây là một triết học toàn diện nhất,sâu sắc nhất và triệt để nhất của sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.Với bản chất khoa học cách mạng phép biện chứng duy vật đã,đang và tiếp tục cung cấp cho chúng ta hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến,thực sự khoa học và có hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hộinói chung.Vận dụng trung thành và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,đặc biệt là phép biện chứng duy vật là vấn đề nguyên tắc đối với tất cả các Đảng Cộng Sản và phong trào công nhân quốc tế,trong đó có Việt Nam.Thực tiễn chứng minh rằng,trải qua những bước khác nhau trong mọi hoàn cảnh,phép biện chứng duy vật luôn tỏ ra là đỉnh cao của trí tuệ loài người,luôn có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn.Thực tiễn cũng luôn xảy ra các vấn đề hết sức phức tạp của từng nước,từng quốc gia, dân tộc và đặc điểm văn hoá,kinh tế,xã hội . Ngày nay,việc bảo vệ phép biện chứng duy vật dưới sự xuyên tạc của những kẻ thù tư tưởng của nó,cũng như việc thường xuyên nghiên cứu,phát triển,hoàn thiện nó đều hết sức quan trọng.Muốn bảo vệ trước hết phải phân tích,muốn phát triểnphảI bảo vệ bản chất khoa học cách mạngcủa phép biện chứng duy vật.Thực tế khẳng định rằng,việc đó không chỉ là vấn đề thuần tuý lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc,nóng bỏng hiện nay.

doc20 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1703 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng có ý nghĩa như thế nào đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Nhận thức,tư duy con người có quan hệ như thế nào với thế giới xung quanh?Con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực hay không?Mà khi con người nhận thức được thế giới xung quanh thì việc áp dụng các hiểu biết đó vào thực tiễn như thế nào?Đây là một trong hai vấn đề cơ bản của triết học. Trong triết học Mac-Lênin,phép biện chứng duy vật được coi là phương pháp luận chung nhất của mọi hoạt động thực tiễn,giúp con người nhận thức được thế giới. Vậy phép biện chứng là gì và nó có ý nghĩa như thế nào đối vói nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người? Chúng ta sẽ xem xét các vấn đề này ở dưới đây trong các khía cạnh,để hiểu thêm về phương pháp biện chứng và phép biện chứng duy vật. A I/phương pháp luận Trước khi tìm hiểu về các vấn đề của phép biện chứng duy vật ta sẽ xem xét qua: như thế nào là phương pháp luận?Có thể nói một cách tổng quát phương pháp luận là lý luận về phương pháp,là khoa học về phương pháp.phương pháp luận giải quyết các vấn đề như:phương pháp là gì?Bản chất,nội dung,hình thức của phương pháp như thế nào?Phân loại phương pháp ra sao?Vai trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt đọng thực tiễn của con người như thế nào?…Do đó có thể nói cách khác cụ thể hơn,phương pháp luận là hệ thống những quan điểm ,những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo cụ thể tổng việc xác định phạm vi,khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý có hiệu quả tối đa. Mọi khoa học đều có lý luận về phương pháp của mình,vì khi nghiên cứu đối tượng,các khoa học đều phải xác định cho được các phương pháp thích hợp,kiến giải tính tất yếu của các phương pháp được sử dụng và mối liên hệ giữa các phương pháp đó. Phương pháp luận được phân thành: -phương pháp luận phổ biến -phương pháp luận chung và phương pháp luận riêng Giữa chúng có sự liên hệ tác động qua lại . Đặc biệt phép biện chứng duy vật là phương pháp luận phổ biến,có ý nghĩa rất to lớn trong hoat động nhận thức và thực tiễn xã hội mà chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây II/vai trò của phương pháp luận 1.phương pháp biện chứng Trước hết chung ta cần hiểu phương pháp biện chứnglà hệ thống các nguyên tắc được hình thành trên cơ sở các nguyên lý ,quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật.Các nguyên tắc này tuy có nội dung khác nhau song chúng có sự liên hệ bổ sung lẫn nhau,tạo thành một công cụ có vai trò to lớn trong nhận thức các quy luật của thế giới khách quan Ta hãy xem xét một số nguyên tắc của phép duy vật biện chứng Nguyên tắc về tính khách quan của sự xem xét Cơ sở lý luận của nó là vai trò quyết định của vật chất trong quan hệ đối vứi ý thức,còn yêu cầu đối với mọi khoa học ta khi nghiên cứu sự vật phải xuất phát từ bản thân sự vật,để chỉ ra các quy luật khách quan chi phối sự vận đông và phát triển của sự vật ấy Nguyên tắc về tính toàn diện Là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.Trong các ngành khoa học,việc nhận thức bản chất của sự vật phải được xem xét trong trạng thái toàn vẹn và phức tạp của nó.Cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt,tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếpcủa sụ vật đó Nguyên tắc xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động Cơ sở lý luận là nguyên lý về sự phát triển.Với yêu cầu là khi thực hiện nguyên tắc này không chỉ dừng ở chỗ liệt kê các giai đoạn phát triển lịch sử mà sự