Tiểu luận Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con ngườivà vấn đề xây dung con người trong sự nghiệp cong nghiệp hoá - hiên đại hoá ở nước ta

Công nghiệp hoá hiện đại hoá là con đường tất yếu duy nhất để đưa nước ta từ một nước kém phát triển đạt được những thành tựu to lớn cả về mặt kinh tế cũng như xã hội. Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá chúng ta phải biết tận dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực trong nước cũng như nước ngoài. Một trong những nguồn lực to lớn trong nước đó chính là nguồn nhân lực. Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò to lớn của con ngưòi Việt nam hiện nay : con người vừa mục tiêu vừa là động lực của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Việc phát triển con người lấy quan điểm của triết học Mác –Lênin có cơ sở nền tảng là một trong những chiến lược, nhiệm vụ cấp bách củ nước ta hiện nay. Bởi tiềm năng con người với trí tuệ và lao động dịnh hướng qui định sự tiến bộ của mỗi quốc gia. Hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới người lao đọng Việt nam đã được giải phóng tong bước khỏi sự ràng buộc của cơ chế cũ, phát huy quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo trong các hoạt động kinh tế xã hội tong bước thcj hiện mục tiêu “ dân giàu nước mạnh xã hội công bằng xã hội dân chủ văn minh”.

doc25 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2572 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con ngườivà vấn đề xây dung con người trong sự nghiệp cong nghiệp hoá - hiên đại hoá ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang A.Lời mở đầu Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin lịch sử loài người xét đến mục tiêu cuối cùng là phát triển toàn diện cá nhân trong một xã hội văn minh, làn sang văn minh đang dưa loài người tói một kỷ nguyên mới mở ra bao khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tớitương lai.Ngày nay ở nước ta cùng vưới quá trình đổi mới toàn diện đất nước và bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá việc xây dung con người là một đòi hỏi cấp bách.Bởi lẽngười lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sỗng xã hội và trong sự phát triển nền kinh tế đất nước theo cươ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì chất lượng người lao động là nhân tố quyêt định trên cơ sở vận dụng khoa học và sngs tạo chủ nghĩa Mac-Lênin về con người mà tại hội nghị lần thứ 4 của ban chấp hành trung ương khoá Vii đảng ta đẫ đề ra thông qua nghị quyết về sự phát triển con người việt nam tòn diện vưới tư cách là động lực của sự nghiệp xây dung xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đó là:”Con người phát triển cao về trí tuệ cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần trong sáng về đạo đức” Công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta là quá trình xây dung một lực lượng sản xuất hiện đại trong đó con người là lực lượng sản xuất hàng đầu.Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay khác thời kỳ trước là ngoài việc phát triển có kế hoạch theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn lấy nhân tố thị trường để điều tiết nền kinh tế. Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh là côn người.Con người là động lực tạo ra động lực phát triển của lực lượng sản xuất.Như vậy chính con người cùng với những công cụ do nó chế tạo ra sẽ quyết định bộ mặt xã hội quyết định thành công của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Do nhận thức tầm quan trọng của vấn đề con người đặc biệt là vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước ta hiện nay nên em đã chọn đề tài tiểu luận. "Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con ngườivà vấn đề xây dung con người trong sự nghiệp cong nghiệp hoá - hiên đại hoá ở nước ta” B. Nội dung I. Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin về con người 1. Quan điểm của các nhà trước Mac về con người Vấn đề con người theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ nội dung nghiên cứu các khoa học xã hội và nhân văn.Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã tong tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc bản chất con người.Trước Các mac vấn đề bản chất con người vẫn chưa được giải đáp một cách thực sự khoa học.Không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan siêu hình cũng không nhận thức đúng bản chất con người. Con người từ đâu sinh ra? í nghĩa cuộc sống con người là gì? trong mỗi thời đại lịch sử con người quan hệ với tự nhiên và với đồng loại như thế nào? vì đâu ở mỗi con người mỗi cộng đồng người có những nết độc đáo về tư tưởng tình cảm tâm lý tính cách nghị lực tài năng? con người có thể làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình hay không? côn người phải làm gì để xứng đáng với con người. Đó là những vấn đề chung nhất cơ bản nhất mà các học thuyết triết học từ cổ đại đến nay đã đặt ra và giải đáp bằng những cách khác nhau Từ trong buổi sơ khai của mình do hạn chế về nhận thức con người sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên và đã thờ trời thờ đất, thờ núi sông,muông thú nhiều lúc đã coi những thứ đó là nguồn gốc của tổ tiên mình.Rồi dần dần con người bắt đầu tìm hiểu nguồn gốc của mình và có những ý thức ban đầu về sức mạnh của bản thân mình.Nói chung các tôn giáo đều quan niệm con người do thần thánh thượng đế sinh ra, cuộc sống con người do đấng tối cao an bài sắp đặt.Giáo lý kito quan niệm con người về bản chất là kẻ có tội.Con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn.Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì còn lại,con người phải cứu lấy linh hồncủa mình linh hồn là phần cao quí của con người thể xác là phần thấp hèn vì vậy người ta phải chăm lo cho linh hồn.Có những trào lưu triết học duy tâm khong giải thích nguồn gốc con người từ thời thần thánh hoặc từ con vật linh thiêngnào hoạt động đã giải thích không kém phần bí hiểm.Theo Hêghen ý niệm tuyệt đối tự tha hoá thành tự nhiên con người.Các bí hiểm của những tác động cũng phần nào khác so với những từ thái, cực, đạo, khí ở phương đôngđược coi như nguồn gốc sinh ra vũ trụ và con người. Song Hêghen cũng là người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra qui luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân đồng thời Heghen cũng đẫ nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát qui luật cơ bản của quá trình đó. ở những nước chụi ảnh hưởng của khổng giáo, phật giáo và lão giáo triết học cũng giải thích nguồn gốc con người hoặc từ một đấng thần linh tối cao hoặc một lực lượng thần bí đã nói ở trên. - Theo mạnh tử con người sinh ra vốn là tốt do điều kiện sống tác động vào mà trở thành người tốt kẻ xấu. Khác với Mạnh tử,Tuân tử lại cho rằng con người sinh ra vốn ác nhưng có thể cải biến phải chống lại cái ác thì con người mới tốt được Các nhà duy vật pháp thế kỷ 18 và Phoi ơ bắc nhà duy vật lớn trong triết học cổ điển Đức đều phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm thần bí và tìm cách giải thích nguồn gốc bản chất con người theo quan điểm duy vật.Với sự ra đời của thuyết Đacuyn về sự tiến hoá của các loài sinh vật các nhà triết học duy vật trên đã chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh của con người.”Không phải chúa tạo ra con người theo hình ảnh của chúa mà chính con người đẫ tạo ra chúa theo hình ảnh của con người”.Lời nói này của Phoi ơ bắc được Mac và Anghên đánh giá cao khi hai ông nói về vai trò của các nhà duy vật trong việc phê phán những quan điểm duy tâm thần bí về nguồn gốc con người. Song Phoi ơ bắc đã không gữ được quan điểm duy vật của mình khi phân tích những vấn đề về bản chất con người, về lịch sử xã hội loài người.Phoi ơ bắc xem xét con người tách rời với hoạt động thực tiễn trong điều kiện lịch sử nhất định. Tóm lại các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những thức lý luận xem xét con người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con người trừu twongj tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng sinh học tuy nhiên họ còn nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người. 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin về con người Chủ nhĩa Mac đã kế thừa, khắc phục và phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học thuyết trước đây để đi tới quan niệm về con người hiện thực,con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực, con vừa là sản phẩm của tự nhiên của xã hội đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên. Theo chủ nghĩa Mac-Lênin con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh và mặt xã hội của nó.Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật.Do vậy nhiều qui luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Con người vốn là một sinh vật nhưng lại phân biệt với các sinh vật khác.Do đó để tồn tại con người cũng phải ăn phải uống…điều đó giải thích vì sao Mac cho rằng con người trước hết phải ăn phải mặc, ở rồi mới làm chính trị nhưng chỉ có”con người là tổng hoà các quan hệ xã hội” mà thực ra quan điểm của Mac là một quan điểm toàn diên. Mác và Anghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học đi trước rằng con người là một bộ phận của giới tự nhiên là một động vật xã hội. Nhưng khác với họ Mac –Anghen xem xét mặt tự nhiên của con người như ăn ngủ đi lại yêu thích…không còn hoàn toàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hoá, Mác viết”bản chất của con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hoà của những mỗi quan hệ xã hội”.Con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mac nhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống với con người. Mac đã chỉ ra sự khác biệt đó ở nhiều chỗ như chỉ ra con người tự sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình. Đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể con người quết định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hạot của mình như thế con người đã gián tiếp sản xuất chính đời sống vật chất của mình, con người biến đổi tự nhiên theo qui luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật. Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mac về con người. Khi Các Mac nói”trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội” Mac hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố và đặc sinh của con người. Ông chỉ đối lập luận điểm con người đơn thuần như một phần của giới tự nhiên còn bỏ qua không nói gì đến mặt xã hội của con người. Không có con người trừu tượng mà chỉ có con người sống hoạt động trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất định, trong những điều kiện nhất định. Chỉ trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể đó con người mới bộc lộ và thực hiện được bản chất thực sự của mình. Tư duy con người phát triển trong hoạt giao tiếp xã hội. Trước hết là trong hoạt động lao động sản xuất, con ngời không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà hơn nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử của xã hội loài người. Từ quan niệm đó Mac khẳng định sự phất triển của lực lượng sản xuất xã hội có ý nghĩa là sự phát triển phong phú bản chất con người. Mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện nâng cao năng lực phẩm giá con người, giải phóng con người để con người được sống với cuộc sống đích thực. Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mac thực chất của quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì loài người vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho con người, phát triển con người toàn diện và giải phóng con người theo Anghen là đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Ngày nay quan niệm của Mac về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát của con người làm thước đo chung càng được khẳng định, loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy những biến động xã hội đang phát triển một cách đa dạng, phức tạp, chính sự phức tạp đó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước, các châu lục. Lịch sử phát triển của xã hội đã tồn tại nhiều giai cấp song chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp đáp ứng đầy đủ mọi qui luật của cuộc sống và đó cũng chính là những lý do tại sao Mac chọn giai cấp vô sản để nghiên cứu. Trong đó Mac tập trung nghiên cứu con người vô sản là chủ yếu. Với Mac người vô sản là người tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới có sứ mệnh và hoàn toàn có khả năng giải phóng mình, giải phóng xã hội để xây dung xã hội mới tốt đẹp hơn. 3. Vai trò của quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về con người trong đời sống xã hội Đảng và nhà nước ta đã và đang xây dung, phát triển đất nước toàn diện về nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược con người. Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư tưởng và chủ nghĩa Mac – Lênin làm nền tảng. Cũng như trên thế giới. ở nước ta chiến lược con người có một ý nghĩa rất quan trọng và để phát triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người đúng đắn không để con người đi lệch tư tưởng. Trong đới sống xã hội thực tiễn trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo của chủ nghĩa Mac – Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương đảng khoá Vii đề ra nghị quyết về việc phát triển con người Việt nam toàn diện với tư cách ‘ động lực của sự nghiệp xây dung xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Và nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Viii của đảng đã khẳng định:” Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước”. Các nhà tư tưởng đã xuyên tạc chủ nghĩa Mac cho rằng đó là”chủ nghĩa không có con người” thực tế thì chủ nghĩa Mac là một chỉnh thể thống nhất của ba bộ phận triết học nghiên cứu các qui luật của thế giới giúp ta hiểu bản chất mối quan hệ tự nhiên – xã hội – con người – chính trị kinh tế, vạch ra qui luật đi lên của xã hội. Học thuyết đó không chỉ chứng minh bản chất của con người “ tổng hoà các quan hệ xã hội “ và bản tính con người “ luôn vươn tới sự hoàn thiện “ mà còn vạch hướng đưa con người đi đúng bản chất và bản tính của mình, giải phóng xoá bỏ sự tha hoá tạo điều kiện phát huy mọi sức mạnh bản chất con người. Chỉ có chủ nghĩa Mac – Lênin mới có thể vạch rõ được hướng đi đúng cho con đường đi lên xã hộ chủ nghĩa ở Việt nam, thực hiện ý chí độc lập tự do cho con người Việt nam điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mac khong thể áp dụng được và chính chủ nghĩa Mac – Lênin đx làm thay đổi trở thành hê tư tưởng chính thống của toàn xã hội. Với sức mạnh có tính khoa học học thuyết Mac – Lênin đã vạch rõ yếu tố phi khoa học phi nhân đạo, các loại thế giới quan nhân sinh quan sai lệch mà trước đó đã làm mai một trí tuệ tính tích cực trong con người của cac shệ tư tưởng truyền thống. Mặt khác chủ nghĩa Mac –Lênin còn thể hện rõ tính ưưu việt trong con người đối với các luồng tư tưởng tư sản ngoại nhập của phương tây và các trào tư tưởng tư sản hiện đại đang làm lệch hướng đi của những con người chân chính trong điều kiện đới sống vật chất khó khăn. Nếu như không có chủ ngghĩa Mac – Lênin xã hội Việt nam phát triển hơn đó là tư tưởng của những người thiếu hiểu biết về một xã hội tiến bộ luôn coi cái trớc mắt mình là những thứ vô giá trị mà chỉ chạy theo trào lưu. Điều đáng trách hơn là họ cho rằng văn hoá Việt nam sẽ phong phú hơn đặc sắc hơn. Thực tế từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mac – Lênin xã hội Việt nam như được tiếp thêm sức mạnh, phat striển có khoa học hơn ở khía cạnh nào đó trình độ dân trí trình độ năng lực văn hoá nghệ thuật … con người Việt nam không thua kém con người của các nước văn minh khác. Xây dung chủ nghĩa xã hội là xây dựng được một xã hội mà ở đó có đủ điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện trong thực tế nguyên tắc” sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Và ở đất nước ta một đất nước đang còn nghèo nàn thì việc phát triển yếu tố con người là một vấn đề mà đảng ta đã xác định đó là vấn đề then chốt cho sự phát triển kinh tế đất nước lấy chủ nghĩ Mac – Lênin là kim chỉ man cho mọi hoạt động. Chúng ta đẫ có những đổi mới rõ rệt. Sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, việc mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước việc mở cửa và phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế văn hoá, chính trị. Trên thế giới sự biến đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế sự phát triển vũ bão của cuộc cánh mạng khoa học công nghệ điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ nghĩa Mac- Lênin một chách khoa học hợp lý và sáng tạo để đáp ứng những đòi hỏi của xã hội mới II. Vấn đề xây dựng con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta 1. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá Trước năm 1986 tình hình kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn, sản xuất trì trệ lạm phát tăng nhanh, thiếu công ăn việc làm gay gắt đời sống nhân dân vất vả nghèo khổ, lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng và sự điều hành của nhà nước giảm sút Muốn giải thoát khỏi nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế và công nghệ.kéo theo nhiều nguy cơ khác đất nước phải phát huy được các khả năng và cơ hội mới để phát triển với nhịp độ cao hơn, bền vững và có hiệu quả hơn. Điều đó chỉ có thể thực hiện được thông qua quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suet lao động xã hội cao. Đó chính là quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Công nghiệh hoá là quá trình chuyển một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền kinh tế công nghiệp phát triển. Về thực chất công nghiệp hoá chính là quá trình chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí hoá trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hiện đại hoá là quá trình sử dụng phổ biến khoa học kỹ thuật công nghệ hiên đại phương pháp sản xuất tiên tiến trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình chuyển nền kinh tế từ việc sử dụng kỹ thuật lao động thủ công năng suất thấp là phổ biến sang việc sử dụng rộng rãi khoa học công nghệ những phương pháp sản xuất hiện đại là phổ biến trong nền kinh tế quốc dân. Về thực chất công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là kết hợp quá trình phát triển tuần tự với sự phát triển nhảy vọt “ đi tắt đón đầu”. Đại hội lần thứ Viii của đảng cộng sản Việt nam xuất phát từ nguyện vọng và ý chí của nhân dân Việt nam từ điều kiện và khả năng thực tế của đất nước traong bối cảnh và xu thế của thời đại ngày nay đã khẳng quyết tâm phấn đấu đưa đất nước Việt nam trở thành một nước công nghiệp vào khoảng năm 2020. Đến lúc đó lực lượng sản xuất sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP năng suất lao động xã hội cao hơn nhiều so với hiện nay GDP tăng từ 8 – 10 lần so với năm 1990 với tỷ lệ tích luỹ tăng nhanh hơn quĩ tiêu dùng. Quan hệ sản xuất với chế độ sở hữu cơ chế quản lý và chế độ phân phối phù hợp với sự phát triển của lượng sản xuất, phát huy được các nguồn lực tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực hiện công bằng xã hội nhân dân có đời sống vật chất đầy đủ có mức hưởng thụ văn hoá khá, có quan hệ xã hội lành mạnh lối sống văn minh gia đình hạnh phúc để đạt được điều đó thì công nghiệp hoá hiện đại hoá là con đường duy nhất. Đó chính là tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta 2. Công nghiệp hoá hiện đại hoá và một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng con người Việt nam hiện nay a. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá - Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá Mục tiêu xây dung chủ nghĩa xã hội ở Việt nam như đảng ta chỉ rõ là tạo ra một xã hội mà trong đó con người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước, mmột xã hội của dân do dân và vì dân. Mục tiêu cho thấy sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội phải hướng tới con người vì tự do và hạnh phúc của con người. Quá trình xây dung con người Việt nam hiện đại cũng là quá trình tạo ra động lực cho xã hội phát triển. Chính việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá là nhằm xây dựng con người mới con người Việt nam hiện đại Con người vừa là chủ thể của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là yếu tố hàng đầu yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất xã hội mà nó còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lich sử của mình. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá cá nhân vừa là sản phẩm vừa là người sáng tạo ra nội dung các quan hệ xã hội. Vì vậy chúng ta phỉ tạo mọi điều kiện thu hút tối đa quần chúng tham gia vào hoạt động cách mạng đấu tranh cải tạo xã hội, xây dung xã hội mới. Việc xây dung con người Việt nam hiện đại có phẩm chất năng lực nhất thiết phải được coi là yêu cầu cấp bách trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá Phát huy nguồn lực con người – Vấn đề chiến lược trong quá trình công nghiệp hoá hịên đại hoá Việc phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay là một đòi hỏi cấp bách đồng thời là vấn đề có tính chiến lược trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá vì: + Người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã họi chủ nghĩa thì chất lượng của người lao động là nhân tố quyết định. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Viii của đảng đã khẳng định “ nâng cao dân trí bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt nam là nhân tố quyýet định thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước”. + Thời đại ngày nay là thời đại của cách mạng khoa học và công nghệ. Trình đọ dân trí và tiềm lực khoa học công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Vì vậy có thể sự lạc hậu về giáo dục đào tạo sẽ phải trả giá đắt trong cuộc chạy đua trong thế kỷ 21. Tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá chúng ta ngày càng nhận rõ rằng trí tuệ con người là nguồn tài nguyên quí nhất quốc gia. b. Những yêu cầu của việc xây dựng con người Việt nam đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước - Vài nét về con người Việt nam truyền thống và hiện đại Lịch sử loài người là lịch sử các nền văn minh, văn hoá gắn liền với lịch sử phát triển con người. Vấn đề con người trước hết là vấn đề thực tiễn giữ vị trí trung tâm của mọi toạ độ của sự tồn tại khách quan trên hành tinh chúng ta. Vấn đề con người cũng là vấn đề lý luận xã hội và nhân văn kinh tế quản lý và trong một chừng mực nhất định cả với kỹ thuật và công nghệ. Con người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị là thước đo của mọi bậc thang giá trị. Mỗi thời đại mới đều được chuẩn bị tập trung vào vấn đề con người chủ thể của lịch sử,chủ thể của mọi quá trình biến đổi xã hội. Thời kỳ đổi mới ở nước ta cũng vậy “ chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng con ngưòi vì đó là vốn quí nhất. Cuộc chiến đấu chiến thắng của dân tộc việt nam trong sự nghiệp chống mỹ cứu nước cũng như trong công cuộc xây dung chủ nghĩa xã hội chung qui là thắng lợi của con người’ ( Phạm văn Đồng) Công cuộc đổi mới đất nước một lần nữa đặt ra bao vấn đề mới trong việc nghiên cứu con người. Mục tiêu của chúng ta là động viên mạnh mẽ hơn hiệu quả hơn các tiềm năng con người và tiến trình đưa Việt nam đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp mở ra những khả năng mới để con người được hưởng tự do hạnh phúc trong một đất nước văn minh dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Về giá trị truyền thống của cộng đồng các dân tộc ở việt nam và phẩm chất con người Việt nam là vấn đề có lịch sử đã được nghiên cứu từ lâu ; Từ kháng chiến chống Tần thế kỷ iii trước công nguyên đến kháng chiến chống Mỹ giành độc lập thống hoà bình Việt nam đã trả qua hàng thăm cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước . Thời gia chống ngoại xâm và đô hộ nước ngoài lên đến 12 thế kỷ trong 27 thế kỷ tồn tại và phát triển nhà nước Việt nam. Sự tồn tại và phát triển ấy gắn lion với quá trình liên kết cộng đồng nhà, làng, nước. Hệ thống ccấu trúc nhà, làng, nước là cơ sở của sự hình thành và phát triển các giá trị truyền thống của cộng đồng các dân tộc sống trong lãnh thổ Việt nam. Cốt lõi của cái giá trị truyền thống là đạo đức Việt nam phẩm chất nhan cách con người Việt nam. Con người Việt nam trải qua bao thăng trầm lịch sử khó khăn và thuận lợi thiên nhiên, cuộc sống gian truân và đấu tranh anh dũng đã lấy tinh thần yêu nước làm cốt lõi của nhân phẩm. Theo tinh thần vì nghĩa suốtt bao đời nay vẫn là một nội dung cơ bản nhất của đạo đức Việt nam hết sức coi trọng tôn sùng con người vì nghĩa, từ nghĩa lớn vì dân vì nước đến tình nghiã anh em bà con bạn bè. Đây là nét nổi bật trong tinh thần Việt nam và thực sự là giá trị truyền thống hết sức quí báu đối với phát triển con người, phát triển đất nước. Đại hội Vi của