Như vậy, việc phát triển nên kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan. Các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất (nền kinh tế), chứa đựng những khuynh hướng đối lập. Một mặt, chúng cạnh tranh, bài trừ, phủ định lẫn nhau; mặt khác, chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thâm nhập, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển thông qua hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên kết.
Chính vì vậy, trong điều hành, quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước cần quan tâm đến những mối liên hệ trong bản thân mỗi thành phần kinh tế, những mối liên hệ giữa các thành phần kinh tế với nhau; đồng thời phải xem xét kỹ những điều kiện cụ thể trong nước cũng như quốc tế để đề ra các chính sách, biện pháp tác động sao cho có hiệu quả nhất. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế hiện nay, yêu cầu đặt ra là phải đối xử thực sự bình đẳng với các thành phần kinh tế và tạo môi trường thuận lợi để chúng tồn tại và hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, cũng cần phải phân biệt các thành phần kinh tế (vì lịch sử hình thành và bản chất vốn có của nó) để đưa ra các biện pháp tác động phù hợp với từng thành phần kinh tế nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của chúng. Có như vậy việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN mới dem lại hiệu quả mong muốn.
23 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1822 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
a. Lời Nói đầu
2
b. nội dung
I. Sơ lược về phép biện chứng và nội dung quan điểm toàn diện
4
1. Sơ lược về phép biện chứng
4
2. Nội dung quan điểm toàn diện
5
II. Vận dụng quan điểm toàn diện vào việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
7
7
8
8
10
11
12
14
15
15
1. Quan điểm chung
2. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
2.1. Tính tất yếu khách quan của việc tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta
2.2. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế
2.2.1. Thành phần kinh tế Nhà nước
2.2.2. Thành phần kinh tế tập thể
2.2.3. Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước
2.2.4. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ
2.2.5. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
2.2.6. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
16
2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta
17
2.4. Những thành quả đạt được, những mặt còn hạn chế trong quá trình thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
18
2.4.1. Những thành quả đạt được
18
2.4.2. Những mặt còn hạn chế
19
III. Giải pháp khăc phục khó khăn và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa
20
C. kết luận
22
Danh mục tài liệu tham khảo
23
a. Lời nói đầu
Trước khi thực hiện đường lối đổi mới, do chủ quan, duy ý chí, và hạn chế về nhận thức ta chủ trương thu hẹp kinh tế hàng hoá và sử dụng kinh tế hiện vật là chủ yếu. Nền kinh tế được điều tiết bởi kế hoạch hoá tập trung, pháp lệnh của Nhà nước; quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị hạn chế, thu hẹp hoặc nếu có tồn tại cũng chỉ là hình thức; các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá không có đủ điều kiện để hoạt động và bị biến dạng; lưu thông hàng hoá và thị trường cũng bị hạn chế và thu hẹp; nền kinh tế bị khép kín ở từng địa phương và không có quan hệ với bên ngoài. Hậu quả là nền kinh tế bị kìm hãm và ngày càng tụt hậu, khủng hoảng kéo dài, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đứng trước bối cảnh đó, yêu cầu đổi mới đất nước mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, đặt ra ngày càng bức thiết.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần VI năm 1986, trên cơ sở quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể, Đảng ta đã đề ra chiến lược đổi mới đất nước, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm mà trước mắt là thực hiện bước quá độ để chuyển sang kinh tế hàng hoá. Tới Đại hội Đảng toàn quốc lần VII năm 1991, trên cơ sở đánh giá thực trạng đất nước những năm đầu đổi mới, Đảng ta đã đi tới quyết định: kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, từng bước hình thành và phát triển kinh tế thị trưòng theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Thực hiện đường lối đổi mới trong gần hai mươi năm qua đã từng bước đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, bắt đầu có tích luỹ nội bộ, kinh tế tăng trưởng nhanh, quốc phòng - an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, thế và lực của nước ta ngày càng được củng cố trên trường quốc tế. Những thành tựu đáng khích lệ đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn.
