PHẦN MỞ ĐẦU
Trong các thể loại báo chí, phóng sự là một trong những thể loại đặc biệt thích hợp với việc mô tả sự phát triển năng động của hiện thực, có khả năng gây được những ấn tượng rất sâu sắc với công chúng. Với sức mạnh của một thế loại mang tính chiến đấu, từ khi hình thành cho đến nay, phóng sự vẫn phát triển không ngừng và trở thành thế mạnh của mọi loại hình báo chí. Phóng sự có khả năng thông tin thời sự, đảm bảo tính xác thực, định hướng thông qua việc trình bày, diễn tả về những vấn đề, sự kiện, con người, tình huống điển hình trong một quá trình phát triển. Nhắc đến phóng sự không thể không kể đến vai trò của cái tôi trần thuật có mặt trực tiếp trong tác phẩm khắc hoạ nên bức tranh toàn cảnh về cuộc sống với những chi tiết cụ thể, sinh động, đầy chất nhân văn.
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2307 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phóng sự phát thanh - Cái tôi trần thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo tính xác thực, định hướng thông qua việc trình bày, diễn tả về những vấn đề, sự kiện, con người, tình huống điển hình trong một quá trình phát triển. Nhắc đến phóng sự không thể không kể đến vai trò của cái tôi trần thuật có mặt trực tiếp trong tác phẩm khắc hoạ nên bức tranh toàn cảnh về cuộc sống với những chi tiết cụ thể, sinh động, đầy chất nhân văn.
Sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Việt Nam với các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử… đã tạo mảnh đất màu mỡ cho phóng sự phát triển ngày càng đa dạng và mạnh mẽ, phản ánh một cách nhanh chóng những cái mới, kịp thời mang đến cho công chúng những thông tin sinh động về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, bối cảnh của báo chí hiện đại cũng đòi hỏi phóng sự luôn có sự đổi mới, thích ứng với những biến đổi về mặt khoa học kĩ thuật trong công nghệ truyền thông hiện đại.
Trong tiểu luận này, tác giả muốn đi sâu tìm hiểu về thể loại phóng sự - đặc biệt là vai trò của cái tôi trần thuật trong phóng sự, một thể loại báo chí xung kích với năng lực phản ánh sự thật sống động và có chiều sâu.
PHẦN 1. VÀI NÉT VỀ THỂ LOẠI PHÓNG SỰ
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÓNG SỰ:
Thuật ngữ “ Phóng sự” theo tiếng La tinh là Reportage có nghĩa là truyền đạt, báo tin, thông báo. Ban đầu phóng sự được người Anh sử dụng với nghĩa mô tả những đám cháy, những trận lụt, những kì họp Quốc hội, chiến tranh… Sau đó ít lâu, trên báo chí Pháp, phóng sự cũng xuất hiên với tư cách bài viết về quá trình điều tra của phóng viên đối với những con người sự việc chứa nhiều bí ẩn với người đọc.
Ban đầu, thể loại phóng sự được khai thác từ nhiều góc độ theo những quan niệm khác nhau. Người Đức coi phóng sự chỉ là sự đưa tin, không khác lám so với tin tức. Người Mỹ lại chú ý đến khả năng diễn tả những cuộc cãi vã trong các kì họp quốc hội của phóng sự, trong khi người Pháp lại quan tâm nhiều hơn đến khả năng trình bày các kết quả điều tra sự việc…Dần dần phóng sự ngày càng hoàn thiện hơn, không chỉ đề cập đến những sự việc nhỏ mà đã đề cập đến những sự kiện, những biến cố gây chấn động toàn cầu như thiên phóng sự “Mười ngày rung chuyển thế giới” của nhà báo Mỹ John Reed về Cách mạng tháng Mười Nga, hay “Viết dưới giá treo cổ” của Nhà báo tiệp Khắc Julius Fucik…Phóng sự không chỉ dùng lại ở việc đưa tin mà đã đã kết hợp giữa thông tin sự kiện với thông tin lý lẽ với bút pháp đầy tính nghệ thuật.
Ở nước ta, các hình thức thông tin về người thật việc thật đã có nguồn gốc từ xa xưa. Một số tác phẩm như “ Việt điện u linh” (Lí Tế Xuyên), “Lĩnh Nam chích quái” (Vũ Quỳnh –Kiều Phú), đằng sau những huyền thoại, những truyền thuyết hoang đường là những thông tin chân thật về cuộc sống. Thông tin đó dần hiện ra rõ nét hơn trong các tác phẩm ký như: Thượng kinh kí sự, Hoàng Lê nhất thống chí…Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỉ 19, khi có báo in ở Việt Nam, thì phóng sự mới xuất hiện và dần ổn định với tư cách là một thể độc lập với các thể loại báo chí khác. Bước sang thế kỉ 20, phóng sự phát triển mạnh với rất nhiều những tên tuổi nổi tiếng như: Vũ Trọng Phụng với Cơm thầy, cơm cô, Làm đĩ, Kĩ nghệ lấy Tây…Ngô Tất Tố với Việc làng…Bên cạnh đó là những tác phảm của dòng báo chí cách mạng tiêu biểu là: Bản án chế độ thực dân Pháp (Nguyễn ái Quốc), Vấn đề dân cày (Quan Ninh- Vân Đình)…Cùng với cuộc chiến đấu vì độc lập tự do dân tộc, thể loại phóng sự trên báo chí đã thực sự bám sát cuộc sống chiến đấu của nhân dân ta.
Những năm cuối thập kỉ 80 được xem như thời kì bùng nổ của thể loại phóng sự với những cây bút nổi tiếng như: Huỳnh Dũng Nhân, Xuân Ba, Mạnh Việt, Đào Quang Thép…góp phần thay đổi diện mạo của thể loại phóng sự, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng lớn của công chúng.
Trong bối cảnh hiện nay, phóng sự không chỉ dừng lại ở việc mô tả mà đã tiếp cận thực tế một cách chân thực và đa dạng, hiện thực được phản ánh trong phóng sự là hiện thực phức tạp, luôn phát triển và biến động không ngừng với tính khái quát cao. Với bút pháp giàu chất văn học và cái tôi trần thuật vừa cảm xúc, vừa trí tuệ, phóng sự không chỉ trình bày hiện thực mà còn cố gắng phát triển những vấn đề liên quan đến hiện thực đó. Với những ưu điểm này, phóng sự đã đạt tới sự chân thực, đa dạng khi phản ánh hiện thực.
KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA PHÓNG SỰ:
II.1. Khái niệm phóng sự:
Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về phóng sự. Trước đây, Stanny Johnson và Jolian Narit - hai giáo sư bộ môn báo chí trường ĐH Tennesse trong cuốn sách Người phóng viên toàn năng cho rằng: “ phóng sự là một bài tường thuật hoặc một bài báo được phát triển và xử lý một cách có văn học”. Quan điểm này thừa nhận trong phóng sự có thể sử dụng những yếu tố văn học mà chất lượng tuỳ thuộc vào cá tính và khả năng của mỗi tác giả. Nhà văn, nhà báo Mỹ Mark Twain thì coi : “Phóng sự chỉ là một sự ghi chép máy móc đơn thuần các sự việc chứ không phải là một công việc sáng tạo”. Trái lại, giáo sư Pơ-rô-min, khoa báo chí trường DDH Lô-mô-nô-xốp cho rằng: “ Phóng sự là một cách đặc biệt để thông tin về một sự viẹc như sự việc đó đã diễn ra trước mặt người viết. Thực chất phóng sự là đưa tin về hoạt động của côn người nghĩa là trước hết phải nêu được những hoạt động của con người.” Quan niệm này thừa nhận tính sinh động, hấp dẫn trong những thông tin được đưa ra trong phóng sự khiến cho người đọc cảm giác như được chứng kiến sự kiện.
Giáo trình nghiệp cụ báo chí (khoa Báo chí - trường tuyên huấn trung ương trước đây) đưa ra quan niệm: “Phóng sự là một trong những thể tài thông tin quan trọng của báo, có ít nhiều đặc trưng văn học, phản ánh sự kiện xảy ra có thể kết hợp với nghị luận, nhằm nêu lên phẩm chất tinh thần của con người và toàn bộ xã hội theo một hệ thống quan điểm và đương lối chính trị nhất định”. Tác giả Đức Dũng trong Các thể kí báo chí đưa ra quan niệm: “ Phóng sự là một thể loại đứng giữa văn học và báo chí có khả năng trình bày, diễn tả những sự kiện, con người, tình huống điển hình trong một quá trình phát sinh, phát triển dưới dạng một bức tranh toàn cảnh vừa khái quát, vừa chi tiết sống động với vai trò quan trọng cảu nhân vật trần thuật và bút pháp linh hoạt, ngôn ngữ giàu chất văn học”
Từ những quan niệm trên có thể thấy hai điểm chung: thứ nhất, phóng sự có mục đích tối thượng là thông tin thời sự về người thật, việc thật trong quá trình phát sinh, phát triển; thứ hai, phóng sự sử dụng bút pháp linh hoạt, sinh động gần với văn học.