vật đã trải qua,mà phải vạch ra tính tất yếu,những quy luật chi phối sự liên hệ và thay thế các trạng thái,từ trạng thái này sang trạng thái khác của sự vật Nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và logíc ở đây:lịch sử là khách thể được nghiên cứu trong sự vận động và phát triển.Logíc là sự tái tạo dưới hình ảnh tinh thần khách quan đang vận động và phát triển với những mối liên hệ tất yếu và xác định.Cơ sở lý luận của nó là:phương pháp lịch sử và phương pháp logíc.Yêu cầu chung là phương pháp lịch sử phải nắm lấy cái logíc,xoay quanh cái logíc.Phương pháp logíc phải dựa trên các tài liệu lịch sử để vạch ra những mối liên hệ tất yếu,những quy luật khách quan vốn có trong quá trình lịch sử. Nguyên tắc thống nhất giữa phân tích và tổng hợp,giữa qui nạp và diễn dịch Phân tích và tổng hợp được tiến hành trong quá trình nhận thức là sự lặp lại trong ý thức quá trình phân giải và tổng hợp ở thế giới khách quan Quy nạp là thao tác mà tư duy đi từ tri thức về cái riêng (sự vật hiện tượng,quá trình riêng lẻ),đến tri thức về cái chung,từ tri thức ít chung đến tri thức chung hơn Diễn dịch là thao tácnhờ đó tư duy đi từ tri thức chung đến tri thức ít chung hơn,đến tri thức về cái riêng Nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể Cơ sở lý luận là sự tổng hợp lại nhờ tư duy lý luận các tài liệu do trực quan sinh động đem lại ,ở đây cái trừu tượng phản ánh những mối liên hệ phổ biếnnhất,đơn giản nhất nhưng có vai trò quyết định trong cái cụ thể nghiên cứu 2.phương pháp biện chứng là đỉnh cao của tư duy khoa học Có thể nói giá trị của phép biện chứng duy vật không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của những người sáng tạo ra nó mà giá trị đó được thể hiện ở chỗ “Giải pháp những vấn đề mà tư tưởng tiến tới của loài người đặt ra”,soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại,đó là nhiệm vụ giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức bóc lột,khỏi sự tha hoá.Mác khẳng định:Các nhà triết học trước đây chỉ tìm mọi cách giải thích thế giới bằng những cách khác nhau ,song cái chính là cải tạo thế giới.Có thể nói rằng cho đến nay,phép biện chứng duy vật vẫn là cơ sở thế giới quan,phương pháp luận khoa học duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử đó mà chưa có mặt học thuyết nào có thể thắng thế được,không chỉ những người Macxít chân chính là ngay cả một số học giả tư sản cũng thừa nhận vai trò của học thuyết đó.Chỉ có phép biện chứng duy vật mới có sự giải thích khoa học về những quá trình vận động ,phát triển của tự nhiên,xã hội và tư duy,nắm được quy luật vận động của lịch sử,đem lại một giải pháp khoa học cho những vấn đề cho cuộc sống đặt ra và đặt ra phương hướng giải quyết những vấn đề đó một cách khoa học .Tuy nhiên,nếu chỉ dừng lại ở sự thừa nhận thôi chưa đủ.Ngày nay,khoa học và thực tiễn luôn vận động,biến đổi nên triết học Mác-Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng cũng cần được bổ sung và phát triển nếu chúng ta không muốn lạc hậu so với thực tiễn.Phép biện chứng duy vật vừa là yêu cầu của thực tiễn xã hội,vừa là yêu cầu của nội tại học thuyết đó.Có phát triển được và thông qua phát triển,học thuyết đó mới bảo vệ mình và mới phát huy được tác dụng và những giá trị của nó. Trước Mac-Ănghen trong cuộc đấu tranh trường kỳ của các phái trào lưu triết học ,nhân loại đã biết đến nhiều nhà duy vật và biện chứng lớn,đánh dấu những bước phát triển mới của tư duy triết học của con người trên con đường tìm tới chân lý.Thế nhưng tất cả các nhà triết học đó do sự hạn chế của các điều kiện khách quan và chủ quan đều chưa đem lại choloài người một thế giới toàn bộ triệt để,một phương pháp luận khoa học cách mạng ở các vị trí đó ta thường bắt gặp tính không nhất quán,duy vật khi giải thích vấn đề này,nhưng lại duy tâm khi giải thích vấn đề khác ,duy vật nhưng lại siêu hình,không biện chứng hoặc biện chứng nhưng lại tiến tới duy tâm.Điều quan trọng nhất là tất cả các nhà triết học trước Mác để đứng lại ở nhận thức lĩnh vựctự nhiên và khi chuyển sang nhận thức vấn đề xã hội họ đều không tránh khỏi rơi vào duy tâm,sai lầm,phản khoa học.Mác-Ănghen là những người đầu tiên thống nhất chủ nghĩa duy vật biện chứng hay phép biện chứng duy vật.phép biện chứng ra đời đánh dấu bước phát triển mới về chất trong lĩnh vực triết học,đó là học thuyết triết học hoàn bị,triệt để thống nhất được xây dựng trên lập trường thế giới quan mới.Nó bao hàm cả lĩnh vự tự nhiên xã hội và tư duy con người.Phép biện chứng duy vật không phải là tổng số những nguyên lý,quy luật,phạm trù mà các nhà kinh điển của chúng ta tạo ra là sự liên hệ hữu cơ có nguyên tắc của các tri thức đã đựoc xác lập trong hệ thống ấy.Giá trị thời đại của học thuyết ấy là ở chỗ nó là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp,giữa lý luận và thực tiễn ,giữa tính khoa học và cách mạng. Phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở,năng động,nó dành cả một phương hướng rộng lớn cho sự chứng minh của khoa học,cho sự bù