Mặc dù vậy, sức cạnh tranh của ta nhìn chung còn yếu, nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định; các yếu tố cần thiết để phát triển nền kinh tế thị trường còn thiếu và yếu; các biện pháp quản lý vĩ mô chưa đồng bộ và nhiều khi chồng chéo, kém hiệu quả.... Do đó việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất cần thiết. Chính vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài: "Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay" để nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới Tiến sỹ Lê Ngọc Thông vì những sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của tiến sỹ trong quá trình hoàn thành bài viết. Tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với những bạn cùng lớp và những cán bộ Trung tâm thông tin thư viện - Trường Đại học Kinh tế quốc dân vì những góp ý và sự giúp đỡ của họ.
Mặc dù đã rất cố gắng song do trình độ có hạn nên chắc hẳn trong bài viết này còn nhiều điều thiếu sót. Rất mong sự góp ý, chỉ bảo thêm của những ai quan tâm đến vấn đề này để tôi có thể tiếp tục hoàn thiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn.
b. nội dung
I. Sơ lược về phép biện chứng và nội dung quan điểm toàn diện
1. Sơ lược về phép biện chứng:
Phép biện chứng là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng trong nhiều triết học khác nhau của lịch sử triết học. Nó được xác định với hai tư cách là tư cách lý luận biện chứng và tư cách phương pháp biện chứng.
Với tư cách lý luận biện chứng, phép biện chứng được xác định là một hệ thống các quan điểm biện chứng, khái quát tính biện chứng của thế giới thành một hệ thống các nguyên lý, các quy luật biện chứng. Ph. Ănghen đã định nghĩa phép biện chứng một cách khái quát: "Phép biện chứng... là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy" (C. Mác và Ănghen toàn tập, Tập 20, tr. 201, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1994).
Với tư cách là phương pháp biện chứng, phép biện chứng được xác định là phương pháp luận triết học xem xét, phân tích các sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái của mối liên hệ phổ biến trong sự vận động và phát triển không ngừng của tự nhiên, xã hội và tư duy. Với tư cách đó, phương pháp biện chứng là hệ quả tất yếu và thống nhất với lý luận biện chứng, cũng tức là sự thống nhất giữa mặt thế giới quan và phương pháp luận triết học của phép biện chứng trong triết học.
Phép biện chứng có thể được xác lập trên lập trường chủ nghĩa duy vật hoặc trên lập trường chủ nghĩa duy tâm, từ đó tạo ra phép biện chứng duy vật hoặc phép biện chứng duy tâm.
Phép biện chứng đã có lịch sử phát triển hơn 2000 năm, với ba hình thức lịch sử: phép biện chứng cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật khoa học. Phép biện chứng duy vật khoa học là hình thái phát triển cao nhất của lịch sử phép biện chứng. C. Mác và Ph. Ănghen là những người đã giữ vai trò lịch sử sáng tạo ra phép biện chứng duy vật khoa học.
Phép biện chứng duy vật khoa học bao quát một lĩnh vực tri thức hết sức rộng lớn, nó vừa có tư cách lý luận triết học bao quát vừa đóng vai trò phương pháp luận triết học cơ bản, xuyên suốt mọi quá trình thực tiễn cách mạng sáng tạo, khoa học phát minh và ứng dụng triển khai khoa học công nghệ trong thời đại ngày nay. Xét theo nội dung cấu trúc cơ bản, phép biện chứng duy vật khoa học bao gồm hai nguyên lý cơ bản: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển; ba quy luật cơ bản: quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định; sáu cặp phạm trù cơ bản với tư cách là sáu quy luật không cơ bản của phép biện chứng: cặp phạm trù cái chung và cái riêng, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức, nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực. Trong đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đóng vai trò là nguyên lý xuất phát và nền tảng.
2. Nội dung Quan điểm toàn diện:
Quan điểm toàn diện là hệ quả tất yếu của sự vận dụng Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong hoạt động thực tế nhằm nhận thức và cải tạo hiện thực.