Từ đó có thể đưa ra định nghĩa về phóng sự: Phóng sự là một thể loại báo chí, phản ánh những sự kiện, sự việc, vấn đề đàn diễn ra trông hiện thực khách quan có liên quan đến những hoạt động và số phận của một hoặc nhiều người bằng phương pháp miêu tả hay tự thuật, kết hợp với nghị luận ở mức độ nhất định. Trong phóng sự, vai trò cái tôi trần thuật, nhân chứng khách quan rất quan trọng.
II.2. Đặc trưng của phóng sự:
II.2.1. Phóng sự phản ánh sự thật:
Đối với tất cả các thể loại báo chí, phản ánh sự thật luôn là mục tiêu được đặt lên hàng đầu. Với phóng sự, việc cung cấp cho công chúng những tri thức phong phú, đầy đủ, chính xác, để họ có những nhận thức, đánh giá đúng người và đúng việc luôn là mục đích quan trọng nhất. Ngoài việc thông tin thời sự về người thật, việc thật trong một quá trình phát sinh, phát triển, phóng sự còn cố gắng thẩm định hiện thực và trả lời những câu hỏi mà hiện thực đặt ra.
Tính xác thực trong thông tin đòi hỏi người viết phóng sự phải thật sự hiểu biết về vấn đề định viết. Tác giả phải là người tận mắt chứng kiến sự việc hoặc tự mình đi tìm hiểu vấn đề thông qua những nhân chứng tin cậy. Trong phóng sự “Tôi đi bán tôi”, nhà báo Huỳnh Dũng Nhân đã phải mượn một “chiếc áo “quân khu” rộng thùng thình, chân xỏ đôi dép lê loẹt quẹt, đầu đội chiếc mũ cối bất hủ”, rồi “ thả bộ ra chợ người”. Anh cũng tham dự vào đội quân bán sức lao động, để được tận mắt chứng kiến cảnh tranh giành công việc, mặc cả giá, nỗi thất vọng của những người không được thuê mướn… Tam Lang khi viết “ Tôi kéo xe” cũng đã chụp lên đầu chiếc nón và mặc bộ quần áo phu xe để hiểu đến tận cùng nỗi vất vả, nhọc nhằn của những “ngựa người” từ đó kêu gọi xoá bỏ công việc đầy bất công ấy.
Phóng sự không chỉ dừng lại ở việc phản ánh một sự kiện, hiên tượng đơn lẻ mà còn trình bày một chuỗi các sự kiện, dặt trong tiến trình lịch sử, quá trình phát sinh, để người đọc dễ dàng nắm bắt vấn đề. Người viết trình bày một cách khách quan diễn biến của sự việc, đồng thời cũng nhằm chứng minh cho kết luận của mình, tù đó gợi mở những vấn đề có ý nghĩa chính trị xã hội nhất định.
II.2.2. Phóng sự sử dụng bút pháp miêu tả tường thuật kết hợp với nghị luận:
Từ những ngày đầu của phóng sự Việt Nam, bút pháp miêu tả, tường thuật đã được các nhà báo khai thác triệt để. Trong “Tôi kéo xe”, Tam Lang viết: “ Trước mặt tôi, một bát canh sáo bò bốc khói lên ngùn ngụt. Nóng sốt như thế mà tôi đoán chừng nó chẳng ngon lành gì cho lắm vì trong bát canh đục ngầu như nước cống, mấy khoanh lòng bò lều bều nổi như những xác chết đuối giữa những đám hàm răng”.
Sự miêu tả dẫn dắt người đọc tới gần sự kiện hơn. Cách thức tường thuật của tác giả giúp cho người đọc có cảm giác như đang được từng bước khám phá diễn biến của sự kiện. Chính vì vậy mà phóng sự có ưu thế cung cấp thông tin cho người đọc một cách chi tiết và đầy đủ.
Cũng như các thể loại báo chí khác, sự vật, nhân vật trong phóng sự phải đảm bảo tính trung thực của nó. Yếu tố miêu tả trong phóng sự sẽ làm tăng thêm tính trung thực của thông tin cũng như tạo sự uyển chuyển, mềm mại của thông tin khi đến với độc giả.
Nhà báo phải là nhà quan sát tinh tế và nhạy cảm, biết chọn lọc những chi tiết tiêu biểu của sự kiện. Cây phóng sự Xuân Ba được xem là một trong những người có con mắt tinh đời, luôn khám phá ra những chi tiết tưởng như vặt vãnh nhưng lại rất có giá trị trong tác phẩm. Trong phóng sự Đông Âu trên từng cây số có đoạn: “ Ở bến xe này hững dãy người xếp hàng chờ mua vé đi các tuyến, cũng những dãy ghế gỗ sứt sẹo bẩn thủi áp lưng vào nhau, cũng cái mùi uế tạp rất đặc thù bốc lên từ thùng rác ở góc nhà, từ những bộ quần áo lâu ngày không giặt, từ những đôi chân lồng trong các loại giầy to sụ kia, hệt như ở các bến xe tứ sứ mình vậy…Cách đó không xa thay vì những cái nón mê rách, rổ rá của đám ăn mày bên ta là những chiếc đấu gỗ con con bẩn thỉu vì lâu ngày không được cọ rửa của tốp khất thực cứ huơ huơ dưới đầu gối của khách bộ hành”.
Để có những phóng sự sắc sảo, người viết phải biết kết hợp tính nghị luận ở mức độ nhất định, để phóng sự không chỉ là bài ghi chép thuần tuý mà đưa ra những đánh giá, nhận định đúng đắn, định hướng cho người đọc.
II.2.3. Phóng sự sử dụng bút pháp sinh động, linh hoạt, giàu hình ảnh, gần với văn học.
Phẩm chất văn học trong phóng sự không phải là cách tác giả thêm thắt vào trong tác phẩm đó mà phẩm chất đó tồn tại ngay trong hiện thực. Đặc biệt là trong giai đoạn có biết bao nhiêu sự kiện, cuộc đời đầy kịch tính, đầy sống động. Bởi vì theo như Bô-rit Pô-lê-vôi thì: “ Cuộc sống của chúng ta muôn hình muôn vẻ như thế, biết bao sự việc đã xảy ra thực ra cũng không cần thiết phải hư cấu, thêm thắt tô vẽ gì thêm nữa”.
Trong tác phẩm phóng sự, đối tượng càng điển hình bao nhiêu tác phẩm càng có khả năng tiếp cận tới những phẩm chất văn học bấy nhiêu. Tất nhiên, đối với những người làm báo không phải ai cũng có cơ hội được chứng kiến những sự kiện trọng đại nhưng điển hình có nhiều cấp độ và cấp độ đó không hề làm giảm bớt những phẩm chất văn học trong phóng sự.
Nói đến những đặc trưng của phóng sự không thể không kể đến vai trò của cái tôi trần thuật bởi chỉ trong phóng sự, cái tôi trần thuật mới hiện lên có bề dày, có bản sắc và luôn luôn đóng vai trò là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm, là nhân chứng đáng tin cậy nhất trước toàn bộ những điều mà tác phẩm đề cập tới. Vai trò của cái tôi trần thuật sẽ được đề cập trong phần sau của tiểu luận.
KẾT CẤU TÁC PHẨM PHÓNG SỰ:
Tác phẩm phóng sự thường có ba phần cơ bản:
Nêu vấn đề:
Thông qua một sự kiện, tình huống hay một con người cụ thể, tác giả nêu vấn đề mà bài phóng sự sẽ đề cập tới. Ngoài ra, tác giả phóng sự cũng có thể đặt vấn đề xuất phát từ chính kiến thức, kinh nghiệm của mình. Dù dưới hình thức nào thì mục đích chủ yếu của phần này cũng nhằm nêu lên vấn đề mà tác phẩm sẽ tập trung làm rõ.
Diễn giải, chứng minh sự tồn tại của vấn đề đã nêu:
Trong phần này, tác giả trình bày những chi tiết, sự việc, con người, số liệu… thật điển hình và chân thật mà tác giả thu thập được. Những dữ kiện ấy được sắp xếp một cách có chủ định nhằm minh hoạ một cách rõ ràng nhất cho những vấn đề đã nêu lên. Cái tôi trần thuật - tác giả - nhân chứng khách quan làm nhiệm vụ khâu nối các dữ kiện xuyên suốt toàn bộ nội dung tác phẩm.
Một phóng sự hay nhất thiết phải có được những chi tiết có khả năng gây ấn tương với công chúng. Đó là những con số, những sự kiện, tình huống… làm nên luận cứ của tác phẩm, từ đó những luận chứng càng được khắc hoạ và hiệu quả thông tin càng cao. Trong một phóng sự, do sự phong phú của nội dung thông tin, nên ngoài tít chính, tác giả thường đặt thêm nhưng tít phụ. Tít phụ là những phần nhỏ của nội dung mang tính độc lập tương đối. Mỗi phần nội dung ấy có chủ đề riêng của nó, và chủ đề của những phần nhỏ đó làm nên nội dung của tác phẩm.
