Kinh tế thị trường - với mặt trái của nó là điều hoàn toàn không thể tránh khỏi. Đảng và Nhà nước ta đã khéo léo vận dụng những ưu điểm của kinh tế thị trường để phát triển nền kinh tế nước nhà, đó là sự vận dụng có sự phù hợp với điều kiện khách quan cũng như chủ quan. Để giảm bớt những tiêu cực, những mâu thuẫn xung quanh vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường thì sự quản lý của Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng.
Một xã hội phát triển hài hoà các mặt kinh tế, đạo đức, văn hoá thực chất đó là một xã hội đậm đà tính người.
Vì vậy có thể nói, khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta xây dựng đồng nghĩa với khái niệm kinh tế thị trường nhân văn. Phấn đấu từng bước đạt tới những mục tiêu của nền kinh tế thị trường nhân văn đó chính là từng bước chúng ta thực hiện lý tưởng nhân văn của nhân loại. Và cũng chính vì vậy, công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hôm nay hoà được vào dòng chảy chung của nhân loại, chúng ta được cả cộng đồng tiến bộ trên thế giới hưởng ứng và ủng hộ. Chúng ta đang đi trên con đường mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn và chúng ta tin rằng Đảng sẽ lái con thuyền Việt Nam cập tới bến bờ vinh quan và hạnh phúc.
18 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- Đặt vấn đề
Việt Nam trong công cuộc đổi mới đã thực sự đem lại nhiều kết quả to lớn, làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Chúng ta có được những thành công rực rỡ ấy là nhờ rất nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan. Song nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới đó là chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, được khởi xướng từ Đại hội Đảng lần thứ VI.
Bên cạnh những thành tựu to lớn ấy, chúng ta còn rất nhiều mặt hạn chế do chính nền kinh tế thị trường (KTTT) đem lại, mặt khác từ một đất nước có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, chúng ta bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để xây dựng thời kỳ quá độ chủ nghĩa, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn, những tàn dư của chế độ tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều. Khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì ngoài những khó khăn về kinh tế, còn tồn tại những mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, kìm hãm sự phát triển. Chính vì thế mà việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế phù hợp với điều kiện, hoản cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu đề tài: "Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay" dưới góc độ triết học trong tổng thể các mối quan hệ, biện chứng, sẽ giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, bản chất hơn những vấn đề xung quanh việc phát triển kinh tế.
Là một sinh viên năm thứ nhất, với kiến thức và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế. Đặc biệt đây là lần đầu tiên em bắt tay làm 1 đề tài nghiên cứu khoa học, nên nội dung bài tiêu luận sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự nhận xét, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo. Đó là yếu tố rất quan trọng góp phần hoàn thiện bài tiểu luận. Điều này sẽ giúp em bổ sung kiến thức, kinh nghiệm, nhằm không ngừng hoàn thiện mình, xứng đáng với sự mong muốn của nhà trường và của công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2003.
Sinh viên
Nguyễn Mai Ngân.
B - Nội dung
I- Tính tất yếu phải xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Đại hội Đảng lần thứ VI có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước chuyển ngoặt đất nước ta sang thời kỳ mới, thay thế nền kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sang nền KTTT định hướng XHCN.
Trước năm 1986, ở Việt Nam cũng như các nước XHCN khác đã có nhận thức không đúng về KTTT và CNXH vì cho rằng chúng đối lập nhau và không thể cùng tồn tại, cùng phát triển được. KTTT là sản phẩm của CNTB, vì vậy CNXH không thể xây dựng trên nền tảng của KTTT mà phải xây dựng trên cơ sở của nền kinh tế phi thị trường. Do những quan niệm trên nên trong một thời kỳ dài, KTTT không thể tồn tại trong ý thức hệ cũng như trong thực tế ở Việt Nam.
Mô hình kinh tế hiện vật chỉ phù hợp trong thời chiến, lúc đó chúng ta cần tập trung toàn bộ sức người, sức của để phục vụ cho tiền tuyến. Nhưng trong thời bình, mô hình đó tỏ ra không phù hợp và thực chất đó là mô hình phi kinh tế. Hơn thế nữa đất nước ta sau chiến tranh rơi vào tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt đất nước bị bao vây kinh tế, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Trong thời kỳ này mọi hoạt động kinh tế không diễn ra trên thị trường, quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị xem nhẹ, các quy luật của KTTT không được nhận thức vận dụng, các đòn bẩy kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, giá cả, thuế... bị xem nhẹ, thay vào đó là quan hệ cấp phát hiện vật, sản xuất theo kế hoạch Nhà nước, các chỉ tiêu kinh tế các quyết định kinh tế được soạn thảo từ Nhà nước, làm cho thị trường bị biến dạng dẫn đến làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Chính thực tiễn đó buộc Việt Nam phải có nhận thức mới về nền kinh tế XHCN. Đó là nền KTTT theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước.