đảng cộng sản Việt nam (1986) đưa ra đường lối đổi mới đất nước đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân tố con người, phát huy yếu tố con người gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, lấy sự quan tâm đến con người và thái độ tôn trọng lẫn nhau là một tiêu chuủan đạo đức trong mọi hoạt động kinh tế văn hoá xã hội. Trong các phẩm chất của con người đặc biệt nhấn mạnh sức sáng tạo tài năng nhiệt tình lao động và năng suất lao động, việc làm thu nhập trật tự kỷ cương tôn trọng và đảm bảo các quyền công dân, chú ý đến tính cộng đồng tính đa dạng và bản sắc dân tộc độc đáo tính thống nhất dân tộc, đường lối đổi mới đem lại bao nhiêu thành tựu tốt đẹp. Kể từ đại hội đảng Vi của đảng coi con người là mục tiêu là động lực phát triển xã hội được đảng ta nhấn mạnh đến nay việc nâng cao chỉ số phát triển con người (HDi) đã được đảng ta ghi rõ trong một số văn kiện của đảng Nhân dân Việt nam đảng và nhà nước ta trong suốt mấy thập kỷ qua nhất là mấy năm nay đặc biệt hội nghị lần thứ tư (1993) ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt nam khoá Vii đã khẳng định một lần nữa” những giá trị lớn và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá mọi nền văn minh của các quốc gia. Hướng bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt nam là không ngừng gia tăng tính tự giác năng động tự chủ phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân kết hợp sức của cả cộng đồng, con người phát triển cao về trí tuệ cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội – tăng trưởng nguồn lực con ngưòi gắn lion với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc “. Những yêu cầu của việc xây dựng con người Việt nam đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Thế giới đang biến động không ngừng, cuộc canh tranh kinh tế thương mại khoa học công nghệ đang diẽn ra hết sức gay gắt con người Vệt nam đi vào thế kỷ 21 trong bối cảnh chung ấy sự phát triển theo kinh tế thị trường công nghiệp hoá hiện đại hoá theo kiểu đi tắt đón đường nhất thiết phải gắn liền với phát triển con người phát huy nguồn lực trí tuệ và sưc mạnh tinh thần của người Việt nam và lấy đó lầm nhân tố yếu tố quyết định của sự nghiệp đổi mới theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá.Vì vậy việc xây dung con người việt nam hiện nay không thể dừng ở những nguyên tắc chung,đặc điểm chung mà phải xem xét lại các quá trình hình thành mục tiêu này. Chúng ta phải có nhiệm vụ khám phá ra xác định đặc điểm riêng mà con người Việt nam hiện nay.Đó là yêu cầu trước hết của việc xây dựng con người việt nam đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoa hiện đại hoá đất nước 3. Thực trạng xây dựng con người Việt nam thời gian qua và những vấn đề đặt ra a. Những thế mạnh của nguồn nhân lực Việt nam Nước ta có nguồn lao động tương đối dồi dào (59% dân số trong tuổi lao động). Nhân dân vốn có truyền thống yêu nước cần cù thông minh sáng tạo trình độ học vấn ngày càng được nâng cao và có khả năng tiếp thu nhanh khoa học công nghệ. Do thực hiện tốt các chương trình giáo dục phổ cập tiểu học và xoá mù chữ nên số người không biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học ngày càng giảm. Năm 1996 tỷ lệ này là 26,6% năm1997 là 25,36% năm 1998 là 22,36%. Số người tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông không ngừng tăng. Trong đó tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học phổ thông tăng rất nhanh năm 1996 chiếm 13,48% tổng số người trong độ tuổi lao động, năm 1997 là 14,13% năm 1998 là 15,99%. Trong nhiều năm qua mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn chúng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ xay dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ đổi mới. Tính đến thời điểm 1-4-1999 nước ta có gần 1000000 người tốt nghiệp đại học và cao đẳng. Đội ngũ trí thức có trình độ cao ngày càng tăng. Tính đến 1-4-1999 nước ta có 807 giáo sư 591 người có học vị tiến sỹ khoa học 11127 tiến sỹ và hơn 10000 thạc sỹ. Đội ngũ khoa học và công nghệ đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu hướng vào phục vụ quốc tế dân sinh. Từ năm 1986 đến năm 2000 đã có 87 chương trình nghiên cứu khoa học với hàng nghìn đề tài cấp nhà nước được triển khai để phục vụ sản xuất phát triển kinh tế, nâng cao năng lực quốc phòng an ninh. Đó là chưa kể đến hàng choc ngàn các đề tài khác được tiến hành ở các viện nghiên cứu và các trường đại học gắn với những vấn đề kinh tế xã hội. Hiện nay có hơn 250.000 cán bộ khoa học và công nghệ đang trực tiếp tham gia sản xuất trong các khu vực kinh tế vừa không ngừng phổ biến các tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong con ngưòi và nông dân vừa trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Tính đến năm 1999 cả nước có 6000 doanh nghiệp nhà nước hơn 1000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 23000 doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong số 137 tổng giám đốc và các tổng công ty lớn đã có tới 130 người có tình độ đạ học và sau đại học. Trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật trình độ học vấn đang đượic nâng cao khá nhanh. Theo số liệu điều tra của tổng liên đoàn lao động Việt nam thì năm 1976 có 29,2% công nhân có học vấn phổ thông trung học, năm 1985 là 42,54%, cuối năm 1999 là 55%. Đây là yếu tố cơ bản để con người tiếp cận công nghệ mới và nâng cao năng suất lao động. Trong nguồn nhân lực phải kể đến hàng choc viên chức đang làm việc trong bộ máy hành chính và sự nghiệp quốc gia. Hơn 100.000 các công chức trong các cơ quan, hơn 800.000 giáo viên ở các bậc học trong đó có 28035 cán bộ giảng dạy đại học và cao đẳng, 15000 giáo viên các trường trung học chuyên nghiệp và trường công nhân kỹ thuật, số giáo viên ở phổ thông trung học là 58000 người, trung học cơ sở là 195100 ngưòi tiều học là 336700 người, mần non là 172400 người (Minh hải – gải pháp nào cho thực trạng lao động dôi dư ở Việt nam – báo giáo dục thòi đại số 103-2000) gần 200000 bác sỹ, y sỹ, dược sỹ, lương y và nhân viên y tế. Nguồn nhân lực trên có vai trò hết sức quan trọng đối với việc cải thiện nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Nói đén nguồn nhân lực phải kể đến