Phần kết luận:
Đây được xem là phần quan trọng nhất, vì nó là mục đích chủ yếu mà tác phẩm hướng tới. Sự thật được trình bày càng nổi bật, điển hình bao nhiêu thì những vấn đề rút ra càng nổi bật, quan trọng bấy nhiêu. Trong phần này tác giả cũng phần nào trả lời những câu hỏi mà hiện thực trong tác phẩm đặt ra. Trong trường hợp tác giả đề xuất vấn đề trên cơ sở huy động những dữ kiện xa nhau hoặc chỉ liên quan với nhau về mặt ý nghĩa, tác giả sử dụng một vấn đề làm trung tâm, khi không tìm được vấn đề như vậy thì vai trò trung tâm ấy chính là cái tôi trần thuật.
Dạng kết cấu với ba phần này là mô hình cơ bản nhất của thể loại phóng sự. Trên cơ sở kết cấu như vậy, mỗi tác giả lại có sự sáng tạo trong từng tác phẩm cụ thể. Trong thực tế, mỗi tác phẩm phóng sự đều mang đậm dấu ấn cá nhân. Điều đó với văn học không có gì lạ nhưng với báo chí, đây lại là điểm nổi bật, không thể không nhắc tới.
PHẦN 2. VAI TRÒ CỦA CÁI TÔI TRẦN THUẬT TRONG PHÓNG SỰ
CÁI TÔI TRẦN THUẬT TRONG PHÓNG SỰ:
Cái tôi trần thuật được coi là đặc điểm nổi bật của thể kí báo chí, và chỉ trong phóng sự cái tôi trần thuật mới được thể hiện một cách có bề dày và có bản sắc nhất. Nếu như trong truyền ngắn hay kí, cái tôi chỉ được xem như một thủ pháp nghệ thuật thì trong phóng sự, cái tôi bao giờ cũng là tác giả. Với tư cách alà người trực tiếp chứng kiến và trình bày sự thật, cái tôi trần thuật - tác giả - nhân chứng khách quan khiến cho công chúng luôn tin tưởng rằng họ đang được tiếp xúc với sự thật.
Nhà báo, nhà văn Cô-lôm-bi-a Gab-rien Gac-xi-a Mác-két nói: “Trong nghề phóng sự, người ta có thể nói điều người ta muốn nói với hai điều kiện: một là phóng sự được làm với hình thức có thể tin được và hai là người làm phóng sự từ trong ý thức của mình phải hiểu rằng điêu mình viết là sự thật”.
Phóng sự là một trong những thể loại đặc biệt thích hợp với việc mô tả sự phát triển năng động của hiện thực. Khác với tin, là thể loại hầu như không có tính chất cá nhân, cái tôi trần thuật trong phóng sự là một nhân vật m định khách quan, khách quan không chỉ với công chúng tiếp nhận mà ngay cả với đối tượng mà tác phẩm đề cập tới.
Trong phóng sự, cái tôI - tác giả là người dẫn chuyện, người trình bày, lí giải những dữ kiện mà tác phẩm đề cập tới. Công chúng tiệp nhận luôn có cảm giác tác giả có mặt trong từng chi tiết của tác phẩm. Chính điều này khiến cho Phóng sự khác với các thể loại khác. Trong kí chân dung, tác giả xuật hiện chỉ đóng vai trò gợi mở, nhường chỗ cho vai trò nhân vật của mình. Trong Nhật kí phóng viên, sự thẩm định của cái tôi lại mang tính cá nhân nhiều hơn, còn với kí chính luận, cái tôi lại nghiêng về phía lĩ lẽ nhiều hơn, nó thiếu đi sự uyển chuyển, mềm mại của cảm xúc như trong phóng sự. Tuy nhiên trong khi trình bày và thẩm định hiện thực, cái tôi - tác giả phải khách quan nhưng đồng thời cũng phải tạo được sự đồng cảm với cái ta - công chúng tiếp nhận. Một phóng sự mà ở đó tác giả không đủ khả năng thẩm định hoặc thẩm định méo mó hiện thực đem đen cho công chúng thì không những không tạo ra được sự hưởng ứng mà còn khiến công chúng nghi ngờ tài năng và sự trung thực của chính tác giả.
Cái tôi trần thuật cũng góp phần tạo nên giọng điệu của tác phẩm. Xuất phát từ đối tượng mô tả và nhằm thẩm định đối tượng đó, giọng điệu trong phóng sự rất sinh động: khi nghiên túc, lí lẽ, lúc hài hước, châm biếm và khi lại tràn đầy cảm xúc. Cùng với nghệ thuật trình bày, nghệ thuật miêu tả.. cái tôi trần thuật khiến phóng sự có khả năng phản ánh hiện thực trong nhiều trạng huống khác nhau.
Phóng sự Ngấn ngơ ta xuống ga nào hở em ?, tác giả Ngô Minh Khôi có đoạn mở đầu: “Anh Hoàng Dương, trưởng ga Huế là người cởi mở, thích đùa. Anh yêu văn học và chơi thân với nhiều nhà văn, nhà thơ trong xứ. Trong mâm rượu vui, anh thường hát “bài ruột” tự biên về ngành hoả xa của mình. Bài hát ám ảnh tôi đến nỗi đi đâu gặp đoàn tàu hay nhà ga là tôi lại nhẩm hát. Đặc biệt những lúc tàu đi qua vùng đèo núi hiểm trở, vào ngầm ra dốc như miền Minh Cầm, Kim Lũ, trong tôi lại vang lên da diất bài hát của anh Dương bên chén rượu nơi đất Thần Kinh quen thuộc:
Mi cực, tau cực
Mi cực, tau cực
Mi cực, tau cực
… Suỵt!...
Chỉ mấy chữ ấy thôi mà đủ trạng huống của đoàn tàu. Tiết tấu nhanh dần là tầu rời ga. Tiết tấu chậm dần là tàu vào ga. Tiếng “ suỵt” là tiếng xả phanh hơi như nỗi khổ nghiệt ngã dồn nén tức tưởi”…
Âm hưởng của những lời hát ấy xuyên suốt trong bài phóng sự, tạo ra nỗi ám ảnh đầy trăn trở về thực trạng của những chuyến tài chất chứa bao cảnh đời ngang trái của một xã hội thu nhỏ, được minh hoạ bằng cảnh kiếm sống của những “ thương gia tí hon”, cảnh “rùa đi tàu thống nhất”…Cả một “ mớ thị trường hổ lốn” ấy kết thành khối “ nặng nề và âm thầm, xuyên qua không gian và thời gian trên hai đường ray mưa và nắng và âm điệu bài hát “ ngành nghề ” của anh Dương : Mi cực, tau cực…”
Viết về những người thợ lò ở mỏ than Mông Dương, Huỳnh Dũng Nhân cũng có những dòng đầy trăn trở: “ Tôi đã thấy tạn mắt vài trương hợp có đôi ủng rách, đôi tay trần tứa máu trông than đá, vắt xôi đạu cứng quèo gọi là bồi dưỡng giữa ca, thùng nước vẩn đục bụi than, một chiếc nút áo bị đứt tung phải buộc tạm bằng dây mìn…Tôi đã tạm hiểu thế nào là cuộc sống của những người ăn trên than, đi trên than, ngủ trên than, lam lũ suốt ngày mà hai bàn tay họ không có một tài sản gì giá trị. Tôi nhớ lại- vâng - ngay trong lúc bò trong hầm lò này - hình ảnh một nữ công nhân đang đếm lại từng đòng lương ít ỏi, nhầu nát, toàn tiền lẻ với giấy 50 đồng (chắc tất cả không quá 15 ngàn đồng). Một tờ 50 đồng quá rách. chị tần ngần nửa muốn vào đổi, nửa sợ cô phát tiền la mắng nên lại thôi...”
Những chi tiết rời rạc vụn vặt được tái hiện trong dòng hồi tưởng khi tác giả đang bò trong đương lò tối đên như mực ấy có một âm hưởng xuyên suốt ở bên trong. Đó là nỗi cảm thông sâu sắc, nôi xám ảnh về một thực trạng còn bất hợp lý trong đời sống. Chính những cảm xúc ấy đã gieo vào lòng người đọc những suy nghĩ trăn trở…
Có thể thấy, cái tôi trần thuật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra giọng điệu của tác phẩm phóng sự, cũng chính giọng điệu đó đã thể hiện một cách sinh động thái độ của tác giả trước vấn đề được đề cập trong tác phẩm. Không chỉ là người chứng kiến khách quan, cái tôi trần thuật có thể bày tỏ nỗi xúc động của mình một cách chủ quan mà vẫn không tạo ra cảm giác về sự áp đặt thái độ thẩm định hiện thực.