đắp của tri thức nhân loại,là sự hướng dẫn và là động lực cho con người trong việc cải tạo tự nhiên xã hội và tư duy.Phép biện chứng ra đời từ sự sáng tạo và đồng thời cũng đặt ra yêu cầu sáng tạo trong việc vận dụng nó trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.Nếu như trước đây phép biện chứng đôi khi do các nhà duy tâm nghiên cứu và các nhà duy vật dù là phản đối phép siêu hình thì bây giờ phép biện chứng đó đã tìm thấy người bạn đồng hành tin cậy duy nhất của mình là chủ nghĩa duy vật.Nếu như trước đây lý luận và phương pháp đôi khi bị tách rời nhau,thì bây giờ chúng đẫ trở thành sự thống nhất gắn bó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong phép biện chứng duy vật đã trở thành học thuyết thống nhất của tồn tại và nhận thức,trở thành phương pháp luận chung nhất của việc nhận thức và cải tạo thế giới.Lênin khẳng định phép biện chứng duy vật là”học thuyết về sự phát triển,dưới hình thức hoàn bị nhất ,sâu sắc nhất và không phiến diện” Phép biện chứng duy vật không giống bất cứ một học thuyết triết học nào khác,bởi vì nó không phải là sản phẩm của phương pháp tư duy mà nó là sự phản ánh khách quan thế giới vật chất,là sự kích thích những giá trị tư tuởng,văn hoá nhân loại,nó kế thừa tiếp thu có phân hoá những hạn chế của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử,đồng khái quát những thàng tựu mới nhất của khoa học tự nhiên.Học thuyết đó luôn lấy thực tiễn làm cơ sở,điểm xuất phát của mình.Thực tiễn vừa là cơ sở,vừa là mục đích,động lực,tiêu chuẩn để đánh giá sức bền của nó.Chính hơi thở của thực tiễn đã làm cho phép biện chứng duy vật luôn sống động,phát triển.Lênin chỉ rõ:”Quan điểm về đời sống,về thực tiễn,phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Trong quá trình xây dựng hệ thống triết học của mình các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác luôn đấu tranh không khoan nhượng chống lại mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù và bảo vệ những quan điểm khoa học của mình B phép biện chứng duy vật Có thể nói từ thời cổ đại người ta đã hiểu phép biện chứng là nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý ,bằng cách vạch ra những mâu thuẫn trong lập luận của đối phương.Quan điểm ấy đã thể hiện những hiểu biết nhất định về yếu tố cơ bản của phép biện chứng là mâu thuẫn. Định nghĩa phép biện chứng cho biết,phép biện chứng nói chung chỉ mối liên hệ,vận động,phát triển của các sự vật phát triển.Thực chất của các mối liên hệ vận động phát triển ấy là sự thống nhất,đấu tranh của các mặt đối lập gọi là mâu thuẫn. Quan điểm biện chứng cho rằng các sự vật,hiện tượng hay những sản phẩm tinh thần của thế giới,tồn tại trong mối liên hệ,tác động lẫn nhau và không ngừng vận động phát triển. Đối lập với quan điểm biện chứng,quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng trong thế giới tồn tại cô lập ,tách rời nhau,tĩnh tại,không vận động,không phát triển.Nếu có sự thừa nhận trong quan điểm này về vận động của thế giới thì đó chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về lượng hoặc vân động theo chu kỳ khép kín. Những người theo quan điểm siêu hình nói chung phủ nhận sự phát triển,họ tuyệt đối hoá các mặt ổn định của sự vật,hiện tượng.Họ cho rằng không có sự ra đời của cái mới và nguồn gốc của chúng nằm ở bên ngoài sự vật,hiện tượng.Như vậy quan điểm biện chứng khác quan điểm siêu hình ở chỗ :Nó xem xét sự phát triển như một quá trình tiến lên,thông qua những bước nhảy vọt,cái cũ mất đi và cái mới ra đời.Nó vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận động và phát triển,đó là cuộc đấu tranh giữa những mặt đối lập bên trong của sự vật ,hiện tượng. Có hai loại phép biện chứng đó là:biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan Trong lịch sử triết học có ba hình thức cơ bản của phép biện chứng ,phản ánh trình độ nhận thức khác nhau của nhân loại về biện chứng khách quan của thế giới:phép biện chứng ngây thơ,phép biện chứng duy tâm,phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng ngây thơ tự phát cổ đại,tiêu biểu là Hêcralít.Ông cho rằng sự vận động và phát triển của thế giới giống như dòng chảy của một con sông,như vậy không ai tắm hai lần trên một dòng sông.Biện chứng ngây thơ dựa trên quan sát có tính trực quan,chỉ có ý nghĩa vô thần,chống lại quan niệm tôn giáo về thế giới,ít có giá trị khoa học.Biện chứng ngây thơ là hạn chế,bị phương pháp siêu hình xoá bỏ Biện chúng duy tâm ,người tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm khách quan là Heghen.Ông là người đầu tiên có công xây dựng tương đối hoàn chỉnh phép biện chứng duy vật với hệ thống các phạm trù,khái niệm,và các qui tắc cơ bản.Tuy nhiên,phép biện chứng của Heghen còn thiếu triệt để và thiếu khoa học. Biện chứng duy vật do Mác-Ănghen sáng lập ra vào giữa thế kỷ 19.Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng.Nhờ đó khắc phục được các hạn chế trước đây của phép biện chứng chất phác và phép biện chứng duy tâm và thực sự trở thành khoa học,đưa con người tới bến bờ chân lý.Phép biện chứng duy vật bao gồm các nguyên lý,phạm trù, qui luật Ta sẽ lần lượt xem xét các khía cạnh này I/hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật 1.