Như đã biết, vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội nô lệ loài người đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trong sản xuất đã bắt đầu có sản phẩm thặng dư, mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫu nhiên, nhưng cùng với chế độ tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm chủ những sản phẩm "dư thừa" đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm mà mình thiếu do kết quả của phân công chuyên môn hoá đưa lại. Thị trường sơ khai xuất hiện từ đó.
Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối xã hội phong kiến đầu xã hội tư bản chủ nghĩa KTTT mới được xác lập hoàn toàn.
KTTT trước hết là kinh tế hàng hoá, với đặc trưng phổ biến của nó là người sản xuất làm ra sản phẩm với mục đích để bán (để trao đổi) chứ không phải để tiêu dùng, hay sản phẩm dư thừa ngẫu nhiên như trước. Ngày nay, khi KTTT hiện đại đã phát triển một cách phổ biến thì đặc trưng cơ bản đó, không những không mất đi mà còn được bổ sung, làm phong phú thêm bởi các hình thức và nhân dân của quan hệ trao đổi và vai trò can thiệp của Nhà nước vào quá trình đó.
Như vậy nên KTTT phát triển từ sơ khai đến hiện đại là một công trình sáng tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi, đó là trình độ văn minh mà nhân loại đã đạt được. Do đó mọi quan niệm cho rằng KTTT là phát minh riêng của CNTB là không có căn cứ, việc đồng nhất KTTT với CNTB để rồi né tránh, hoặc sử dụng nó như một công cụ tạm thời, hoặc coi việc áp dụng cơ chế thị trường có nghĩa là mặc nhiên chấp nhận con đường TBCN... đều có thể dẫn đến những sai lầm đáng tiếc. Ngay trong văn kiện Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định "sản xuất hàng hoá là thành tựu, văn minh của nhân loại chúng ta không chỉ kiên định không bỏ qua kinh tế hàng hoá" như văn kiện Đại hội VI đã nêu, mà còn khẳng định "Kinh tế hàng hoá còn tồn tại khách quan cho đến khi CNXH đựơc xây dựng" và trong dự thảo văn kiện Đại hội IX lại tiếp tục khẳng định "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nói gọn là nền KTTT định hướng XHCN".
Mục đích của nền KTTT định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó chính là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
II- Những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước ta tiến bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, và cho đến nay, sau hơn 15 năm thực hiện đã thực sự đem lại kết quả to lớn trong mọi mặt đời sống xã hội, tổng sản phẩm trong nước tăng gấp ba, từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Từ một nước phải nhập khẩu gạo, hiện nay chúng ta đã vươn lên thành nước xuất khẩu gạo đứng nhất, nhì thế giới. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 38,7% xuống còn 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ tăng từ 38,6% lên 39,1%... Bên cạnh những kết quả mà chúng ta đã đạt được, là những khó khăn trong khi xây dựng nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết phải nói đến điểm xuất phát của ta khi chuyển dịch cơ chế, từ nền kinh tế yếu kém, mang tính tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi phải có sự tích luỹ dồi dào, khoa học, công nghệ phát triển và một nền kinh tế vững mạnh.... tiếp theo đó là cơ chế quản lý của Nhà nước, mặc dù đường lối của Đảng đặt ra là đúng đắn, nhưng việc thực hiện nó không còn đồng bộ. ý thức hệ còn chưa được rõ ràng tác phong cá nhân yếu kém...
Mặt khác, bản thân KTTT có xu hướng tự phát, còn định hướng XHCN là hoạt động có ý thức của con người dựa trên nhận thức các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một trong những mâu thuẫn cơ bản có quan hệ đến nhiều mâu thuẫn khác... Chính những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển KTTT, đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn kìm hãm bước phát triển.