Mối liên hệ là sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo điều kiện, tiền đề cho nhau rồi giả định và chế ước lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng; trong đó có những mối liên hệ bao trùm ở cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; có những mối liên hệ chỉ có trong một lĩnh vực thậm chí chỉ tồn tại trong một sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ mang tính khách quan, phổ biến; nó quy định sự tồn tại, vận động của sự vật, hiện tượng.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khẳng định: mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến; và mối liên hệ phổ biến mang tính đa dạng, phức tạp về tính chất, sự thể hiện, vai trò và tác dụng của nó.
Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của chúng.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... Chúng ta cũng cần chú ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện nhất định để hiểu rõ bản chất của sự vật, hiện tượng và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý đến những mối liên hệ của sự vật ấy với những sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Định hướng XHCN trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới. Phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Vừa hình thành được cơ cấu đặc trưng cho xã hội mới. Quá trình chuyển hướng và đổi mới nền kinh tế theo định hướng XHCN là một nguyên tắc, một vấn đề chiến lược quan trọng nhất, cơ bản nhất của tư duy kinh tế mới của Đảng ta.
Để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại. Các phương án áp dụng trong đời sống thực tiễn kinh tế - xã hội không được dàn trải, chung chung, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Việc xác định các phương án trọng tâm, trọng điểm trong công tác thực tiễn quản lý kinh tế - xã hội bao giờ cũng xuất phát điểm trên cơ sở xác định được các mối liên hệ bên trong, cơ bản và tất yếu.
II. Vận dụng Quan điểm toàn diện vào việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
1. Quan điểm chung:
Vận dụng quan điểm toàn diện (và quan điểm lịch sử cụ thể) của phép biện chứng duy vật vào quá trình đổi mới ở nước ta, Đảng ta đã xác định phương châm rất cơ bản là phải đổi mới một cách toàn diện tất cả các lĩnh vực nhưng trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế: "Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục sự khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau của đời sống xã hội" (Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1996, tr. 71).
Vấn đề trung tâm trong chiến lược đổi mới kinh tế của nước ta trong giai đoạn vừa qua là việc thừa nhận đa hình thức sở hữu, trên cơ sở đó hình thành nên các thành phần kinh tế khác nhau. Đồng thời, xoá bỏ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, đặt các thành phần kinh tế hoạt động trong một cơ chế mới: cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Tính tất yếu khách quan của việc tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta.
Nền kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà sản phẩm sản xuất ra để bán, trao đổi trên thị trường. Trong kiểu tổ chức này ba vấn đề kinh tế lớn: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai; và toàn bộ quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng đều thông qua mua bán trên thị trường và do thị trường quyết định.
Về mặt lý luận, sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới, nền kinh tế mới. Nhà nước XHCN đứng trước một nền kinh tế về cơ bản dựa trên chế độ tư hữu. Thực tế có hai hình thức tư hữu: tư hữu lớn bao gồm nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp... của các chủ tư bản trong và ngoài nước, đó là kinh tế tư bản tư nhân; tư hữu nhỏ gồm những người nông dân cá thể, những người buôn bán nhỏ, đó là kinh tế sản xuất nhỏ cá thể.
Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới Nhà nước xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế mới. Nhà nước có thái độ khác nhau đối với hai hình thức tư hữu trên: đối với tư hữu nhỏ, Nhà nước cải tạo dần bằng con đường hợp tác theo theo các nguyên tắc mà Lênin đã vạch ra là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi đồng thời tuân theo các quy luật khách quan. Việc cải tạo sản xuất hàng hoá nhỏ là một quá trình khó khăn, phức tạp, lâu dài. Do đó trong thời kỳ quá độ còn tồn tại thành phần kinh tế cá thể, tiếu chủ. Đối với tư hữu lớn, Nhà nước tiến hành quốc hữu hoá. Lý luận về quốc hữu hoá của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định không nên quốc hữu hoá ngay một lúc mà phải tiến hành từ từ theo từng giai đoạn và bằng hình thức, phương pháp nào là tuỳ điều kiện cụ thể. Mặt khác, kinh tế tư bản tư nhân vẫn là hình thức kinh tế có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất và là hình thức kinh tế vẫn phát huy hiệu quả hoạt động cho nên thành phần kinh tế tư bản tư nhân còn tồn tại như một tất yếu kinh tế. C.Mác đã nói: "Một hình thức kinh tế chưa mất đi nếu những khả năng của nó chưa được tận dụng đến cạn kiệt". Ngoài ra, để đảm bảo phát triển theo định hướng XHCN, Nhà nước hướng kinh tế tư bản tư nhân vào các hình thức khác nhau của kinh tế tư bản nhà nước, và kinh tế Nhà nước liên doanh với các nhà tư bản nước ngoài. Do đó, hình thành thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.
Hơn nữa để tạo cơ sở kinh tế, Nhà nước đứng ra đầu tư, xây dựng các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế, từ đó hình thành nên các thành phần kinh tế mới: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Mặt khác sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các khu vực. Chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau.
Về mặt thực tiễn: ở Việt Nam, do xuất phát điểm từ một nước thuộc địa nửa phong kiến nên vẫn còn tồn tại nhiều quan hệ sở hữu khác nhau như sở hữu cá thể và sở hữu tư bản tư nhân. Do đó, tất yếu còn tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể của xã hội cũ chuyển qua.
Do đặc điểm của quá trình cải tạo và xây dựng CNXH trong những năm qua đã hình thành nên thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác. Do yêu cầu của việc hình thành kinh tế thị trường, yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nên tất yếu tồn tại thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.
Trên đây là tính tất yếu khách quan dẫn đến sự tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh tế ở ViệtNam, còn có cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá là do: phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi mà trái lại ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề cổ truyền, có tiềm năng lớn trứơc đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được khôi phục và phát triển. Sản phẩm đưa ra trên thị trường phong phú, đa dạng, chất lượng cao, mẫu mã đẹp hơn. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi thế giới. Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế nhưng trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế, phân phối và trao đổi sản phẩm tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế. Mặt khác, so với kinh tế kế hoặch hoá tập trung, kinh tế hàng hoá có nhiều ưu điểm: đáp ứng được nhu cầu đa dạng của xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.... Bởi vậy, nước ta có thể quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nhưng không thể bỏ qua kinh tế hàng hoá.
Nói tóm lại, sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một tất yếu khách quan. Để thấy được tầm quan trọng của sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, ta đi sâu nghiên cứu từng thành phần kinh tế.
2.2. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế.
Các thành phần kinh tế nước ta có sự khác nhau rõ nét về hình thức sở hữu, cách thức tổ chức quản lý và phân phối thu nhập. Tuy nhiên, sự tồn tại của chúng, như trên đã nói, đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế và của xã hội. Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, chúng có vị trí, vai trò nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
2.2.1. Thành phần Kinh tế Nhà nước:
Thành phần kinh tế Nhà nước là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế.
Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước như đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các nguồn dự trữ, ngân hàng kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác mà trong đó Nhà nước nằm cổ phần chi phối. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định rằng: Kinh tế Nhà nước cần tập trung vào những ngành, những lĩnh vực chủ yếu như: Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng bảo hiểm, những cơ sở sản xuất thương mại. Như vậy, vị trí của kinh tế Nhà nước là rất quan trọng và to lớn.
ở Việt Nam hiện nay, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với các thành phần kinh tế khác, thể hiện trên các mặt sau: Kinh tế Nhà nước tạo lực lượng về kinh tế để Nhà nước có thể thực hiện hữu hiệu chức năng định hướng, đòn bẩy hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, nó còn cung ứng những hàng hoá, dịch vụ cần thiết trong một số lĩnh vực quan trọng như: giao thông, thông tin liên lạc, quốc phòng, an ninh... Đồng thời kinh tế Nhà nước đảm bảo vai trò can thiệp, điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện một số chính sách xã hội.