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng Trước hết ta cần hiểu mối liên hệ là chỉ sự phụ thuộc tác động và chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật,hiện tượng hoặc giữa các yếu tố,các mặt hay các quá trình khác nhau của chúng.Các mối liên hệ không chỉ mang tính chất phổ biến mà còn mang tính đa dạng Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm liên hệ phổ biến là liên hệ giữa các sự vật,hiện tượng của toàn bộ thế giới khách quan(gồm cả tự nhiên,xã hội và tinh thần).Theo nó trong thế giới không có sự vật nào tồn tại độc lập,tách rời,không liên hệ với các sự vật khác,trái lại chúng đều liên hệ với nhau theo phương thức nào đó và tạo những hệ thống chằng chịt của thế giới.Liên hệ không chỉ giữa các sự vật với nhau mà còn có các yếu tố,các mặt bên trong của sự vật,giữa các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật. Đối lập với quan điểm về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật.Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật trong thế giới tồn tại một cách cô lập,tách rời nhau.Còn quan điểm biện chứng duy vật cho rằng mối liên hệ phổ biến là liên hệ hiện thực khách quan vốn có trong các sự vật,hiện tượng không do ai sắp đặt,sáng tạo ra cả.Đặc trưng của mối liên hệ là mang tính phổ biến,mang tính khách quan và tính đa dạng Trong các mối liên hệ,có thể phân ra một số loại như sau: Liên hệ bên trong và bên ngoài ,liên hệ bên trong là liên hệ giữa các yếu tố các mặt bên trong của sự vật còn liên hệ bên ngoài là liên hệ giữa các sự vật với nhau.Liên hệ bên trong qui định sự tồn tại,phát triển của sự vật,liên hệ bên ngoài tác động thông qua liên hệ bên trong .Mối liên hệ bên trong và bên ngoài chỉ có tính tương đối Liên hệ cơ bản và không cơ bản ,liên hệ cơ bản là mối liên hệ giữa các mặt,các yếu tố cơ bản của sự vật.Liên hệ không cơ bản là mối liên hệ giữa các mặt,các yếu tố không cơ bản của sự vật.Liên hệ cơ bản quyết định sự phát triển của sự vật,còn liên hệ không cơ bản phụ thuộc vào liên hệ cơ bản.Sự phân biệt chúng chỉ mang tính tương đối. Liên hệ chủ yếu và liên hệ thứ yếu,liên hệ chủ yếu là liên hệ nổi lên ở một thời điểm nhất định trong sự phát triển của sự vật và quyết định sự phát triển của sự vật tại thời điểm đó,còn liên hệ thứ yếu là liên hệ không quyết định sự phát triển của sự vật ở thời điểm nói trên.Hai mối liên hệ này có thể chuyển hoá lẫn nhau Liên hệ gián tiếp và liên hệ trực tiếp ,liên hệ gián tiếp là liên hệ được xác lập qua khâu trung gian nào đó,còn liên hệ trực tiếp là liên hệ không qua trung gian.Sự phân biệt này chỉ mang tính tương đối Những mối liên hệ khác nhau của sự vật có nội dung và vai trò khác nhau trong sự tồn tại,phát triển của sự vật ý nghĩa phương pháp luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Cần xuất phát từ tính khách quan của mối liên hệ để nhận thức và vận dụng nó.Cần phải có quan điểm toàn diện trong việc nhận thức và tác động lên sự vật.Nghĩa là khi nhận thức và vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến,phải đặt sự vật,hiện tượng trong các mối liên hệ khách quan,vốn có của nó để nghiên cứu và tác động lên chúng.Cần phải phân loại các mối liên hệ để thấy được nội dung,vị trí và vai trò của mối liên hệ trong sự phát triển của sự vật. 2.nguyên lý về sự phát triển của các sự vật hiên tượng Có thể hiểu phát triển là sự vận động của các sự vật,hiện tượng theo chiều hướng đi lên từ thấp lên cao,từ giản đơn đến phức tạp,đưa đến sự ra đời của cái mới thay thế cho cái cũ. Quan điểm siêu hình nói chung về sự phát triển là coi phát triển chỉ là sự biến đổi thuần tuý về lượng hoặc phủ nhận sự phát triển của thế giới.Quan điểm siêu hình cho rằng,nguồn gốc phát triển được đem từ ngoài vào thế giới. Chủ nghĩa duy tâm nói chung cho rằng,sự phát triển thế giới về thực chất chỉ là sự phát triển của tinh thần và do nguyên nhân tinh thần chi phối. Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền với sự vận động,không có sự vận động tương tác giữa các sự vật,hiện tượng với nhau thì không có khả năng hoặc tiền đề để cho bất cứ sự phát triển nào.Tuy nhiên,không phải vận động nào cũng đưa tới sự phát triển.Trong thực tế có những vận động thụt lùi,kìm hãm tiến bộ.Chỉ có các vận động theo chiều hướng tiến lên,đưa đến sự ra đời của cái mới thay thế cho cái cũ mới là sự phát triển.Không có cái mới xuất hiện thì không có sự phát triển.Cái mới bao hàm trong nó cái tiến bộ,cái tích cực,sau khi đã loại bỏ cái tiêu cực,cái lạc hậu của cái cũ.Cái mới làmột chất lượng khác,mới trong sự phát triển của sự vật.Nó tổng hợp sự phát triển của sự vật trước đó thành một giai đoạn cao hơn. Phát triển là quá trình khách quan của thế giới.Nó không chỉ phụ thuộc vào ý thức,ý chí con người mà còn qui định ý thức con người. Phát triển còn là quá trình phổ biến của thế giới,đồng thời là quá trình mang tính đa dạng.Mỗi sự vật,hiện tượng trong thế giới có quá trình phát triển và biểu hiện sự phát triển khác nhau Phát triển còn là quá trình thống nhất giữa tính tất yếu và tính đa dạng.Khuynh hướng chung,tất yếu của thế giới là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao,từ giản đơn đến phức tạp đưa đén sự xuất hiện của cái mới thay thế cho cái cũ.Phát triển là một quá trình quanh co,phức tạp,bao hàm cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ,bao hàm cả những bước hụt lùi tạm thời,những sự vận động đi chệch,một quá trình dường như lặp lại cái cũ nhưng ở một trình độ cao hơn.Do đó phát triển được diễn đạt như một đường xoắn ốc đi từ thấp lên cao của thế giới khách quan. ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển Cần xuất phát từ quá trình phát triển khách quan của sự vật để nhận thức,tác động lên nó.Phát triển là quá trình tất yếu khách quan cho nên phải có quan điểm phát triển trong nhận thức thì mới phản ánh,nắm bắt đúng đắn,kịp thời những thay đổi của sự vật,hiện tượng để từ đó đề ra những giải pháp tác động cải biến sự vật một cách phù hợp.Phát triển là quá trình bao hàm những mâu thuẫn có cả những bước thụt lùi tất nhiên,không tránh khỏi,do đó cần phải lường trước và biết chấp nhận những thất bại tạm thời để chuẩn bị cho những bước đi tiếp theo nhằm đạt được mục đích cuối cùng trong hoạt động. III/những qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật 1.Qui luật mâu thuẫn Mâu thuẫn và mặt đối lập thường được dùng như những khái niệm đồng nghĩa.Nhưng hiểu cho đúng hơn thì mâu thuẫn là mối quan hệ giữa các mặt đối lập,còn mặt đối lập là mỗi mặt hợp thành của mâu thuẫn .Mỗi mặt đó hợp thành từ nhiều thuộc tính ,nhiều khuynh hướng khác nhau . Trong thực tế không phải mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn ,chỉ những mặt đối lập nào liên hệ với nhau thành một chỉnh thể ,tác động qua lại với nhau mới thành mâu thuẫn .Khái niệm khác nhau chỉ là một trong những hình thức biểu hiện một giai đoạn phát triển của mâu thuẫn .Tuy nhiên không chỉ có sự khác nhau biến thành mặt đối lập ,thành mâu thuẫn mà còn có cả quá trình những mặt đối lập ,mâu thuẫn biến thành sự khác nhau Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ sự loại trừ loại bỏ lẫn nhau ,phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập .Đấu tranh xuất hiện khi mâu thuẫn phát triển cao ,đưa đến sự xuất cái mới.Đấu tranh là phương thức tất yếu để giải quyết mâu thuẫn. Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập chỉ sự liên hệ ràng buộc,qui định lẫn nhau giữa các mặt đối lập,mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình Trong qui luật mâu thuẫn,khái niệm thống nhất và đồng nhất dùng như những hái niệm đồng nghĩa.Lênin nói về điều này như sau”Sự đồng nhất giữa các mặt đối lập(“sự thống nhất”của chúng,nói như vậy có lẽ đúng hơn?tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ thống nhất và đồng nhất không quan trọng lắm.Theo một nghĩa nào đó thì cả hai đều đúng),đó là sự thừa nhận(sự tìm ra),những khuynh hướng mâu thuẫn bài trừ lẫn nhau,đối lập trong tất cả các hiện tượng,các quá trình của giới tự nhiên(kể cả tinh thần và xã hội) Chúng ta có thể chỉ rasố đặc điểm của mâu thuẫn như sau: Mâu thuãn tồn tại khách quan trong các sự vật,hiện tượng.Nó không những tồn tại độc lập,không phụ thuộc vào ý thức,ý chí con người mà còn qui định cả ý thức,ý chí con người Mâu thuẫn mang tính phổ biến.Mâu thuẫn có trong mọi sự vật,hiện tượng của thế giới bao gồm cả tự nhiên,xã hội,lẫn tư duy con người.Mâu thuẫn có trong các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật và tồn tại giữa các sự vật,hiện tượng Mâu thuẫn mang tính đa dạng.Mỗi sự vật quá trình của thế giới khách quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau.Mâu thuẫn trong tự nhiên khác mâu thuẫn trong xã hội,khác mâu thuẫn trong tư duy.Bản thân mọi quá trình khác nhau trong tự nhiên,xã hội,tư duy lại có những mâu thuẫn khác nhau Có một số loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn của các mặt đối lập bên trong sự vật,còn mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật khác nhau Mâu thuẫn bên trong quyết định mâu thuẫn bên ngoài và là nguồn gốc bên trong của sự vận động,phát triển của sự vật ,hiện tượng.Mâu thuẫn bên ngoài tác động đến sự phát triển của sự vật phải thông qua mâu thuẫn bên trong Sự vật nào cũng có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.Phân biệt mâu thuẫn bên trong và bên ngoài mang tính tương đối Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản Mâu thuẫn cơ bản qui địnhbản chất của sự vật,nó quyết định sự tồn tại,phát triển của sự vật từ khi hình thành cho đến khi biến đổi thành sự vật khác. Mâu thuẫn không cơ bản được tạo thành từ những mặt đối lập không cơ bản của sự vật,nó không qui định bản chất của sự vật và bị qui định mâu thuẫn cơ bản.Phân biệt mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản chỉ mang tính tương đối Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên trong từng giai đoạn phát triển nhất định của sự vật và quyết địng sự phát triển của sự vật tại giai đoạn đó và chi phối các mâu thuẫn khác. Thông thường,mâu thuẫn chủ yếu là hình thức biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ bản trong giai đoạn nhât định của sự vật Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không quyết định sự phát triển của sự vật tại thời điểm,giai đoạn nào đó,nó tác động phụ thuộc vào mâu thuẫn chủ yếu Phân biệt mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu có tính tương đối Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng. Đây là những loại mâu thuẫn chỉ có trong xã hội.Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp xã hội có lợi ích căn bản đối lập nhau,không thể điều hoà được.Mâu thuẫn này phát triển theo xu hướng ngày càng găy gắt hơn và đòi được giải quyết bằng bạo lực cách mạng của gia cấp bị thống trị chống lại bạo lực của giai cấp thống trị đã lỗi thời,phản động. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng,giai cấp xã hội không đối lập nhau về lợi ích căn bản.Mâu thuẫn này phát triển theo xu hướng ngày càng dịu đi.Cách giải quyết mâu thuẫn này là bằng con đường hoà bình,giáo dục,thuyết phục,phê và tự phê bình Cả hai mâu thuẫn này đều được giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập,chứ không phải là điều hoà giữa các mặt đối lập . ý nghĩa phương pháp luận của qui luật mâu thuẫn tôn trọng tính khách quan của qui luật.Nghĩa là trong hoạt động thực tiễn và nhận thức qui luật phải xuất phát từ sự tồn tại thực tế của qui luật mâu thuẫn để nhận thức và vận dụng nó,chứ không được xuất phát từ mong muốn,của nhận thức của chúng ta về mâu thuẫn Muốn tìm hiểu được nguồn gốc,động lực của sự vận động,phát triển của sự vật thì phải tìm ra,phải căn cứ vào mâu thuẫn của sự vật. Mâu thuẫn là quá trình,do đó phải nhận thức và vận dụng qui luật mâu thuẫn trong quá trình phát sinh,phát triển của sự vật,tuỳ theo mỗi giai đoạn phát triển của mâu thuẫn mà có những cách tác động lên mâu thuẫn khác nhau. Phải có quan điểm phân loại mâu thuẫn trong nhận thức và vận dụng nó. Mọi mâu thuẫn dứt khoát phải được giải quyết thông qua con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập,tránh khuynh hướng thủ tiêu mâu thuẫn hay điều hoà mâu thuẫn dưới hình thức này hay khác. 2.Qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại hay còn gọi là qui luật lượng chất Qui luật lượng chấtvạch ra phương thức hay cách thức của sự vận động phát triển của thế giới. Chúng ta hãy xem xét qua một số khái niệm.Trước hết đó là khái niệm chất,có thể hiểu chất là tính qui định vốn có của sự vật,hiện tượng,là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính ,yếu tố cấu thành sự vật,nói lên sự vật đó là gì và phân biệt nó với các sự vật hiện tượng khác. Lượng là tính qui định của sự vật và hiện tượng về mặt qui mô,trình độ phát triển của nó,biểu thị bằng con số các thuộc tính,các yếu tố cấu thành nó. Giữa lượng và chất có sự thống nhất:Lượng và chất là hai mặt cấu thành của cùng một sự vật hiện tượng,không có lượng tồn tại tách rời với chất và ngược lại.Lượng và chất là hai mặt mâu thuẫn của cùng một sự vật,lượng thường xuyên biến đổi còn chất có xu hướng ổn định,bền vững hơn.Lượng và chất tồn tại,tác động qua lại với nhau trong suất quá trình tồn tại,phát triển của sự vật Khái niệm độ chỉ giới hạn mà trong những thay đỏi về lượng chưa làm cho chất của sự vật thay đổi,sự vật vẫn là nó chưa biến thành sự vật khác. Từ thời điểm mà sự vật diễn ra những thay đổi về chất cho đến khi nó chuyển hoàn toàn thành chất mới là quá trình mà người ta gọi là bước nhảy Tại thời điểm mà sự vật biến đỏi thành sự vật khác,chất cũ hoàn toàn thay thế bằng chất mới,tagọi là điểm nút trong sự phát triển của sự vật . Trong các hình thức của bước nhảy,có thể phân loại như sau:Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận,bước nhảy nhanh và bước nhảy chậm,bước nhảy lớn và bước nhảy nhỏ. ý nghĩa phương pháp luận của qui luật để giữ cho sự vật phát triển tương đối ổn địng trong một chất xác định thì phải giữ vững sự thống nhất của chúng trong độ, sao cho những thay đổi về lượng ở đó không dẫn đén những thay đổi về chất. Muốn đạt được sự thay đổi về chất của sự vật thì phải thực hiện những biến đổi dần dần về lượng,tránh khuynh hướng xem thường những biến đổi về lượng đẻ thực hiện ngay những biến đổi về chất(tả khuynh). Tuỳ theo tính chất cụ thể của những hình thức tác động biểu hiện của qui luật mà có những phương thức,biện pháp tác động,vận dụng chúng thích hợp. 3.qui luật phủ định Có thể nói phủ định là quá trình hình thành và phát triển cái mới trên cơ sở loại bỏ những cái lạc hậu,cái tiêu cực trong cái cũ,giữ lại cái toàn bộ,cái tích cực trong nó và đem vào trong thành phần của cái mới sau khi đã cải biến. Quan điểm trênlà quan điểm về phủ định biện chứng.Nó đối lập với phủ định siêu hình là quá trình loại bỏ,tách rời hoàn toàn cái cũ khỏi cái mới. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về phủ định chỉ rõ,phủ định biện chứng chỉ ra sự nảy sinh cái mới trong lòng cái cũ,bắt nguồn từ cái cũ.ở đây phủ định là sự gián đoạn trong sự phát triển liên tục của sự vật.Nhờ những giai đoạn này,mà sự vật đạt được những trạng thái chất lượng mới trong sự tồn tại,phát triển của chúng. Phủ định biện chứng là quá trình nhiều mặt,không những phủ định về lượng mà còn về chất,bộ phận và toàn bộ,phủ định bao hàm cả khẳng định.Phủ định biện chứng là tự sự phủ định do mâu thuẫn bên trong của sự vật qui định,chứ không phải là quá trình đem từ ngoài vào sự vật.Phủ định là một phương thức mới,một thành tố tất yếu của quá trình phát triển.Sự vật mới,yếu tố mới,hình thành phát triển nhất định phải phủ định sự vật và yếu tố cũ.Không có phủ định thì không có bất cứ quá trình phát triển nào. Khái niệm phủ định của phủ định:phủ định của phủ định là khái niệm chỉ quá trình phát triển của sự vật từ thấp lên cao được thực hiện bằng hai lần phủ định cơ bản,nhờ đó sự vật cũ mất đi,sự vật mới hình thành. Trong thực tế phủ định của phủ định là một chuỗi những phủ định.Mỗi phủ định đều bao hàm khẳng định.Phủ định cho ta thấy tính chất lặp lại trong quá trình phát triển của sự vật.Sau lần phủ định thứ hai sự vật dường như trở lại cái ban đầu. Nhưng thực tế sự quay trở lại đó đã ở trên một trình độ cao hơn về chất so với cái ban đầu của nó.Phủ định nối tiếp nhau theo những chu kỳ tạo thành đường xoắn ốc. Trong thế giới khách quan,phủ định của phủ định là quá trình đa dạng,phong phú,cũng đồng thời là quá trình khách quan ,tât yếu không phụ thuộc vào ý thức ý muốn của con người.Phủ định của phủ định là quá trình phổ biến trong tự nhiên,xã hội và cả tư duy con người. ý nghiã phương pháp luận của qui luật Nhận thức và tác động vào qui luật phủ định của phủ định theo quan đIểm biện chứng có nghĩa là:Nắm vững quan điểm kế thừa trong sự phát triển,vận dụng qui luật này theo nguyên tắc đi từ phủ định bộ phận đến phủ định toàn bộ,căn cứ vào chu kỳ phát triển của sự vật thể hiện qua phủ định của phủ định đẻ nhận thức xu thế tất yếu của nó,nắm vững mối liên hệ của cái nhất thời,cái bộ phận với cái liên tục,cái chung và cái toàn vẹn trong quá trình phủ định biện chứng. Tóm lại,quy luật mâu thuẫn,quy luật lượng chất,quy luật phủ định đều là những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.Chúng đều phản ánh những mối liên hệ căn bản phổ biến và lặp đi lặp lại trong thế giới khách quan,qui định những mặt khác nhau trong sự tồn tại và phát triển của sự vật,trong đó quy luật mâu thuẫn được coi là quyluật cơ bản nhất,quyết định những quy luật khác và nó được gọi là hạt nhân của phép biện chứng. IV/Những cặp phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật Phạm trù là khái niệm cơ bản của khoa học,phản ánh các mối liên hệ chung,cơ bản của các sự vật,hiện tượng.Chủ nghĩa duy vật biện chứng có một số cặp phạm trù sau: Cái chung và cái riêng Cái riêng là phạm trù triết học chỉ từng sự vật,hiện tượng,quá trình phát triển trong thế giới khách quan.Cái chung là phạm trù triết học chỉ những thuộc tính,những mặt hoặc những mối liên hệ nhất định lặp lại,giống ở nhiều sự vật,hiện tượng,quá trình khác nhau.Cái đơn nhất là phạm trù chỉ những thuộc tính,hay yếu tố nào đó của sự vật nhất định,không tồn tại lặp lại trong các sự vật khác.Giữa cái riêng và cái chung có mối liên hệ thống nhất với nhau.Tuy nhiên giữa chúng cũng có sự đối lập,cái riêng là bộ phận còn cái chung là toàn thể.Cái chung,cái riêng,cái đơn nhất có thể chuyển hoá lẫn nhau. Chúng ta phải thấy được vai trò quan trọng,quyết định của cái chung trong sự thiết lập hệ thống các sự vật.thấy được tính phong phú,toàn thể của cái riêng trong sự tồn tại tất yếu của sự vật.Cái đơn nhất thể hiện tính khác biệt của cái riêng này và cái riêng khác. Nguyên nhân và kết quả Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt,các yếu tố của sự vật hay các sự vật với nhau trong điều kiện nào đó,thì gây ra sự biến đổi này hay khác của sự vật.Kết quả là sự biến đổi do tác động lẫn nhau của các yếu tố,các mặt hay các sự vật khác nhau gây nên.Quan hệ nhân quả tồn tại,tác động khách quan,phổ biến và đa dạng trong thế giới.Giữa nguyên nhân và kết quả có một số mối quan hệ:nguyên nhân và kết quả là hai mặt của quá trình thống nhất,giữa nguyên nhân và kết quả cũng có sự đối lập,nguyên nhân kết quả có thể chuyển hoá lẫn nhau.Trong nguyên nhân lại gồm một số loại nguyên nhân :nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài,nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản,nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu,nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.Chúng ta tôn trọng tính khách quan của quan hệ nhân quả.Muốn hiểu nguyên nhân thì phải thông qua kết quả.Phải có quan điểm phân loại nguyên nhân mới thấy vai trò của mỗi nguyên nhân trong việc quyết định kết quả.Muốn khắc phục triệt để hậu quả phải khắc phục từ nguyên nhân.