1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn cơ bản trong quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thì vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. Xét tiên phương diện triết học, thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi, và là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất lúc này tỏ ra không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thì cần thay đổi quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời, lạc hậu bằng quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn phù hợp với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. ở Việt Nam , mặc dù Nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất phát triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay vào xây dựng và phát triển nền KTTT thì lực lượng sản xuất luôn tỏ ra mâu thuẫn với quan hệ sản xuất.
Tính cạnh tranh và năng động là một trong những điểm cơ bản của nền KTTT, thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vưỡng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn chậm chạp. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, để hợp tác xã nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở sản xuất phát triển, chưa kịp thời đúc kết kinh nghiệm, giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác với phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kinh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở, kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá quy hoạch xây dựng, quản lý đấtđai còn yếu kém, thủ tục đổi mới hành chính còn chậm. Thương nghiệp Nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây ra tác động xấu với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn bất hợp lý, bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Đó là một số hạn chế của quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và điều đó làm cho quá trình phát triển kinh tế của ta gặp nhiều khó khăn.
Một trong những vấn đề bức xúc đối với chúng ta hiện nay đó là việc làm, tình trạng thất nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mất sự cân đối.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp, nó không những giải phóng được sức sản xuất mà còn tạo tiền đề để thúc đẩy bước phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn này.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước khắc phục những khó khăn kể trên.
Cần đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, đôi bên cùng có lợi, là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình thành tập đoàn kinh tế mạnh.
Tiếp tục đổi mới và phát triển KTNN để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong những sản xuất và dịch vụ quan trọng: xây dựng các tổng Công ty Nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đổi mới cơchế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo cơ chế Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật xoá bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Thực hiện chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp có hiệu quả.
Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với nền KTTT.
Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, tổ chức và vận hành an toàn hiệu quả thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm. Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, thị trường lao động. Tạo điều kiện công ăn việc làm cho người dân từ đó nâng cao đời sống xã hội.
Và việc cuối cùng là việc đổi mới chế độ sở hữu, đó là mấu chốt quan trọng nhất trong việc cân bằng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Hiện nay ở nước ta, một số hình thức sở hữu đã được hình thành một số hình thức khác đang được khôi phục hoặc mới bắt đầu hình thành chế độ nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế là hoàn toàn có cơ sở khách quan. Đó là những thay đổi diễn ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế. Trình độ lực lượng sản xuất và xã hội hoá sản xuất trong các khu vực kinh tế quốc doanh không giống nhau. Có những khoảng cách đáng kể trong phát triển kinh tế ở các xí nghiệp, các ngành, các vùng khác nhau. Chính vì vậy mà cần điều chỉnh lại cơ cấu quan hệ sản xuất.
Trong việc đổi mới các quan hệ sở hữu, xác lập nhiều hình thức sở hữu cần phải xem xét, đánh giá đúng, tăng cường vai trò chủ đạo của các hình thức sở hữu Nhà nước, bằng cách cải tổ khu vực này: những xí nghiệp nào cần được duy trì, những xí nghiệp nào cần được giải thể và việc giải thể sẽ ra sao, là những vấn đề hết sức phức tạp. Chính vì thế trong quá trình phát triển KTTT theo định hướng XHCN càng đòi hỏi phải có sự điều hành hợp lý của Nhà nước.
2. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội.
Trong hoạt động kinh tế, lợi ích là mục tiêu hàng đầu, vì vậy để thực hiện tăng trưởng kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi tích tập thể và lợi ích xã hội. Trong nền KTTT, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chẳng những không bị mất đi mà còn có những diễn biễn phức tạp hơn. Trước hết là phải nói đến ưu điểm của nền KTTT, nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân phát huy năng lực, trí tuệ, thị trường được tạo ra là một thị trường tự do, tự do giao dịch.... KTTT có sự quản lý của Nhà nước, một mặt nó đảm bảo tính ổn định của thị trường, mặt khác nó lại tạo điều kiện tốt cho hoạt động tham nhũng, buôn lậu... của một số người lạm dụng chức trách của mình. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nếu không được giải quyết đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng bất công bằng xã hội. Trong mối quan hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn của sự phát triển xã hội. Còn ngược lại, nếu cá nhân có lợi, nhưng lợi ích xã hội bị vi phạm, thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội.
Ví dụ: Vì lợi ích cá nhân mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta có thể phá hoại môi trường sống, có thể làm những việc phi pháp, phi đạo đức, phi nhân tính, để có lợi cho bản thân, làm thất thoát tài sản của Nhà nước... Trong trường hợp này hậu quả do cá nhân đó tạo ra làm ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội.