Sở dĩ kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác là do: Kinh tế Nhà nước nắm các mạch máu kinh tế then chốt trong nền kinh tế như hệ thống kết cấu hạ tầng sản xuất (giao thông vận tải, thông tin liên lạc...); năng lượng; ngân hàng.... Kinh tế Nhà nước có ưu thế về vốn và công nghệ và được Nhà nước bảo vệ, nâng đỡ...
Qua đó ta thấy coi nhẹ kinh tế Nhà nước cho rằng chuyển sang cơ chế thị trường phải tư hữu hoá tất cả tư liệu sản xuất là sai lầm, nhưng nến duy trì và phát triển kinh tế Nhà nước thiếu cân nhắc kỹ hiệu quả kinh tế xã hội của nó thì cũng không đúng.
Trong thời gian qua, kinh tế Nhà nước đã có những đóng góp to lớn đối với sự phát triển chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, nhìn tổng thể thành phần kinh tế Nhà nước chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân; những tiến bộ đạt được chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, chưa tương xứng với năng lực sẵn có. Doanh nghiệp Nhà nước chiếm 85% tài sản cố định trong công nghiệp, 100% mỏ khoáng sản lớn, hơn 90% lao động được đào tạo nhưng hiệu quả hoạt động nhìn chung còn thấp, một bộ phận đáng kể còn thua lỗ hoặc không có lãi. Do đó vấn đề cấp thiết đặt ra cho khu vực kinh tế Nhà nước là tạo ra động lực, lợi ích trực tiếp cho người lao động để họ thực hiện quyền làm chủ, kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh. Việc đổi mới kinh tế Nhà nước phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra các bài học kinh nghiệm, bổ xung những tri thức "cập nhật" nhằm thực hiện tốt vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế này.
2.2.2. Thành phần kinh tế tập thể:
Là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống. Nòng cốt của kinh tế tập thể là hợp tác xã.
Hiện nay, một thực tế đặt ra là nếu không củng cố và phát triển kinh tế tập thể để nó cùng với kinh tế Nhà nước tạo thành nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất khó khăn, thậm chí có nguy cơ “chệch hướng”. Vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII đã nêu lên nhiệm vụ phải phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao.
Trong thực tế, phong trào hợp tác hoá ở nước ta xuất hiện từ những năm 50, và không thể phủ nhận rằng nó đã có nhiều đóng góp quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhưng nhìn chung phong trào hợp tác hoá thời kỳ trước đổi mới chưa thực sự dựa trên cơ sở tự nguyện, hoạt động tổ chức quản lý chưa khoa học,... dẫn đến kết quả chung còn nhiều hạn chế.
Những hợp tác xã với mô hình cũ khi chuyển qua nền kinh tế thị trường đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Để đảm đương vai trò và nhiệm vụ mà nền kinh tế giao phó, thành phần kinh tế tập thể phải được đổi mới căn bản và đồng bộ về quan hệ sỡ hữu, quản lý và quan hệ phân phối, áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào sản xuất, hoạt động phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân, lời ăn lỗ chịu. Hiện nay, việc chuyển đổi từ hợp tác xã kiểu cũ sang hình thức hợp tác xã kiểu mới; việc xác lập hộ tự chủ trong sản xuất kinh doanh và xuất hiện những hình thức hợp tác đa dạng trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ là một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của kinh tế hợp tác.