lực lượng cán bộ lãnh đạo và quản lý xã hội. Chất lượng của đội ngũ này có ý nghĩa quyết định tới phương hướng và tốc độ phát triển của đất nước trong giai đoạn tới. Theo báo cáo khoa học đề tài khoa học xã hội 0309 quốc hội khoá X có 450 đại biểu trong đó có 411 người có trình độ đại học trở lên (71,33%). Ban chấp hành trung ương đảng khoá Viii có 170 uỷ viên, tỷ lệ có bằng đại học và sau đại học là 84,7%, 15,4% các trưởng ban trung ương đảng và 36,8% vị bộ trưởng có học vị tiến sỹ khoa học hay tiến sỹ. Tỷ lệ ấy ở các phó ban trung ương đảng và thứ trưởng là 31,3% và 38%. Trên 50% cán bộ chủ chốt ở các quận huyện có trình độ đại học và cao đẳng. Trên mặt trận văn hoá hiện nay nước ta có gần 20000 hội viên các hội văn hoá và nghệ thuật ở trung ương và địa phương trong đó có hàng nghìn người chuyên sáng tác và phổ biến nghệ thuật. Ngoài ra còn trên 7000 nhà báo đang hoạt động cho 400 tờ báo và tạp chí b. Hạn chế của nguồn nhân lực Việt nam Bên cạnh những mặt mạnh nguồn nhân lực nước ta còn có nhiều hạn chế. Kết cấu lao động của nước ta hiện nay là nông nghiệp chiếm 63,6% công nghiệp là 12,43% dịch vụ là 22,39%. Với kết cấu lao động như trên nền kinh tế của nước ta rất khó có sự phát triển nhảy vọt. Trong khi đó theo báo cáo của OECD ( tổ chức hợp tác phát triển kinh tế ) trong năm 1995 một số nước cong nghiệp phát triển trên thế giới có kết cấu lao động như sau nông nghiệp : 4%, công nghiệp : 26%, dịch vụ: 70%. Con số tương ứng ở Mỹ là 3%, 24%, 73%, ở Nhật là 6%, 34%, 60%, ở pháp là 5%, 27%, 68%, ở Đức là 35%, 38%, 69%. Tính từ năm 1996 đến năm 1999 lao động công nghiệp chỉ tăng trung bình 6,52% / năm, ngành dịch vụ tăng 7,64% và nông nghiệp chỉ giảm có 2,3%/ năm. Điều này chứng tỏ nền kinh tế của chúng ta sự bứt phá trong thay đổi cơ cáu sản xuất. Học vấn của người lao động còn thấp 52% mới có trình độ tiểu học trở xuống. Tính đến 1-1-1998 đội ngũ lao động kỹ thuật của cả nước chỉ có gần 5000000 lao động chiếm 13,11% tổng số lực lượng lao động. Phần lớn lực lượng lao động kỹ thuật đang làm việc trong các cơ sở sản xuất có công nghệ cũ lạc hậu, năng suất thấp. Số lao động hoặc thiếu việc làm hoặc làm không đúng nghề đào tạo, trình độ đào tạo chiếm một tỷ lệ khá cao. Trong số 5740 doanh nghiệp nhà nước có 1780000 người thiếu việc làm trong đó ngành than chiếm 30%, ngành sản xuất lương thực miền bắc chiếm 28%, ngành thép chiếm 12%. Cơ cấu đào tạo của lực lượng lao động ở nước ta còn nhiều bất hợp lý. Đơn cử như cơ cấu lao động kỹ thuật ở nước ta hiện nay là 1 đại học/1,5 trung cấp/3,5 công nhân trong khi đó ở một số nước có nền sản xuất phát triển hơn có cơ cấu tương ứng là 1/4/10. Hiện nay trong nước có quan điểm cho rằng để bắt kịp nền kinh tế tri thức cần phải phát triển số lượng cán bộ có trình độ đại học. Vậy cơ cấu lao động nước ta là hợp lý. Nhưng theo giáo sư viện sỹ- tiến sỹ khoa học Phạm Minh Hạc viện trưởng viện nghiên cứu con người nước ta với cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn thấp lại đi sau khá xa trong việc tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá do đó cần phải thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá một cách tuần tự và có những bước nhảy vọt nhằm “đi tắt đón đầu “. Vậy nên có cươ cấu lao động như các nước phát triển để có một nền tảng vững chắc để tiến vào nền kinh tế tri thức. Tính đến năm 1996 số con người đào tạo bằng 1/3 số cán bộ kỹ thuật từ trung họ chuyên nghiệp đến đại học. Năm học 1995- 1996 số sinh viên đại học tăng 2,7 lần nhưng học sinh trung học chuyên nghiệp giảm 19%, học nghề giảm 30%. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong khi đó đào tạo đại học và cao đẳng những năm gần đây vẫn gây ra những bất hợp lý mới. Có đến 40% số sinh viên theo học đại học và cao đẳng thuộc nhóm ngành kinh tế, luật, trong khi đó một số ngành quan trọng lại chiếm tỷ lệ còn thấp như các ngành kỹ thuật chiếm 14,69%, nông lâm ngư nghiệp chiếm 5,26%, sư phạm 5, 52% dẫn đến tình trạng gia tăng số sinh viên tốt nghiệp không có việc làm hay làm không đúng ngành nghề đào tạo ggây lãng phí cho nhà nước và cá nhân. Tình trạng ngành thừa ngành thiếu ảnh hưởng đến công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Đào tạo đại học và cao đẳng chưa cao thiếu thực tế, ít được tiếp xúc với công nghẹ hiện đại hạn chế trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.Phần lớn đọi ngũ tri thức có trình độ cao giáo sư,phó giáo sư và cán bộ đầu ngành tuổi đã cao (tuổi giáo sư từ 56 trở lên chiếm 85,25%,phó giáo sư chiếm 49,16% ) trong khi lực lượng kế cận còn mỏng chưa đủ chất lượng và số lượng.Công tác đào tạo trong đó có đào tạo đại học chưa xây dựng đượchệ thống chuẩn mực chất lượng và quy chế đánh giá chất lượng không thích hợp.Hiện tượng làm bằng giả chạy điểm, thuê viết luận án, mua bằng cấp…vẫn còn tồn tại và là những nhức nhối xã hội. Công tác quản lý còn nhiều sơ hở lỏng lẻo thiếu những quy chế chặt chẽ nên có khá đông cán bộ cán bộ quản lý trongg học vấn và trình đọ chuyên môn kemsong lại được hợp thức háo về bằng cấp và học vị đã trở thành lực cản cho sự phát triển dất nước. Dân số nước ta phát triển không đều, với 80% ở nông thôn nhưng đội ngũ cán bộ có trình độ đai học cao đẳng trở nên phần lớn đang làm việc tại các cơ quan trnng ương hoặc dồn nén ở khu vực đô thị.ở khu vực nông thôn nhất là ỏ khu vực vùng sâu vùng xa miền núi trình độ dân trí còn thấp kém kinh tế khó khăn lại còn thiếu nhiều cán bộ khoa học công nghệ.