Chúng ta cần phân biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỷ cá nhân. Lợi ích chính đáng của cá nhân là động lực phát triển của xã hội, là cái mà xã hội phải tôn trọng và phát huy, còn lợi ích ích kỷ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân, là nguyên nhân đến sự thoái hoá, biến chất, trộm cắp, tham nhũng của một số cá nhân trong bộ máy của Nhà nước. Nếu xã hội không có những biện pháp tích cực và có hiệu quả thì những tệ nạn này chẳng những không giảm đi, mà trái lại càng gia tăng, vì cùng với sự phát triển kinh tế, của cải xã hội, phúc lợi tập thể sẽ tăng lên và những thứ này lại được giao cho cá nhân trực tiếp quản lý.
Thực tế cho thấy rằng ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên là rất nghiêm trọng. Sở dĩ có tình trạng trên là do nguyên nhân chủ quan trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng:
Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho đường lối của Đảng khó đi vào cuộc sống. Công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành còn bất cập, thiếu kiểm tra, đôn đốc và chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Nhiều cán bộ, Đảng viên vi phạm pháp luật và Điều lệ của Đảng còn chưa được xử lý thật kiên quyết.
Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh, trùng lặp chức năng với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không ít trường hợp trên và dưới, trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế xã hội và là giảm động lực phát triển. Một số người và cơquan do lợi ích cá nhân, cục bộ không muốn đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tổ chức bộ máy Nhà nước....
Trên đây là những tiêu cực của một số cá nhân có chức quyền và lạm dụng nó để tiến hành mưu lợi riêng cho mình, gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế quốc dân. Còn đối với các chủ thể sản xuất kinh doanh bất chấp pháp luật để chạy theo lợi nhuận. Hiện tượng làm hành giả, hàng lậu vẫn tiếp tục phát triển làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Như vậy, chính mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường, càng cho thấy rõ được tầm quan trọng trong vai trò quản lý của Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tiêu cực trong xã hội đó là sự quản lý yếu kém, không đồng bộ của Nhà nước. Chính vì vậy mà trong Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ IX, chủ trương chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Cần nhận thức rằng: "Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới".
3. Mâu thuẫn giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng "muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ là quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phung phí về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Chúng ta phải bắt đầu từ con người làm điểm xuất phát.
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Cơ chế thị trường đã tác động mạnh mẽ tới đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực.
KTTT là môi trường kinh tế thuận lợi cho việc xác lập, địa vị chủ thể của cá nhân, phát huy năng lực cá nhân, hình thành tính tích cực tự giác của cá nhân người lao động, giải phỏng cá nhân hoạt động kinh tế khôi phục thuộc vào kế hoạch độc đoán, lôi cuốn họ vào thị trường trao đổi và trở thành chủ thể của sự vận hành kinh tế. KTTT đòi hỏi mọi người phải quan tâm đến giá trị của sản phẩm lao động tức là phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế trong nhận thức và hoạt động của con người. Nếu như trước đây chúng ta quá nhấn mạnh đến giá trị tinh thần mà xem nhẹ lợi ích vật chất, không quan tâm đến lợi ích cá nhân, thì giờ đây cơ chế thị trường đòi hỏi phải nhìn nhận đúng mức lợi ích vật chất và lợi ích cá nhân là động lực của sản xuất. KTTT làm biến đổi những chuẩn mực đánh giá năng lực và phẩm chất con người, cũng như những định hướng giá trị xã hội.
Bản chất của KTTT là cạnh tranh, năng động và sáng tạo không ngừng. Nó đòi hỏi mỗi người phải nỗ lực, độc lập và sáng tạo trong hoạt động của mình để có thể vượt lên thực tại, đứng vững và khẳng định mình trong thử thách. KTTT là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Trong KTTT, các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng. KTTT phản ánh đầy đủ trình độ văn mình và phát triển xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, KTTT cũng có những khuyết tật như: sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ...
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng con người nếu thiếu yếu tố KTTT. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế kém phát triển, mô hình kinh tế không còn phù hợp, nước ta đã bị tụt hậu nghiêm trọng so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh đó, KTTT là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và đi vào phục hồi, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại.
Trong những năm qua, KTTT ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi, và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, làm cho nền kinh tế sôi động hơn. Đây là kết quả đáng mừng và cần được phát huy, nó thể hiện sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội.