Đó chính là ý nghĩa của phương pháp luận của quan hệ nhân quả. Bản chất và hiện tượng Bản chất là tổng hợp những mối liên hệ bên trong tất nhiên tương đối ổn định của sự vật,và qui định sự tồn tại,phát triển của sự vật.Hiện tượng là những cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.Giữa bản chất và hiện tượng có sự thống nhất,bản chất là cái quyết định hiện tượng,không có bản chất thì không có hiện tượng,hiện tượng chỉ là biểu hiện của bản chất.Bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi.Bản chất và hiện tượng còn có cái đối lập,bản chất là cái bên trong ổn định,tất yếu.Hiện tượng là cái bề ngoài,cái tạm thời,ngẫu nhiên.Ta cần lưư ý,nhận thức bản chất của sự vật phải thông qua các hiện tượng.Để giải thích đúng mỗi hiện tượng lại phải dựa vào hiểu biết bản chất của chúng.Muốn có sự thay đổi về chất của sự vật thì phải làm thay đổi liên hệ cơ bản của chúng. Nội dung và hình thức Nội dung là toàn bộ những yếu tố,những thuộc tính,những mặt,những quá trình khác nhau tạo nên sự vật,hiện tượng.Hình thức là cách thức hay phương thức tổ chức của nội dung(hay là sự liên kết sắp xếp các yếu tố,các thuộc tính,các quá trình khác nhau của sự vật theo một phương thức hay cách thức nào đó).Giữa nội dung và hình thức có sự thống nhất ,nội dung và hình thức là hai mặt không tách rời nhau của sự vật,hiện tượng.Không có nội dung,không có hình thức và ngựoc lại.Tuy nhiên,có một sự đối lập giữa nội dung và hình thức,nội dung quyết định hình thức,hình thức tác động lên nội dung nhưng không quyết định đối với sự tồn tại,phát triển của sự vật.Nội dung và hình thức có thể chuyển hoá cho nhau,giữa chúng không có ranh giới tuyệt đối.Qua đó,chúng ta nhận thấy muốn thay đổi sự vật thì phải biến đổi trước hết các yếu tố của nó.Trong tổ chức hoạt động của con người,cần phải chuẩn bị trước hết các nhân tố,yếu tố tích cực cho việc thiết lập những tổ chức mới. Tất nhiên và ngẫu nhiên Tất nhiên là cái xảy ra do nguyên nhân bên trong cơ bản của sự vật qui định và trong những điều kiện nhất định,nó nhất định phải xảy ra đúng như thế không thể khác được.Ngẫu nhiên là cái xảy ra do nguyên nhân bên trong của sự vật qui định.Cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên tồn tại khách quan,phổ biến và đa dạng trong các sự vật hiện tượng. Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có một sự thống nhất,tất nhiên chỉ có thể xem xét trong quan hệ với cái ngẫu nhiênvà ngược lại.Không có tất nhiên thì không có ngẫu nhiên và ngược lại cũng như thế . Muốn nhận thức cái ngẫu nhiên phải chỉ ra nguyên nhân bên trong cơ bản qui định nó,đối với cái ngẫu nhiên thì giải thích từ nguyên nhân bên ngoài.Nhận thức tất nhiên giúp ta khắc phục hậu quả từ nguồn gốc,từ nguyên nhân của nó. Khả năng và hiện thực Khả năng là những tiền đề phát sinh của cái mới bên trong cái cũ,là những mầm mống,khuynh hướng phát triển khách quan trong các sự vật.Hiện thực là sự xuất hiện của những sự vật,quá trình mới,hay là khả năng đã thành hiện thực.Khả năng và hiện thực là hai giai đoạn của một quá trình thông nhất trong sự phát triển của sự vật.Không có khả năng thì không có hiện thực và ngược lại.Khả năng nào thì hiện thực đó,không có khả năng cho mọi hiện thực và hiện thực cho mọi khả năng.Khả năng và hiện thực khác nhau về bản chất,khả năng là cái có trước và hiện thực là cái có sau.Khả năng qui định hiện thực còn hiện thực phụ thuộc vào khả năng.Giữa khả năng và hiện thực có thể chuyển hoá lẫn nhau. Kết luận Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với qui luật phát triển của nhận thức.Đây là một triết học toàn diện nhất,sâu sắc nhất và triệt để nhất của sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.Với bản chất khoa học cách mạng phép biện chứng duy vật đã,đang và tiếp tục cung cấp cho chúng ta hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến,thực sự khoa học và có hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hộinói chung.Vận dụng trung thành và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,đặc biệt là phép biện chứng duy vật là vấn đề nguyên tắc đối với tất cả các Đảng Cộng Sản và phong trào công nhân quốc tế,trong đó có Việt Nam.Thực tiễn chứng minh rằng,trải qua những bước khác nhau trong mọi hoàn cảnh,phép biện chứng duy vật luôn tỏ ra là đỉnh cao của trí tuệ loài người,luôn có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn.Thực tiễn cũng luôn xảy ra các vấn đề hết sức phức tạp của từng nước,từng quốc gia, dân tộc và đặc điểm văn hoá,kinh tế,xã hội…. Ngày nay,việc bảo vệ phép biện chứng duy vật dưới sự xuyên tạc của những kẻ thù tư tưởng của nó,cũng như việc thường xuyên nghiên cứu,phát triển,hoàn thiện nó đều hết sức quan trọng.Muốn bảo vệ trước hết phải phân tích,muốn phát triểnphảI bảo vệ bản chất khoa học cách mạngcủa phép biện chứng duy vật.Thực tế khẳng định rằng,việc đó không chỉ là vấn đề thuần tuý lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc,nóng bỏng hiện nay. Phép biện chứng có ý nghĩa như thế nào đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35091.doc
Tài liệu liên quan