NHÂN VẬT TRẦN THUẬT VỚI TINH THẦN NHẬP CUỘC:
Trong phóng sự, cái tôi trần thuật được thể hiện một cách sinh động và có cá tính. Cái tôi ấy vừa là nhân chứng khách quan đồng thời cũng là người thẩm định, đưa ra cách nhìn đúng đắn để hướng cho công chúng tiếp nhận đúng sự thật.
Tác giả viết phóng sự không bao giờ chỉ muốn dừng lại ở việc cung cấp thông tin, phản ánh hiện thực mà còn có cả trách nhiệm thức tỉnh công chúng về những vấn đề cần được giải quyết trong cuộc sống của chính họ. Nhà báo chúng kiến sự việc không phải trên quan điểm cá nhân mà phải trên cơ sở lợi ích của công chúng. Như vậy, vai trò của cái tôi trần thuật ngoài việc trình bày hiện thực còn nhằm giải đáp những vấn đề mà hiện thực đặt ra trên cơ sở quyền lợi của công chúng.
Các tác giả của giáo trình “ Hướng dẫn cách viết báo” lưu ý: “Phóng sự là sự tiếp xúc giữa con người và sự việc. Nhà báo sẽ để lại ấn tượng như một tấm ảnh. Trước một sự việc, nhà báo sẽ quan sát những gì xảy ra trước mắt anh ta và thâm nhập vào đó, đặt câu hỏi, nghe ngóng những câu chuyện, đọc tất cả những thể đọc được (áp phích, tài liệu, sách báo), sẵn sàng giúp sức (phương tiện tốt nhất để gây thiện cảm và có nguồn tin tức). Anh ta sẽ luôn tò mò. Người phóng viên, đó là tai, mắt, mũi của anh ta gắn vào cây bút.”
Nếu như với thể loại Phỏng vấn, mọi khả năng của nhà báo là ở chỗ đặt câu hỏi và lựa chọn những câu trả lời thật hay, hoặc nếu viết tin thì điều quan trọng nhất là ở độ nhanh nhạy thì quá trình thu thập tư liệu của người viết Phóng sự công phu và khắc nghiệt hơn nhiều. Không chỉ là một nhân chứng khách quan, người viết phóng sự còn phải luôn có tinh thần nhập cuộc, sẵn sàng đi đến cùng sự thật, phải lăn sả vào thực tế đời sống, phải đi nhiều, lắng nghe nhiều, tiếp xúc nhiều…Người viết phóng sự giỏi là người khám phá ra những điều không bình thương ở những con người và sự việc trong cuộc sống bình thường. Là nhân chứng khách quan nhưng có xu hướng nhập cuộc mạnh mẽ, tác giả phóng sự thường tận dụng mội khả năng để có được những chuyến đi thực tế. Khác với những người đi chỉ để đưa tin hay viết những bài phản ánh thông thường, người viết phóng sự đi là để nắm bắt những nhân vật. Sự việc, vấn đề mà anh ta cần để thu thập chất liệu cho tác phẩm. Đi không chỉ để gặp được nhân vật, sự kiện mà cong phải đến được với chiều sâu văn hoá của những sự thật đó.
Nói về những kinh nghiệm viết phóng sự, nhà báo Đõ Doãn Hoàng cho rằng: “ Trong các cuộc đi rừng cả chục ngày, máy ảnh hết pin cúng đòng nghĩa với việc chuyến đi đã thất bại. Chụp xong cuôn phim nào, ghi xong cuốn sổ tay nào cũng cần phải cho ngay vào túi ni lông và chằng buộc kĩ càng ngay. Sổ tay và máy móc là hai báu vật của người làm phóng sự nên phải bảo quản nó đẻ nếu không may bị rơi xuống suối cũng vẫn không sao. Đó cũng chính là cách tôn trọng các vùng đất và những con người mà anh ta đã đến, đã đi qua…”
Tác phẩm phóng sự chỉ có thể gây được ấn tượng với công chúng khi nó tạo ra được những tác động xã hội thực sự và điều này chỉ có thể có được khi tác giả thật sự nhập cuộc, thu thập mọi nguồn tin trong chừng mực có thể để nhìn cho ra được bản chất vấn đề.
KẾT LUẬN
Phóng sự là một thể loại báo chí có khả năng thông tin thời sự về người thật, việc thật một cách sâu sắc trong một quá trình phát triển. Vừa thông tin sự kiện, phóng sự còn khả năng thông tin lí lẽ, thông tin thẩm mỹ. Chính điều đó đã tạo nên cho phóng sự sức hấp dẫn riêng, đáp ứng nhu cầu hiểu biết của cong chúng. Thong qua vai trò của cái tôi trần thuật, tác phẩm phóng sự còn giải đáp những vấn đề mà hiện thực đặt ra.
Phóng sự xuật hiện trong những hoàn cảnh có vấn đề, ở những thưòi điểm cuộc sống đang có những chuyển biến mạnh mẽ. Nó đề cập đến những sự kiện, vấn đề, hoàn cảnh điẻn hình mà công chúng quan tâm. Không chỉ thông tin tới công chúng về những sự thật đáp ứng yêu cầu thời sự, tác phẩm phóng sự còn có trách nhiệm định hướng tư tưởng cho công chúng.
Trong giai đoạn hiện nay, do ảnh hưởng của sự bùng nổ thông tin, cùng với các thể loại khác, phóng sự có xu hướng ngắn lại và mở rộng phạm vi phản ánh tới những sự kiện, sự việc đa dạng hơn. Một tác phẩm phóng sự trên báo in hiện nay chỉ khoảng ba ngàn chữ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phóng sự hiện đại đã bị tước bỏ những khả năng tiềm tàng của nó mà trái lại điều này còn minh chứng cho sự năng động, linh hoạt của thể loại này trong việc phản ánh hiện thực.
Với tư cách là một thể loại hạt nhân của kí báo chí, phóng sự góp phần quan trọng trong việc phản ánh hiện thức một cách sống động và có chiều sâu.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đức Dũng- Các thể kí báo chí- NXB Văn hoa thông tin, năm 2001.
2. Đức Dũng - Viết báo như thế nào?- NXB Văn hoá thông tin, năm 2001.
3. Đức Dũng- Nguyễn Thị Thoa (chủ biên)- Phóng sự báo chí- PNXB Lí luận chính trị, năm 2005.
4. Hà Minh Đức (chủ biên)- Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn-NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, năm 1997.
5. Nhiều tác giả- Thể loại báo chí- NXB ĐH Quốc gia TP HCM, năm 2005.
6. Dương Xuân Sơn- Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật-NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, năm 2004.
7. Phóng sự trên các báo Tuổi trẻ, Tiền Phong, Dantri.com…
PHỤ LỤC
1. “Làm luật” ở cảng Sài Gũn
Trước khi khởi hành, tài xế Lân căn dặn: “Ông mới đi lần đầu phải biết mấy khoản “đầu tiên” (tiền đâu) với mấy tay bảo vệ cổng, bằng không bị lên danh sách cấm vô cảng là húp cháo cả đám”. Hàng trăm lượt xe tải, xe container ra vào cảng Sài Gũn mỗi ngày, đều phải gánh nhiều khoản phí bất thành văn…
Vé cổng 5.000 đồng nhưng thu gấp đôi!
Ngày 7/11, chúng tôi vào cảng Khánh Hội (đường Nguyễn Tất Thành, quận 4, TPHCM) để nhận cám chở về Bỡnh Dương.
Khi xe tới cổng Bến Sỳc, tụi thấy cú bảng thông báo: “Phí xe tải 5.000 đồng/lượt”. Tuy nhiên, tài xế đưa tôi 10.000 đồng bảo vào mua vé. Mặc dù có bảng thông báo như vậy nhưng tôi vẫn hỏi một nữ bảo vệ: “Vé vào cổng bao nhiêu hả chị?”. “Mười ngàn” (10.000 đồng) - chị nhân viên này đáp cộc lốc.
Tôi đưa tiền, chị nhân viên đưa lại một vé thu tiền giá 5.000 đồng và một “giấy vào cảng” do trưởng phũng bảo vệ Hoàng Văn Biên ký, giấy khụng số, khụng ngày cấp... Chỳng tụi thắc mắc: “Sao vộ ghi năm ngàn mà thu tới mười ngàn?”. Chị nhân viên nhỡn chỳng tôi với vẻ mặt khó chịu: “Thêm tờ giấy này (giấy vào cảng) năm ngàn nữa ông ơi”.
Vé vào cổng đó thế nhưng khi ra cổng vẫn phải chi thấp nhất từ 5.000-10.000 đồng, mặc dù khoản tiền này không hề có trong qui định. Theo một lơ xe, có hai cổng ra là cổng Kho 5 và cổng Nhà Rồng. Tiền chi phụ thuộc ca trực của bảo vệ. Có người lấy 5.000 đồng nhưng cũng có người “chặt” 10.000 đồng.
Theo thống kờ, bỡnh quõn ban ngày cú hơn 500 lượt xe vào, ra cảng (ngày cao điểm lên đến 800 xe) thỡ ước tính nhân viên bảo vệ các cổng cảng đó thu hơn 10 triệu đồng (cả xe vào lẫn xe ra), trong đó chỉ có 4 triệu đồng là thu theo qui định (5.000 đồng/vé vào cổng).