Tuy nhiên, cần phải thấy rõ rằng, không phải cứ xây dựng được KTTT là nhữgn phẩm chất tốt đẹp của con người được hình thành. KTTT luôn luôn tác động hai mặt. Bên cạnh nhiều yếu tố tích cực, KTTT đang làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Việc tuyệt đối hoá lợi ích cá nhân, chỉ chú trọng đến lợi ích vật chất mà chà đạp lên những giá trị tinh thần truyền thống đang làm tha hoá và biến chất một lớp người trong xã hội. KTTT làm cho con người phụ thuộc vào vật (hàng hoá), tiền tệ, giá trị trao đổi và quan hệ trảo đổi hàng hoá. Trong quan niệm của họ "tiền là điều kiện cao nhất" tâm lý sùng bái đồng tiền lan tràn trở thành thứ "bái vật giáo tiền tệ". Tiền tệ là giá trị trao đổi. ai có tiền là có quyền lực xã hội và dựa vào quyền lực này mà chiếm đoạt tất cả những thứ mà người đó cần. Họ quyết tâm làm giàu bằng bất cứ giá nào, bằng mọi cách và bằng mọi con đường với đủ phương kế. Đó là một nguyên nhân sinh ra các tệ nạn xã hội như tham nhũng, buôn lậu, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước và của công dân...
Tác động tự phát của cơ chế thị trường biểu hiện đa dạn, nhiều hình, nhiều vẻ, song nó tập trung ở lối sống thực dụng không tình người. Đồng tiền làm băng hoại đạo đức và chi phối ngay cả những quan hệ vốn là thiêng liêng như quan hệ giữa cha mẹ với con cái, quan hệ vợ chồng, quan hệ thầy trò, thậm chí ngay cả trong tình yêu...
Những phân tích trên đây cho thấy, KTTT và mục tiêu con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây thực chất là 2 mặt đối lập của mâu thuẫn xã hội. Giữa KTTT và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. KTTT vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng và phát huy con người, vừa tạo ra những độc tố để huỷ hoại hoặc con người.
Việc giải quyết mâu thuẫn này là một việc không hề đơn giản. Đối với nước ta, mâu thuẫn giữa KTTT và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN Đảng ta xác định "sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng XHCN và cả khi CNXH được xây dựng". Như vậy, Đảng vạch rõ sự thống nhất giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người CNXH. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ phát huy được những tác động tích cực to lớn, cũng như ngăn ngừa hạn chế khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của nền KTTT. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá, giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ cácdi sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động góp phần giải quyết những mâu thuẫn nêu trên.
4. Mâu thuẫn giữa KTTT với việc thực hiện công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những vấn đề gay cấn trong nền KTTT, đặc biệt là thị trường tự do. Quan niệm và giải quyết mối quan hệ này ở từng nước có khác nhau, tuỳ theo mô hình phát triển kinh tế, chế độ chính trị - xã hội, truyền thống văn hoá của nước đó.
Nhìn chung, trong các nền KTTT ở các nước phương Tây các nhà lý luận chỉ đề cao các nhân tố kinh tế và kỹ thuật của sự tăng trưởng mà không chú ý thoả đáng đến các nhân tố xã hội, nhân tố con người. Họ ra sức chứng minh: tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là 2 mục tiêu mâu thuẫn không thể dung hoà. Nếu muốn tăng trưởng nhanh thì phải hy sinh công bằng xã hội. Còn nếu để cao công bằng xã hội thì không tăng trưởng được theo họ, bất bình đẳng xã hội không chỉ là kết quả của tăng trưởng kinh tế mà còn là nguyên nhân của sự tăng trưởng ấy.
Đất nước ta đã trải qua hơn 15 năm đổi mới. Việc phát triển nền KTTT đã có nhiều tác dụng tích cực đến mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Song cơ chế thị trường cũng tạo ra nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội, trong đó, công bằng xã hội là một trong những vấn đề gay cấn nhất. Với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung nền kinh tế và quan liêu bao cấp đối với mọi hoạt động xã hội trước đây đã làm cho chúng ta tự bằng lòng với mình rằng chúng ta đã có CNXH, và đã lầm tưởng "chủ nghĩa bình quân" là công bằng xã hội, mà thực chất, đó chỉ là sự cao bằng trong phân phối các sản phẩm xã hội. Chúng ta đã nêu ra và thực hiện nguyên tắc phân phối trong CNXH đó là nguyên tắc phân phối theo lao động và đó được coi là nguyên tắc duy nhất để thực hiện công bằng xã hội. Như vậy, trước đây chúng ta mới chỉ giải quyết được một phần quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ. Sự cống hiến ở dây cũng được hiểu một cách phiến diện - cống hiến về mặt lao động và cũng chủ yếu ở trình độ cơ bắp.