Đặc biệt ở những vùng dân tộc thiểu số thiếu trầm trọng cán bộ có trình độ học vấn cao(50% các dân tộc thiểu số không có người có học vị tiến sĩ khoa học).Hiện tượng này không những làm chậm sự phát triển của vùng này mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định về mặt kinh tế, chính trị văn hoá xã hội của đất nước. c. Nguyên nhân - Trên đây là những hạn chế của nguồn nhân lực của nước ta những hạn chế này bắt nguồn từ những nguyên nhân sau: Một là:Nước ta còn nghèo nàn,trình độ công nghệ còn lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, nông nghiệp còn chiếm tỉ trọng cao trong ngành kinh tế, hậu quả chiến tranh còn nặng nề. -- Phát triển kinh tế giữa các vùng còn chưa đều --Chiíen lược phát triển kinh tế xã hội giáo dục còn chưa đồng bộ, các nghành nông nghiệp,khoa học tự nhiên,kĩ thuật cần nhiều cán bộ nhưng đào tạo ít --Chhát lượng giáo dục đào tạo còn kém chưa cập nhật công nghệ mới.Nội dung đào tạo nặng nề về lý thuyết nhưng thiếu thực hành cơ sở vật chất thiết bịcòn nghèo nàn lạc hậu. Hơn nữa công tác quản lý đào tạo chậm đổi mới thích nghi với yêu cầu mới là cản trở lớn tron đào tạo nguồn nhân lực -- Giáo dục đào tạo nằm trong thế độc lập mà thực ra bả chất của giáo dục đào tạo là phải phục vụ nhu cầu xã hội trên cơ sở nghiên cứu phân tích nhu cầu của sản xuất và đời sống -- Nhiều chủ trương chính sách của đảng và nhà nước về chính sách phát triển, sử dụng và quản lý nguồn nhân lực chưa vào cuộc sống --Chế độ tuyển dụng đề bạt đãi ngộ của các cơ quan doanh nghiệp còn chưa hợp lý chưa thúc đẩy người lao động tích cực phát triển năng lực của mình --Nhiều mặt trái của nền kinh tế thị trường( tệ nạn xã hội lôi sống hưởng thụ đã làm đạo đức của một bộ phận nhân lực giảm sút tha hoá biến chất ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực III. Phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng con người Việt nam 1. Phương hướng --Phải coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.Mọi sự phất triển của xã hội ta trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế xã hội,văn hoá đều do con người Việt nam thực hiện và đều vì sự phát triển con người Việt nam toàn diện.Con người mà xã hội ta cần đào tạo và phát triển phải là con người toàn diện.Chúng ta biết rằng hiện nay đảng và nhà nước đang quan tâm đến việc đào tạo con ngườivà sử dụng con người như thé nào vơi tính cách là nguồn lực hùng mạnh của đất nước.Trang nguồn nhân lực ấy chúng ta rất cần những con người chuyên môn hoá.Những con người chyuên môn hoá không có nghĩa là con người phát triển một chiều, con người chỉ dược phát triển một cách hạn hẹp trong sự hiểu biết về chuyên môn sự thành thạo về nghề nghiệp.Con người mà chúng ta đào tạo còn phải là con người phát triển cả về tài nmăng và đạo đức có quan hệ tốt đẹp giữa người với người, có đời sống tinh thần văn hoá ngày một cao và ngày một phong phú. - Đầu tư cho sự phát triển phụ nữ là đầu tư cho tương lai. Bởi vì người phụ nữ không chỉ là người lao động người công dân mà họ còn có chức năng làm vợ làm mẹ làm người chủ gia đình. Nâng cao chất lượng sống của người phụ nữ là tạo điều kiện cho họ làm tốt chức năng sinh sản, có khả năng sản sinh ra nòi giống tương lai khoẻ mạnh cường tráng hơn. Họ có điều kiện nuôi dưỡng co cái tốt hơn, phát triển toàn diện các mặt đức trí tài lực trở thành con người có nhân cách. Họ có thể chăm lo gia đình làm chức năng đơn vị kinh tế xã hội cơ sở, xây dựng tổ ấm gia đình cho,các thành viên, đem lại cho họ nguồn động viên an ủi và sự bảo đảm vững chắc về vật chất tinh thần, về an ninh cho sự phát triển mỗi con người. - Tập trung chăm sóc bồi dưỡng đào tạo phát huy sức mạnh của con người Việt nam thành lưc lượng lao động xã hội, lưc lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác, cạnh tranh trong kinh tế thi trường mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người và các dân tộc sống trên đất nước Việt nam phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực trong đó có bộ phận nhân tài trên nền dân trí với cốt lõi là nhân cách nhân phẩm đậm đà bản sắc dân tộc của từng người từng nhà cộng đồng giai cấp và cẩ dân tộc - Gắn liền chiến lược phát triển con người với chiến lược phát triển kinh tế xã hội Trên thế giới đặc biệt là ở những nước phát triển thấy rõ là cách mạng khoa học công nghệ tạo tiền đề cho sự dịch chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin, từ công nghệ bằng lực sang công nghệ cao, từ kinh tế quốc gia sang kinh tế khu vực và toàn cầu vì vậy ta cần phải có một đội ngũ cấn bộ có trình độ học vấn để tiếp thu những thành tựu khoa học thế giới áp dụng vào xây dựng nền kinh tế nước nhà để nước ta không bị thiệt hại, không bị phụ thuộc một chiều hay đơn thuần để nước ta không trở thành bãi thải của các sản phẩm công nghiệp lỗi thời. 2. Giải pháp Tiếp tục đổi mới sự nghiệp đào tạo giáo dục đào tạo, phải kiên quyyết nhanh chóng tăng nguồn đầu tư ngân sách hơn nữa cho giáo dục đào tạo. Đồng thời phải phân bổ nguồn ngân sách ấy một cách hơp lý giứa các cấp học, ngành học, giữa các vùng miền. +Giáo dục đào tạo kết hợp với khoa học, kỹ thuật công nghệ mới. Phải mau chóng làm cho khoa học công nghệ trở thành nền tảng của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá. Các trường đại học cao đăbngr và trung học chuyên nghiệp tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến công nghệ cao như báo cáo chính trị đại hội Viii đã chỉ ra. Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Đồng thời đặc biệt chú ý và có những chính sách phù hợp đối với việc phát hiện bồi dưỡng và sử dụng nguồn tài mau chóng tăng cường đọi ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao,từ các nghệ nhân làm nghề truyền thống đến các chuyên gia công nghệ cao. + Giáo dục đào tạo cần phải được đổi mới cả về nội dung lẫn phương pháp. Bởi nội dung đào tạo hiện nay còn nặng về lý thuyết nhưng thiếu thực hành. Trong giáo dục không chỉ chú ý đến chuyên môn mà còn phải kết hợp tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng đạo đức lòng yêu nước, đưa việc giảng dạy tư tưởng hồ chí minh và chủ nghĩa Mac – Lênin vào nhà trường phù hợp với tong bậc học. + Nhà nước cần đầu tư nghiên cứu khoa học nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục đào tạo, cân đối lại cơ cấu đào tạo, cơcấu ngành nghề, cơ cấu vùng mièn và dân tộc, phát triển những ngành mũi nhọn, chuẩn bị cho sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế xã hội. + Cần đào tạo có địa chỉ theo nhu cầu của các lĩnh vực cá ngành sản xuất để có lực lượng đồng đều ở các lĩnh vực các hệ thống xã hội trong cả nước. Hiện nay số người có học vấn cao giảm xuống thì số sinh viên tốt nghiệp đại học cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên do đó chúng ta cần nỗ lực trong việc xây dựng và sử dụng nguồn lao động hợp lý, phải có cơ chế sử dụng đãi ngộ thoả đáng đối với người có tài để họ có điều kiện cống hiến nhiều hơn cho đát nước + Trước sự tiến bộ và đổi mới nhanh chóng của công nghệ hiệnnđại việc đào tạo và đào tạo lại người lao động phải được coi là nhiệm vụ cấp thiết trong tong ngành, tong vùng, tong địa phương là vấn đề sống còn giúp người lao động thích nghi được với những công nghệ mới hiện đại Sử dụng tài nguyên con người một cách tốt nhất + Nâng cao chất lượng lao dộng phát huy năng lực tiềm ẩn ở mỗi con ngưòi + Sử dụng nguồn nhân lực một cách tốt nhất qua việc tao đủ việc làm cho người lao động, việc làm có năng suất có thu nhập khá, nguồn nhân lực được phân bổ hợp lý vào các ngành nghề khu vực kinh tế + Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách nâng cao chất lượng lao động, tôn tạo giá trị tài nguyên con người với các chương trình phát triển kinh tế xã hội của đát nước trước hết là kỹ thuật và tiến bộ koa học công nghệ + Tạo nên sự ủng hộ và tham gia tích cực của quần chúng đông đảo vào các chương trình dự án phát triển của quốc gia về kinh tế xã hội. Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng và quản lý của nhà nước đối với việc phát huy nhân tố con người Trong những năm đổi mới vừa qua đảng và nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, giải phóng con người và phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tuy nhiên đảng và nhà nước vẫn cần phải có những chủ trương chính sách và những giải pháp mới nhằm tác động động một cách tích cực vào việc xây dựng con người đáp ứng đươc các yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đó là : + Đảng và nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt chiến lược phát triển con người Việt nam theo yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế mới được ban hành thời gian qua đã đêm lại những kêt quả tích cực đó là : Trong khu vực kinh tế quốc doanh đã giảm bớt đươc tình trạng người chờ việc các quyết đinh về quản lý đối với kinh tế quốc doanh đã tạo moi trường pháp lý cho việc tỏ chức lại các xí nghiệp loại này, bố trí lại dây truyền sản xuất, bố trí lại lực lượng lao động. Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua đã mở ra những cơ họi tìm kiếm việc làm không chỉ cho số lao động dôi ra từ việc tổ chức lại kinh tế quốc doanh mà còn thu hút cả lực lượng lao động mới trong nền kinh tế. Tay nghề của lực lượng lao động xã hội do cơ chế cạnh tranh trong tìm kiếm việc làm và quyền tự do lựa chọn nghề học phù hợp với khả năng và sở thích của mình nên có phần đa dạng hơn và thích ứng hơn với đòi hỏi của sựi phong phú đa dạng hoá cá ngành nghề và hàng hoá dịch vụ trong xã hộ. Những điều trên đây cho thấy chính sách cởi mở và mở cửa hiện nay ngày càng trở nên thuân lợi và hấp dẫn, nhà nước nên tiếp tục phát huy. +Đảng và nhà nước cần có những chính sách đầu tư cho con người chính sách về giáo dục và đào tạo, chính sách sr dụng con người, chính sách đào tạo đãi ngộ và sử dụng nhân tài, chính sách đối với các nhà khoa học, chính sách tiền lương tiền thưởng phù hợp tạo điêù kiện thuận lợi để họ cống hiến cho đát nước nhiều hơn. + Phát huy dân chủ tăng cường phát chế, thực hiện công bằng xã hội Việc phát huy dân chủ của nhân dân là một trong những động lực để khơi dậy nhiệt tình cách mạng, phát huy tính chủ động sáng tạo của con người - đó là đặc điểm của con người trong xã hội mới. Việc phát huy quyền dân chủ phải gắn lion với việc tăng cường phát chế. Dân chủ không phải là hành động một cách tuỳ tiện mà phải tuân theo pháp luật. Vấn đề công bằng xã hội như một động lực của sự phát triển kinh tế xã hội cần được nghiên cứu một cách cơ bản hơn, đề ra được những tiêu chí phù hợp với thực tiễn, với xu thế của công cuộc đổi mới, góp phần giải quyết một số vấn đề quan trọng nảy sinh bởi sự phân hoá giàu nghèo. Vấn đề công bằng xã hội không chỉ dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động mà còn cần phải theo vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh và còn theo những cống hiến khác. C- Kết luận Công nghiệp hoá hiện đại hoá là con đường tất yếu duy nhất để đưa nước ta từ một nước kém phát triển đạt được những thành tựu to lớn cả về mặt kinh tế cũng như xã hội. Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá chúng ta phải biết tận dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực trong nước cũng như nước ngoài. Một trong những nguồn lực to lớn trong nước đó chính là nguồn nhân lực. Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò to lớn của con ngưòi Việt nam hiện nay : con người vừa mục tiêu vừa là động lực của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Việc phát triển con người lấy quan điểm của triết học Mác –Lênin có cơ sở nền tảng là một trong những chiến lược, nhiệm vụ cấp bách củ nước ta hiện nay. Bởi tiềm năng con người với trí tuệ và lao động dịnh hướng qui định sự tiến bộ của mỗi quốc gia. Hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới người lao đọng Việt nam đã được giải phóng tong bước khỏi sự ràng buộc của cơ chế cũ, phát huy quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo trong các hoạt động kinh tế xã hội tong bước thcj hiện mục tiêu “ dân giàu nước mạnh xã hội công bằng xã hội dân chủ văn minh”. D. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình triết học Mac- Lênin – Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2. Giáo trình kinh tế chính trị – Viện đại học mở hà nội 3. Có một Việt nam như thế đổi mới và phát triển – Giáo sư Trần Biên- Nhà xuất bản chính trị quốc gia 4. Nghiên cứu con người đối tượng và những hướng chủ yếu - Chủ biên GSVSTSKH – Phạm Minh Hạc – Nhà xuất bản khoa học xã hội 5. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 6. Nền kinh tế tri thức và yêu cầu - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 7. Nguyễn thanh : “ Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay “- Tạp chí triết học số 5 – 1996 8. Nguyễn Thị Phi Yến :” Tìm hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế “ - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 9. Vũ Thiện Vương :” Phát triển giáo dục đào tạo với tư cách điều kiện kiên quyết để phát huy nguồn lực con người. Thực trạng và giải pháp” - Tạp chí khoa học xã hội – số 3 – 2001 10. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII 11. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35604.doc
Tài liệu liên quan