Hoạnh họe để làm tiền
Đêm 7/11, tôi theo xe vào cảng Khánh Hội để chờ nhận hàng. Đang lim dim định chợp mắt thỡ nghe những tiếng đập thỡnh thỡnh vào thựng xe. Mở cửa xe, tụi thấy một nhõn viờn bảo vệ đứng dưới đất, tay chống nạnh nhỡn lờn hất hàm hỏi: “Xe lấy hàng gỡ mà đậu đây ngon vậy? Muốn ghi số xe không?”.
Tôi hiểu “ghi số xe” là để phạt tiền vỡ nơi đây không được đậu xe. Tôi nói xe đang chờ lấy sắt chở về Bỡnh Dương, xin đậu qua đêm. Nhân viên bảo vệ nhỡn biển số xe rồi phỏn: “Xe này trước đây bị phạt một lần rồi, lần này cấm vô luôn”. Tôi năn nỉ xin bỏ qua, anh nhân viên bảo vệ nhỡn trước ngó sau rồi hạ giọng: “Bây giờ muốn gỡ thỡ núi?”.
Biết ý, chúng tôi rút tờ 50.000 đồng, anh này lập tức cầm đút vào túi. Các tài xế xe chờ hàng phải đậu qua đêm cho biết: “Muốn đậu đêm ở cảng phải gặp các “sếp” trưởng, phó ca trực để nhờ giúp đỡ”.
Theo hướng dẫn của các tài xế tụi tỡm gặp Vũ Gia Khỏnh, phú ca trực cổng Bến Sỳc (đội bảo vệ cảng Nhà Rồng) lúc 23h ngày 7/11. Sau vài câu chào hỏi, tôi nhập đề: “Tụi tôi có mấy xe đậu dưới cảng Khánh Hội mất đồ dữ quá nên xin lên trên này đậu, nhờ anh giúp”.
Khỏnh làm bộ khú dễ: “Trờn này cũn chỗ nào đâu mà đậu”. Tôi hỏi tiếp: “Anh chiếu cố giúp cho đậu chừng 6-7 chiếc được không?”. Khánh đổi giọng: “Thôi, đưa danh sách xe coi. Được rồi, để đây đi”. Chúng tôi hỏi tiếp: “Lấy bao nhiêu hả anh?”. Khánh nháy mắt đưa một ngón tay (100.000 đồng).
Khoảng 22h ngày 9/11, tôi tiếp tục theo xe vào nhận hàng ở khu vực cảng Khánh Hội. Đêm nay là ca trực của Trần Văn Bon, thuộc đội bảo vệ cảng Nhà Rồng. Gặp chúng tôi, ông Bon hỏi có mấy xe muốn đậu qua đêm, sau khi chúng tôi nói sáu xe, ông Bon quay qua bà Nguyệt (nhõn viờn thu phớ) hội ý rồi núi: “Phải đi sớm mới được, đưa danh sách đây”.
Liếc qua danh sách của chúng tôi đưa, ông Bon chỡa tay ra hiệu đưa tiền. Tiếp đó, ông Bon lên tiếng: “Sáu xe sáu chục ngàn”.
Tương tự, trong ca trực đêm 17/11 do ông Kế làm trưởng ca, lúc 22h chúng tôi chứng kiến một nhóm tài xế đến gặp ông Kế để xin đậu qua đêm. Ông Kế dọa một tài xế: “May mà ông gặp tui, tám xe đưa đây 100.000 đồng thôi”.
Theo thống kê của chúng tôi, hằng đêm trung bỡnh cú 250-300 lượt xe vào cảng giao nhận hàng hóa, trong đó số lượng xe phải đậu qua đêm chờ giao nhận hàng hơn 100 xe/đêm. Tính ra một ca trực (bảy người) đó bỏ tỳi riờng 5-6 triệu đồng/đêm.
Ngoài lỗi đậu xe qua đêm, những xe nào chở vượt tải trọng đều bị bảo vệ xử “triệt để” theo kiểu phạt vạ hoặc đũi chung tiền rồi mới ra quyết định giải tỏa biên bản vi phạm. Theo các tài xế, muốn giải quyết xe vi phạm phải gặp “bộ tứ” Nhỏ - Thanh - Hải và Hoàng. 12h30 ngày 24/11, chúng tôi gừ cửa phũng bảo vệ cảng Sài Gũn để gặp ông Huỳnh Văn Nhỏ, phú phũng.
Sau một hồi nghe tôi ca cẩm về việc xe bị cấm vào cảng, ông Nhỏ đọc qua “giấy cam kết”, số xe và tỡnh trạng vi phạm rồi phỏn: “Xe này bị nặng quỏ. Gặp Thanh chưa? (Thanh là đội trưởng đội điều tra thụ lý - PV). Cỏi gỡ biết trước mới dễ giải quyết. Xuống đội đi, tí tao xuống”.
12h40, tụi cú mặt tại phũng bảo vệ quõn sự cảng Sài Gũn (đội điều tra thụ lý nằm chung ở đây) đặt ở cổng Kho 5. Tôi trỡnh bày với ụng Hải cú chiếc xe vi phạm đậu đêm, nhờ giải tỏa để xe vào cảng lấy hàng. Cũng như thái độ của ông Nhỏ, ông Hải nhắc đi nhắc lại rằng “xe vi phạm quá nặng”, nhưng cuối cùng nói: “Để đơn lại đây, lên cổng Bến Súc gặp thằng Khánh nói nó gọi điện xuống đây cho chú”.
Thấy hai tờ giấy bạc loại 50.000 đồng kẹp vào đơn xin giải tỏa xe, ông Hải mỉm cười bảo “để đó đi”... 10 phút sau đó tại cổng Bến Súc, chúng tôi gặp Khánh theo như chỉ dẫn của ông Hải. Khánh nói chắc như đinh đóng cột: “Tí nữa lên đội điều tra thụ lý tao giỳp giải tỏa gọn ghẽ cho mày luụn”.
Theo H. Khương – V.H.Quỳnh
Bỏo Tuổi Trẻ
2. Cổ tớch ở làng chài
Ngay trong lũng Thủ đô có một lớp học chỉ vỏn vẹn vài cái ghế băng; không phấn, không bảng, nắng rọi qua những khe liếp mỏng, trũng trành theo súng nước.
Nơi đó, có những đứa học trũ mặc quần cộc, ỏo lấm và những “chị giỏo, anh giáo” vẫn cặm cụi bên từng trang vở học sinh. Làng tụ quây bằng mấy con thuyền neo vào bờ, không sống bằng nghề chài lưới, nhưng khu lao động này từ lâu đó quen gọi lớp học của cỏc học sinh, sinh viờn tỡnh nguyện ấy bằng cỏi tờn giản dị “lớp học làng chài”.
Thắp lên những ước mơ
Bố bị lao phổi nặng, lay lắt từng ngày. Mẹ quanh năm đầu tắt, mặt tối lang thang khắp ngừ chợ tỡm việc thuờ mướn. Mới 6 tuổi đầu nhưng là con cả trong gia đỡnh, ban ngày Mai phải thay mẹ một mỡnh trụng 4 em nhỏ, chăm bố. Lúc nào rảnh rang, Mai lại tranh thủ đi nhặt rác, rửa bát để thêm đồng thuốc thang cho bố.
Đến tuổi đi học, được đưa vào dạy trong mái ấm tỡnh thương Phúc Xá, nhưng với Mai và lũ trẻ làng chài thỡ thời khoỏ biểu tuần 3 buổi, mỗi buổi 2 tiếng đồng hồ không thể đem nổi những dũng chữ, con số chiến thắng những bức bối, quắt quay cơm áo gạo tiền đó chạm vào tuổi thơ, đó len vào những cỏi đầu bé nhỏ. 2, 3 năm vẫn không lên nổi một lớp. Lại chán… Rồi bỏ…
Với Mai, với những đứa trẻ xóm chài khi giấc ngủ cũng chênh chao với sông nước thỡ đi học là một điều xa xỉ, xa xỉ cả về thời gian- lúc đó, chúng có thể trông em phụ bố mẹ; xa xỉ về cả mặt tiền bạc- chúng có thể đi lượm rác, bán vé số…
Sẽ hữu ích hơn rất nhiều việc ngồi nghe những điều mà chúng khó hiểu và cũng không muốn hiểu. Mai chẳng bao giờ dám ước mơ. Bầu trời với em chỉ là một khuôn cửa sổ nhỏ, nơi luôn luôn sáng nhất kể cả vào ban đêm…
Đó là câu chuyện của Vũ Thị Mai, một cô bé ở xóm chài dưới chân cầu Long Biên 3 năm về trước. Mai bây giờ đó 9 tuổi. Mai sắp được lên lớp 2 ở trường Mái ấm tỡnh thương Phúc Xá. Mai đó thuộc hết mặt chữ, viết được tên từng thành viên trong gia đỡnh, đó thuộc làu bản cửu chương và đến trường không cũn là một cực hỡnh nữa.