Bước vào nền KTTT, cách hiểu và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động một cách đơn giản như vậy sẽ không còn phù hợp. Vì khi điều kiện xã hội thay đổi thì những tiêu chí hay nội dung cơ bản của công bằng xã hội cũng phải thay đổi theo. ở nước ta, vấn đề kết hợp tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội đã được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm. Xuất phát từ quan niệm mới về CNXH, về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế được coi là phương tiện cơ bản nhất để phát triển, bản thân nó là một tiêu chí của sự tiến bộ xã hội. Trong khi đó, công bằng xã hội là lý tưởng thúc giục chúng ta vươn tới. Nếu đi chệch hướng XHCN thì tăng trưởng kinh tế khó có thể song hành với công bằng xã hội. Đảng ta nhấn mạnh: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình".
Tuy nhiên, ở đây có vấn đề cần phải phân định rõ: phương thức tạo ra sự công bằng xã hội trong từng bước tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam như thế nào? Chúng ta đang là một nước nghèo, đời sống nhân dân còn thấp, hậu quả chiến tranh lại rất nặng nề, số người thuộc diện "chính sách", nhóm yếu thế khá lớn, đòi hỏi phải có các hình thức trợ cấp xã hội phù hợp, trong khi phải giải quyết hợp lý chính sách tiền lương, nếu không thì hạn chế động lực của những người lao động. Thêm vào đó, chúng ta còn phải tính đến những yếu kém của kết cấu hạ tầng xã hội, tâm lý ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước trong nhân dân, vấn đề việc làm khó khăn.
Thực tế những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội là chủ trương đúng. Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở, điều kiện thuận lợi cho phát triển xã hội, ngược lại, phát triển xã hội tạo ra động lực phát triển đất nước, trong đó trước hết là chủ yếu là phát triển kinh tế.
Như vậy, công bằng xã hội là vấn đề rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Trong thời gian đó, ở nước ta, để tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, vai trò của Nhà nước phải được tăng cường trên các mặt.
Thứ nhất: Nhà nước phải tạo ra môi trường, điều kiện cho phát triển sản xuất thu hút lao động, giải quyết việc làm.
Thứ hai: Nhà nước cần tưng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo, dạy nghề, nhất là ở các vùng nông thôn, miền núi.
Thứ ba: Nhà nước cần có chính sách bảo trợ xã hội đối với những người tàn tật, cô đơn, mất sức lao động. Một xã hội công bằng, văn minh là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, được tự do, ấm no, hạnh phúc, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, đồng thời, mọi người có sự quan tâm đến nhau. Con người không chỉ là chủ thể của xã hội, của sự phát triển, mà còn là chủ thể của tương lai vì sự phát triển nhanh, bền vững, vì sự tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường nhân tính và văn hoá.
III- Những biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Nước ta đã và đang đặt nền kinh tế vào quỹ đạo của nền KTTT và dang ở giai đoạn vận hành cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN sao cho trôi chảy thuận lợi để đưa sự nghiệp CNH - HĐH đi tới thành công.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: "Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN" Việt Nam sau những năm đổi mới đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiếp tục có những biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa cơ chế kinh tế ở nước ta hiện nay.
1. Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá trên cơ sở tôn trọng và sử dụng các quy luật kinh tế của thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh) sự đổi mới cần được tiến hành trên nhiều bình diện: chức năng kế hoạch hoá, công nghệ kế hoạch hoá, phương pháp quản lý, con người xây dựng kế hoạch v.v...
2. Tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường theo định hướng XHCN:
- Hình thành thị trường lao động theo định hướng XHCN để chuyển đổi từ phương thức phân bổ nguồn lực theo kế hoạch tập trung - pháp lệnh sang phương thức phân bổ thông qua thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một sự cải cách lớn trong thể chế kinh tế thị trường XHCN.
- Hình thành thị trường bất động sản theo định hướng XHCN là một hình thức để thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai, về mặt kinh tế tức quan hệ chuyển nhượng có bồi thường chứ không có sự chuyển dịch quyền sở hữu.
- Hình thành thị trường chứng khoán
3. Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính - tiền tệ theo hướng tăng cường sử dụng các quan hệ gián tiếp, giảm sự can thiệp, và điều hành theo mệnh lệnh hành chính, điều hành, lãi suất, tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị trường vốn.
4. Tiếp ttục xây dựng một cơ cấu thị trường có nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh hàng hoá tham gia thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Thực hiện một chính sách thương mại trung tính tạo ra một sân chơi bằng phẳng cho mọi doanh nghiệp, cải cách các quy chế thương mại phù hợp với một nền kinh tế mở, hướng về xuất khẩu.
5. Con người là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Khẩn trương xây dựng một đội ngũ nhân lực có đủ năng lực để vận hành cơ chế thị trường có hiệu quả đi đôi với việc nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế.
C- Kết luận
Qua nội dung của bài tiểu luận, chúng ta đã sáng tỏ được phần nào thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay.
Mặc dù chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong công cuộc đổi mới và đã đạt được rất nhiều thành tưụ to lớn. Song đứng trước xu thế phát triển không ngừng của thế giới, chúng ta vẫn phải luôn phấn đấu về mọi mặt: kinh tế cũng như đời sống xã hội.
Kinh tế thị trường - với mặt trái của nó là điều hoàn toàn không thể tránh khỏi. Đảng và Nhà nước ta đã khéo léo vận dụng những ưu điểm của kinh tế thị trường để phát triển nền kinh tế nước nhà, đó là sự vận dụng có sự phù hợp với điều kiện khách quan cũng như chủ quan. Để giảm bớt những tiêu cực, những mâu thuẫn xung quanh vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường thì sự quản lý của Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng.
Một xã hội phát triển hài hoà các mặt kinh tế, đạo đức, văn hoá thực chất đó là một xã hội đậm đà tính người.
Vì vậy có thể nói, khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta xây dựng đồng nghĩa với khái niệm kinh tế thị trường nhân văn. Phấn đấu từng bước đạt tới những mục tiêu của nền kinh tế thị trường nhân văn đó chính là từng bước chúng ta thực hiện lý tưởng nhân văn của nhân loại. Và cũng chính vì vậy, công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hôm nay hoà được vào dòng chảy chung của nhân loại, chúng ta được cả cộng đồng tiến bộ trên thế giới hưởng ứng và ủng hộ. Chúng ta đang đi trên con đường mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn và chúng ta tin rằng Đảng sẽ lái con thuyền Việt Nam cập tới bến bờ vinh quan và hạnh phúc.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. TS. Đào Duy Huân "Mối quan hệ giữa KTTT và định hướng XHCN ở Việt Nam" Báo PTKT số 105 năm 1999.
2. Nguyễn Chí Mỹ "Sự biến đổi thang giá trị đạo đức trong nền KTTT với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay" CTQG, 1999.
3. Mai Ngọc Cường "KTTT định hướng XHCH ở Việt Nam" CTQG, 2001.
4. GS. TS. Phan Tất Dong "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội - một nội dung của KTTT định hướng XHCN" Báo QPTD số 7/2000.
5. Nguyễn Sinh Cúc "KTTT định hướng XHCN" NXB Thống kê
6. Nguyễn Văn Nhớn - Dương Xuân Ngọc "Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội" - Tạp chí Triết học 7 (134)/2002.
7. TS. Phạm Văn Sinh "Về đặc trưng quan hệ sản xuất của mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam" - Báo PTKT 115/2000.
8. Lê Hồng Khánh "Vấn đề thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay" Triết học số 2 (120), tháng 4/2001.
9. Đặng Hữu Toàn "Xác định, đánh giá các giá trị đạo đức trong KTTT ở nước ta hiện nay" - Báo Nghiên cứu - Trao đổi số 6(3/2000).
10. Nguyễn Văn Huyên "Xây dựng nền KTTT vì một xã hội nhân văn" Báo Triết học, số 7/2002.
Đề cương chi tiết
A- Đặt vấn đề
B - Nội dung
I- Tính tất yếu phải xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
II- Những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn cơ bản của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội
3. Mâu thuẫn giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
4. Mâu thuẫn giữa KTTT với việc thực hiện công bằng xã hội
III- Những biện hpáp khắc phục hoàn thiện cơ chế KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
C- Kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35381.doc