Em trai của Mai cũng sắp được lên học lớp 2 với chị. Thế là hai chị em lại cùng một lớp, lại cùng được đến trường. Nó không cũn lặp lại thành tớch 3 năm 1 lớp của chị nó. Bố Mai cũng có tiền để thuốc thang nên bệnh thuyên giảm nhiều. Con thuyền của gia đỡnh Mai được các anh chị giúp đỡ sửa chữa nên không cũn dột như ngày xưa.
Buổi sáng, lang thang lên chợ Đồng Xuân kiếm sống, buổi chiều Mai và lũ trẻ lấm lem nơi xóm chài lại ngong ngóng tiếng bước chân của các anh chị đến dạy: Chị Dương, anh Khiêm, chị Thuỳ, chị Hương… Không chỉ Mai mà Thu, Hùng, Xuân, Lĩnh… quý và biết ơn cỏc anh chị lắm.
Giờ, Mai vẫn nhút nhát và lỏn lẻn nhưng Mai bắt đầu xây ước mơ rồi, ước mơ duy nhất và cháy bỏng lắm: “Em sẽ cố gắng để trở thành cô giáo, cũng giống như các anh chị tỡnh nguyện, em sẽ dạy cho những đứa trẻ ở xóm vạn chài này, những đứa trẻ lang thang này để chúng không cũn cảnh thất học, mự chữ và căm ghét việc đến trường nữa”.
Những “bảo mẫu” đa năng
Chớnh xỏc phải gọi những học sinh, sinh viờn tỡnh nguyện xuống làng chài dạy học là những bảo mẫu đa năng của lũ trẻ. “Đâu phải cứ muốn làm gia sư cho chúng là được ngay” - Nguyễn Thuỳ Dương (sinh viên trường trung cấp du lịch), trưởng nhóm phụ trách lớp học tâm sự.
Cũng phải nhọc công lắm mới thuyết phục được các em đến lớp. Mất 3 tháng trời để làm quen, thuyết phục, gây lũng tin với cỏc bậc phụ huynh để chỉ mỗi mục đích là cho những đứa trẻ đến lớp. Hồi đó, Dương, Khiêm, Bảo thậm chí cũn phải lao động chân tay, giúp họ sửa từng cái thuyền, chỗ dột, chỗ ngấm nước, tất bật đi vận động quyên góp cho họ vay vốn để làm ăn. Và gấp đôi thời gian thế nữa để làm quen, chơi, gây lũng tin và thiện cảm với lũ trẻ. Chơi mà học.
Ban đầu, chỉ có 2 đứa trẻ. Dần dần lũ trẻ đó kộo nhau đến đông hơn. Giờ quân số của lớp học đó lờn đến 20. Lớp học nằm trọn trong một cái thuyền. Bàn học chỉ là một tấm gỗ mỏng kờ khộo thỡ vừa, cũn lại thỡ cả trũ lẫn thầy đều lấy luôn sàn làm bàn “nhưng đứa nào cũng ham lắm”…
Ban ngày không đủ sáng. Đóng cửa sổ thỡ tối mà mở cửa ra thỡ lạnh. Những đứa trẻ quen với sông nước đến mấy thỡ tấm ỏo mỏng cũng khụng đủ ấm trong mùa đông. Một mỡnh Dương phải xoay xở cùng một lúc tập viết cho lớp 1, đọc chính tả cho lớp 3, dạy toán cho lớp 4, lớp 5.
Sau có thêm Bảo, Khiêm, Long, Thuỳ, Hương… Lớp học cũng thế mà dời từ thuyền ông bà- cái bè mà nhóm quyên góp đóng để làm lớp học - lên đến một phũng nhỏ chưa đầy chục m2 trên bờ. Tháng tháng, cả nhóm lại quyên góp 350. 000 đồng để trả tiền thuê lớp học cho các em. Rồi chia ca, chia lịch đi dạy. Giờ không chỉ cũn 2 buổi/tuần mà tới gần 10 buổi/tuần.
“Vất vả nhất không phải dạy những đứa trẻ ở đây kiến thức. - Hương, cô giáo trẻ đang học lớp 10 trường HN- Amsterdam tâm sự - Phải vừa dạy, vừa dỗ dành chúng học, mà khó nhất là phải đối xử thật công bằng. Rồi lại phải dạy làm sao để khi nói với chúng rằng: “Hôm nay em thó được 10 quả cam trên chợ” là việc làm khụng tốt, khụng nờn”.
Cú những ngày, cả nhúm cũn phải cắt cử người ở lại đêm trông các em. Đấy là khi mùa bóo đến, những con thuyền nhỏ vốn chũng chành và mong manh lắm. Bố mẹ những đứa trẻ thường lao động kiếm sống cả đêm trên chợ Long Biên.
Sau tai nạn của Sơn- một em nhỏ dưới làng chài, thương và lo cho các em, Bảo, Khiêm lại thay phần việc của bố mẹ chúng, ở lại cả đêm trông nom, chăm sóc lũ trẻ. Có đứa trẻ nào ốm, lại tất tả lo thuốc thang, nhờ bác sỹ đến khám giúp cho các em.
Gắn bú với làng chài, những thầy giỏo, cụ giỏo tỡnh nguyện ấy vẫn đang miệt mài với các em nhỏ để đem con chữ, kiến thức và cả những ước mơ đến với các em từ những việc làm nhỏ nhất, thường nhật nhất. Và họ đang âm thầm dệt nên những câu chuyện cổ tích ngay giữa đời thường.
Diệu Linh
Tiền phong
3. Dân chơi Hà thành và những chiếc xe bạc tỷ
Đó là những chiếc xe đời mới giá không dưới 100.000 USD. Song, giá trị đích thực của những chiếc xe không chỉ tính bằng tiền... Một xu hướng chơi xe hơi hàng hiệu đang hiện hữu ngày một rừ giữa lũng Hà Nội.
Kiểu cách độc đáo, tính cách mạnh mẽ, đa công năng... những chiếc xe được gắn cái mác “hoàng tử trên phố” này đang gây chú ý khụng chỉ với dõn sành xe đất Hà thành.
Xe “hàng hiệu” tung hoành trờn phố!
Ngó ba Quang Trung - Hồ Xuân Hương một ngày giữa tháng 11/2005. Giữa trưa nắng ấm, đám viên chức làm việc tại mấy cao ốc gần đó xúm đen xúm đỏ quanh một chiếc ô tô màu đen, BKS 29V –77… lừng lững đậu ngay đầu ngó ba.
Không có chủ, nhiều khách mạnh dạn đặt tay lên sườn chiếc xe vuốt một cỏi rừ dài thật õu yếm, miệng trầm trồ: “Đi xe này mới đó! Đúng xe hàng hiệu!”. Nhưng hiệu gỡ thỡ chẳng ai biết vỡ xe chẳng cú chữ, cỏi lụ gụ hỡnh e lớp khuyết gắn phớa sau nom lạ hoắc. Mấy phú nhỏy đi qua không bỏ lỡ cơ hội chộp vài kiểu ảnh làm tư liệu.
Một bác cao niên, chẳng hiểu mô tê thế nào dọa: “Gọi CSGT đến kéo xe đi, ai lại đỗ nghênh ngang thế này”. Cuối cùng thỡ chủ xe cũng xuất hiện, tự tin mở cửa xe nổ mỏy. Chiếc xe lừ lừ lao đi để lại những lời râm ran bàn tán.
Thực ra đây là chiếc xe có hiệu NISSAN Infiniti QX 56, loại xe 2 cầu có động cơ 5.5 lít với 8 chỗ ngồi. Chủ nhân của chiếc xe là ông P.X.D trú tại phố Ngô Quyền. Ông D đó bỏ ra 1,4 tỷ đồng để sở hữu “con NIS” độc đáo số một Hà Nội vào tháng 3/2005. Tuy nhiên, giới sành chơi xe đất Hà thành thỡ khẳng định rằng, nếu không mặc cả, trũn trĩnh giấy tờ, “con NIS” này được bán 156.000 USD (2,5 tỷ đồng)…
Hà Nội hiện cũng xuất hiện khoảng dăm “con NIS” (NISSAN) hàng “cầu đôi” (2 cầu) hiệu Murano nhưng động cơ thấp 3.5 lít. Trong số đó có 3 xe biển kiểm soát dân sự như chiếc Murano đen BKS 29X-2009; 29V- 77... Ngoài ra, một số xe có BKS ngoại giao, biển nước ngoài. Những chiếc Murano “nhập cảnh” Hà Nội sớm nhất là vào tháng 1/2005 và mới đây nhất là vào thỏng 8/2005.
Trờn sổ sỏch chiếc xe 29V-77... cú giỏ suýt soỏt tỷ bạc. Nhưng giá thị trường, chúng được chào mua 125.000 USD đến 130.000 USD (khoảng 2 tỷ đồng). Murano là loại xe hai cầu đó rất được ưa chuộng tại thị trường Mỹ và một số nước phỏt triển.
Nói đến những chiếc xe sành điệu, giới sành xe phải “nghiêng mỡnh” khi nhắc đến chiếc Lexus GX 470 với chiếc lô gô chữ “L” cách điệu (dũng xe mang thương hiệu riêng của hóng Toyota sản xuất riờng cho thị trường Hoa Kỳ) vừa xuất hiện tại Hà Nội tháng 6/2005. Đây là chiếc xe loại hai cầu dó chiến 8 chỗ, động cơ 4.6 lít. Chủ nhân của chiếc xe là một “đại gia” ở phố Thái Hà. Giới buôn xe đồ rằng chiếc xe này giá thật không dưới 2,5 tỷ đồng.
Khoảng một tháng lại đây, nhiều người đi trên đường Tây Sơn- Nguyễn Trói- Hà Đông, thi thoảng lại bắt gặp một chiếc xe BMW Sporting màu đen. Với người bỡnh thường khi may mắn gặp chiếc xe thứ thiệt lướt qua chỉ ngẩn ngơ mà khen rằng: “Tuyệt vời quá”.
Tác giả bài viết đó từng chứng kiến một nhúm thanh niờn đi xe máy bám theo chiếc xe từ đầu phố Khâm Thiên cho đến Ngó Tư Sở chỉ với mục đích ngắm cho kỹ chiếc xe lạ và không ngớt bàn tán. Có điều, chiếc xe mang BKS của một cơ quan nước ngoài tại Hà Nội.
Theo nhận định của dân sành xe, đây là chiếc BMW thể thao hiệu Coupe Z9. Có lẽ đây là chiếc Z9 đầu tiên tại Hà Nội, trước đó vài tháng người ta cũng thấy xuất hiện tại Hà Nội một, hai “con” Z7. Ngay cả giới buôn xe cũng không thể đoán được chiếc Z9 kia bao nhiêu tiền mà chỉ ước khoảng 130.000 USD.
Theo tỡm hiểu của chúng tôi, chủ nhân của chiếc xe trú tại quận Thanh Xuân. Nói đến những chiếc xe hàng hiệu BMW, không thể không nói đến dũng xe 5 chỗ sờri 7 như: BMW 745, 760, những chiếc xe này có giá từ 145.000 đến 150.000 USD (2,3 tỷ đồng). Loại xe này ở Hà Nội cũng chỉ “đếm trên đầu ngón tay”.
Giới chơi xe Hà Nội luôn đánh giá cao những chiếc “Mẹc” (Mercedes) nhập nguyên chiếc có phân khối lớn như dũng S500, S600. Tuy sang trọng, lịch lóm và khỏ đắt với giá lên đến 160.000 USD (2,5 tỷ đồng), song những chiếc xe này được dân chơi đánh giá là “cổ điển” và không được năng động cho lắm.
Cuối cùng phải nói đến những chiếc Hummer - loại xe hai cầu đặc dụng do Mỹ sản xuất. Những chiếc xe này du nhập vào Hà Nội từ vài năm gần đây theo con đường ngoại giao. Trước đó dân chơi không dám mua Hummer vỡ mấy lẽ: Xe quỏ hầm hố, to quỏ cỡ, rất khú cho việc đỗ và di chuyển và hơn thế chúng ngốn xăng như uống nước ló.
Vậy nhưng đến nay đó cú một chủ Salon ụ tụ tại Hà Nội dỏm sở hữu xe Hummer. Giỏ chiếc Hummer mới lờn đến 180.000 USD (3 tỷ đồng), tuy nhiên những chiếc xe không mới có giá khoảng 145.000 USD.
Chủ nhõn xe hàng hiệu: Họ là ai?
Trước hết, họ phải là người nhiều tiền. Bởi lẽ mỗi chiếc xe hàng hiệu có giá trung bỡnh 2 tỷ đồng và để nuôi những “hoàng tử” trong nhà họ phải chi phí cả ngàn đô la mỗi tháng cho việc “làm đẹp”, bảo dưỡng và “nuôi ăn” hàng ngày.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, họ phải là những người đam mê xe hơi đẹp, lạ mắt, và “độc”. Để có thể sở hữu một chiếc xe ưng ý, nhiều chủ xe phải đặt tiền trước đó hàng năm trời. Nếu không đam mê, không kỹ tính, ai có thể kiên trỡ làm được điều này.
Chiếc xe hơi không chỉ phản ánh sự giàu có của gia chủ mà nó cũn phản ỏnh cỏ tớnh, địa vị xó hội và thậm chớ là nghề nghiệp của chủ sở hữu. Chủ nhõn của những chiếc xe dỏng thể thao, động cơ mạnh mẽ thường là lớp doanh nhân trẻ, năng động (tuổi 30-40).
Lớp doanh nhân này tại các thành phố lớn như Hà Nội đang ngày một đông. Tuy nhiên, len lỏi sở hữu những chiếc xe hơi hiệu cũn là cỏc “quý tử” của một số đại gia cỡ bự, một số quan chức…Xu hướng chơi xe đẹp này tại các nước phát triển rất rừ: sở hữu những chiếc xe đầy cá tính là các ngôi sao thể thao, ca nhạc, những minh tinh màn bạc…
Tại Việt Nam những ngụi sao dựng xe hàng hiệu cũn rất khiờm tốn. Đối với các đại gia có bề dày kinh nghiệm sống, thỡ việc đi một chiếc xe quá lạ gây chú ý của nhiều người không phải là tốt. Những dũng xe cổ điển như BMW, Mẹc seri mới, công suất máy cao vừa sang trọng, quý phái lại giữ được kín đáo cần thiết tất sẽ được những đại gia lớp trên (50 tuổi trở lờn) chọn lựa.
Hiện xe hơi hàng hiệu được du nhập về Việt Nam qua một số con đường chính. Con đường ngoại giao. Sau khi hết thời hạn làm việc tại Việt Nam nhiều xe được các nhân viên ngoại giao nhượng lại cho chủ người Việt. Tất nhiên là những chiếc xe phải được đánh giá chất lượng và nộp thuế. Hiện tại, nhiều tay chơi xe vẫn đi những chiếc xe BKS ngoại giao hay biển NN (nước ngoài), đẹp, sang trọng mà lại ít bị kiểm tra (?).
Con đường thứ hai để xe hiệu vào Hà Nội là thông qua nhập khẩu. Khách hàng có thể đặt tiền cho salon ô tô hay các đại lý ô tô, sau đó các đại lý này thông qua một doanh nghiệp có chức năng nhập khẩu đưa xe về. Do là xe đắt, lại nhập đơn chiếc hoặc rất ít nên những chiếc xe này có giá cao.
Để giảm “thiệt hại” cho người mua do mức thuế cao, chúng được ghi hóa đơn với giá rất rẻ. Tuy nhiên, với dân sành chơi, thỡ giỏ cả khụng phải là cỏi gỡ quỏ nặng nề điều cốt yếu là có được những chiếc xe ưng ý mà thiờn hạ phải trầm trồ thỏn phục.
Rừ ràng tại Hà Nội đó cú một lớp người giàu sang đang nổi lên.
Theo Phùng SưởngTiền Phong
4. Những “chợ tỡnh dó chiến”
Chúng tôi đang thắc mắc không hiểu người ta uống cà phê như thế nào thỡ cú tiếng cười rù rỡ từ chũi bờn cạnh. Chốc chốc cú lời phản ứng yếu ớt từ cụ gỏi: “đừng anh!”. Lát sau, tiếng rự rỡ im bặt, những lời phản ứng cũng im bặt, thay vào đó là những âm thanh khó tả...
Báo cáo của cơ quan chức năng ngày càng đưa ra những con số kinh hoàng từ nạo phá thai. Các nghiên cứu xó hội học cũng khụng ngừng bỏo động về thực trạng quan hệ tỡnh dục sớm, mang thai, nạo, phỏ thai ngoài ý muốn trong thanh thiếu niờn để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho bản thân người trong cuộc mà cho cả gia đỡnh họ và xó hội.
Tuy nhiờn, ở “bờn ngoài” tỡnh hỡnh dường như vẫn “chẳng có gỡ đáng ầm ĩ”. Những cạm bẫy ngọt ngào vẫn đang mời chào vẫy gọi và giới trẻ cứ “vô tỡnh” dấn sõu vào.
Khu “chuồng tỡnh ỏi”
Yờu, dắt nhau ra cụng viờn tõm tỡnh. “Xưa rồi Diễm!”. Sài Gũn đắt đỏ nhưng cũng không thiếu những bói đáp cho các cặp tỡnh nhõn với giỏ bốo. Theo “chỉ dẫn” của một nhúm thanh niờn, tối thứ bảy, chỳng tụi tỡm đến các quán cà phê trên đường Lê Đức Thọ, P.17, Q.Gũ Vấp - loại quỏn mà dõn đi chơi đặt cho cái tên là cà phê “ọt ẹt”.
Quán nằm khuất trong một con hẻm. Ngoài cái biển to đùng: cà phê sân vườn Sakê đặt phía trước thỡ khụng cú dấu hiệu nào nhận biết đây là một quán cà phê. Không mặt tiền, không bàn ghế và không đèn! Vừa trờ tới cổng, một thanh niên đưa tay ngoắc rồi kéo chúng tôi vào. Chẳng thấy khách đâu mà chỉ thấy hơn 30 chiếc xe máy đủ loại xếp hàng dài phía trước.
Khi chúng tôi vừa bước xuống xe, không cần hỏi, một cô gái cầm đèn pin bước tới: “Đi theo em!”. Nói rồi cô soi đèn dẫn khách quanh co trên lối đi chỉ rộng khoảng nửa mét, hai bên cây um tùm. Qua ánh sáng nhờ nhờ, chúng tôi nhận thấy những căn chũi nhỏ thum thum dựng sỏt nhau. Hết mấy khỳc quanh, cụ gỏi mới chịu dắt chỳng tụi vào “lõu đài tỡnh ỏi”.
“Lâu đài” được dựng bằng phên tre và giấy cactông. Trong diện tích chừng 4m2 ấy có một ghế salon đôi đó xẹp lộp nệm, nửa cỏi quạt mỏy cọc cạch (nửa cũn lại dựng cho “lõu đài” chung vách), một cái ghế để nước và một cái ghế để treo... quần áo. Cô chủ quán bê vào hai chai nước suối, hai cái khăn lạnh. Tất cả không gian và nước uống ấy giá 22.000 đồng. Chúng tôi đùa với nhau: “Quá rẻ cho một đêm dài... bất tận”. Ánh sáng duy nhất được khuyến mói ở đây là cái đầu đo đỏ của khoanh nhang muỗi.
Chúng tôi đang thắc mắc không hiểu người ta uống cà phê như thế nào thỡ cú tiếng cười rù rỡ từ chũi bờn cạnh, chỉ cỏch nhau cú tấm phờn tre. Hai bạn trẻ ấy cứ cười khúc khích, chốc chốc có lời phản ứng yếu ớt từ cô gái “đừng anh”. Lát sau, tiếng rù rỡ im bặt, những lời phản ứng cũng im bặt, thay vào đó là những âm thanh khó tả...
Lui tới Sakê, chúng tôi đếm được ở đây có khoảng 50 chũi để phục vụ khách, được quy hoạch thành nhiều lô có mô hỡnh giống như các khu dân cư mới, giữa các lô là lối đi. Kế bên Sakê là quán Tre Vàng cũng ngần ấy chũi nhưng xây dựng tạm bợ hơn. Hằng ngày, nhất là thứ bảy, chủ nhật, khách ra vào đây nườm nượp.
T. - một thanh niên thuê nhà trọ gần đó - phân tích “với mức thu nhập của công nhân như tụi tôi thỡ cỏc quỏn cà phờ như vậy thật quá lý tưởng để hũ hẹn trai gỏi”. “Lý tưởng” thật, nhưng chính T. đó phải hai lần đưa hai người con gái khác nhau đi “điều hũa”.
Dự bộ phim sex học trũ cà phờ Thanh Đa đó gõy xụn xao dư luận cách đây vài tháng nhưng các quán cà phê không đèn nơi đây vẫn hoạt động bỡnh thường. Ghé một quán trên đường Bỡnh Quới, Q. Bỡnh Thạnh, chỳng tụi cũng được dắt vào căn phũng tối thui. Khụng cần riờng tư cũng chẳng cần ngăn bằng tôn lạnh, ván ép, phũng này chỉ cú hơn chục salon đôi kê song song. Tuy không đèn nhưng thỉnh thoảng nhờ màn hỡnh điện thoại di động, chúng tôi cũng dễ dàng nhỡn thấy những đôi nam nữ ngồi bên cạnh làm những chuyện... “phũng the”.
Nhà trọ... giờ tan học
Để sang trọng, thoải mái hơn chút, khách có thể vào hàng loạt nhà trọ, nhà nghỉ mini đang trương bảng gọi mời. Chúng tôi thử đi đặt phũng một số nhà trọ trờn đường Nguyễn Cửu Vân (Q.Bỡnh Thạnh), đường Hoàng Sa (Q.1).
Khi được biết chúng tôi đặt phũng cho một người ở, các cô lễ tân lắc đầu nguầy nguậy: “Hết phũng rồi!”, trong khi sau đó nhiều cặp chở nhau phóng ào vào thỡ vẫn cũn chỗ! Tiền phũng ở đây cũng chia nhiều loại “thuê giờ” hoặc “qua đêm” với giá 80.000 đồng/giờ hoặc 250.000 đồng/đêm.
Không gần trung tâm, không gần địa điểm du lịch cũng không gần bến xe nhưng khách sạn, nhà nghỉ mọc lên như nấm ở khu rỡa thành phố. Chỉ dọc mặt tiền 20 căn trên một đoạn đường Nguyễn Oanh, P.17, Gũ Vấp (gần cầu An Lộc) đó cú đến 10 nhà kinh doanh nhà nghỉ, khỏch sạn.
Trưa 10/9, trong vai một cặp tỡnh nhõn đi thuê “không gian riêng tư”, chúng tôi được chủ khách sạn H cho biết: “Phũng lạnh giỏ giờ đầu là 50.000 đồng, phũng quạt 40.000 đồng, giờ tiếp theo tính 10.000 đồng”. Không cần hỏi han, cũng chẳng cần trỡnh thờm thứ giấy tờ nào ngoài bằng lỏi xe của đồng nghiệp, chúng tôi được dắt lên nhận phũng. Xe mỏy của chỳng tụi được nhân viên đưa vào trong xếp cẩn thận. Những xe nào để ngoài thỡ được anh giữ xe “chu đáo” quay biển số vào trong nhà.
Theo quan sát của chúng tôi, hầu hết khách nữ bước vào chốn này đều đội nón chụp, mang khẩu trang kín mặt và đeo mắt kính đen. Dường như giờ nào trong ngày khu nhà trọ này cũng đông khách, nhưng cao điểm nhất có lẽ là giờ ngủ trưa, giờ tan học và khoảng 8-10 giờ tối...
Mang mền... đi chơi
Một chiều cuối tuần không mưa, mấy cô bạn công nhân rủ rê đi... giao lưu. Điểm hẹn là công viên lớn rất đẹp trong khuôn viên đang được qui hoạch làm khu hành chính tương lai của thị trấn Dĩ An, Bỡnh Dương, cạnh khu nhà trọ xóm Vắng, xóm Nghèo đông đúc nhất KCN này.
Mới 6h chiều mà công viên đó đông nghẹt. Gần đài phun nước, nhiều tốp thanh niên nam nữ đứng ngồi lố nhố, chọc ghẹo nhau í ới. Xa hơn là chỗ chỉ dành cho tỡnh nhõn, từng cặp nam nữ ngồi tõm sự, xe đạp dựng kế bên. Nhiều cặp hẹn trước, vừa tan ca là đạp xe thẳng ra đây, trên áo cũn đeo cả bảng tên.
Chỉ tay ra phía xa nơi những bói đất trống cỏ mọc quá đầu người hay dọc bức tường rào ngăn lô, Xuân Hoàng - công nhân Công ty Chutex - cho biết: “Có cặp cũn mang theo sẵn cái... mền để lỡ có quên thỡ ngủ lại luụn”.
Chuyện “tới luôn sáng mai về sớm” chưa “xinhê” so với nạn “góp gạo nấu cơm chung” trong công nhân. Qui định duy nhất với công nhân ở đây là phải đăng ký tạm trỳ, cũn chuyện sống với ai, số lượng bao nhiờu thỡ cú vẻ... vụ tư. Chỉ tính ba địa phương nằm kề Khu công nghiệp Sóng Thần là phường Bỡnh Chiểu, quận Thủ Đức (TPHCM), thị trấn Dĩ An, xó An Bỡnh, huyện Dĩ An (tỉnh Bỡnh Dương) đó cú gần 30.000 phũng với hơn 70.000 người đến thuê ở.
Khi hỏi nữ cụng nhân về chuyện “sống chung”, chúng tôi bất ngờ nhận được khá nhiều câu trả lời: “công nhân xa nhà mà... nếu thấy thật sự yêu thỡ về ở chung rồi từ từ tớnh tiếp”.
Hôm chuẩn bị rời khu nhà trọ, chúng tôi gặp một đôi tỡnh nhõn đang di chuyển “tổ ấm” từ KCX Linh Trung sang đây để “ít gặp người quen, sống thoải mái hơn”. Con số hơn 300 ca nạo phá thai mỗi tháng (tháng cao điểm lên đến 500 ca) trong khu vực KCX-KCN Sóng Thần, Linh Trung, Linh Xuân phần nào nói lên được tỡnh hỡnh hỗn loạn này.
Theo Lê Anh Đủ - Yến Trinh – Thi NgụnTuổi trẻ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TBC 34.doc