Thực tiễn cho thấy: Hợp tác xã phải được tổ chức trên cơ sở tự nguyện đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo cổ phần và kết quả lao động. Mỗi xã viên có quyền định đoạt ngang nhau đối với công việc chung. Kinh tế hợp tác có nhiều dạng, có những hợp tác xã trở thành lĩnh vực hoạt động chính của các thành viên, có những hợp tác xã chỉ nhằm đáp ứng chung về một hay một số dịch vụ trong quá trình sản xuất. Thành viên tham gia chỉ đóng một phần vốn và lao động, hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã có thể là kết quả liên kết theo chiều dọc, chiều ngang hoặc hỗn hợp không bị giới hạn bởi địa giới và lĩnh vực kinh doanh. Mỗi người kinh doanh, mỗi hộ gia đình có thể tham gia đồng thời vào nhiều loại hình kinh tế hợp tác.
2.2.3. Thành phần Kinh tế tư bản Nhà nước.
Kinh tế tư bản Nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản. Kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác liên doanh sản xuất giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng, khai thác, phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia đặt dưới sự kiểm soát giúp đỡ của Nhà nước, trên cơ sở đôi bên đều có lợi. Kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta đa số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung trong ngành dịch vụ (khoảng 64%). Tổng giá trị sản phẩm khu vực này tạo ra là trên 10% GDP. Nó đã đóng vai trò không kém phần quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Lênin đã chỉ rõ: "Trong một nước tiểu nông phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước tiến lên xã hội chủ nghĩa". Vận dụng tư tưởng đó Đảng ta đã chỉ rõ là phải áp dụng một cách rộng rãi các hình thức tư bản Nhà nước để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy còn nhiều khó khăn, trở ngại trong việc phát triển các liên doanh nhưng triển vọng của nó rõ ràng là rất to lớn. Có xu hướng ngày càng gia tăng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước cùng với sự gia tăng của đầu tư nước ngoài vào nước ta.
ý nghĩa của sự phát triển thành phần kinh tế này là việc thu hút vốn, công nghệ và kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các nước tiên tiến, nhằm từng bước góp phần cấu trúc lại nền kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Không có sự đầu tư của nước ngoài nền kinh tế Việt Nam không thể có được những kết quả khả quan và sự tăng trưởng nhanh chóng trong thời gian qua. Do đó để thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam cần tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn bằng cách đơn giản hoá thủ tục đầu tư; đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, khả năng đảm đương được công việc; đầu tư xây mới và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng và xây dựng hệ thống pháp luật ổn định; tạo lòng tin và giữ vững chữ tín với các đối tác nước ngoài.
2.2.4. Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ là thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở vốn và sức lao động của bản thân là chính. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có thể là của nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán, dịch vụ cá thể.... Thành phần kinh tế này dựa trên cơ sở là sở hữu tư nhân; sản xuất kinh doanh phân tán, quy mô nhỏ. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là khả năng thích nghi nhanh, sử dụng có hiệu quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề. Vì vậy kinh tế cá thể tiểu chủ có vị trí, vai trò quan trọng và lâu dài đối với sự phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta, đặc biệt là trong việc xoá đói giảm nghèo.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương giúp đỡ thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Mặc dù vậy việc định hướng hoạt động và quản lý thành phần kinh tế này còn gặp nhiều khó khăn do số lượng nhiều, hoạt động đa dạng. Do đó, về lâu dài cần hướng thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã. Đó là cách tốt để thành phần kinh tế này hoà nhập với các thành phần kinh tế khác và đóng góp nhiều hơn cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế đất nước.
2.2.5. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
Là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh. Đây là thành phần dựa trên sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp về tư liệu sản xuất.
Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các hình thưc như: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ năm 1991, sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân và đặc biệt là sự ra đời của Luật doanh nghiệp năm 1999, kinh tế tư bản tư nhân phát triển khá mạnh và ngày càng chứng tỏ là một lực lượng đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước. Hiện nay có hơn 15.000 doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản tư nhân với số vốn đăng ký lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng.
Nền kinh tế nước ta phát triển có năng động với tốc độ cao hay không, có tận dụng một cách tốt nhất các nguồn lực sẵn có hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Mặt khác việc tư nhân hoá các doanh nghiệp Nhà nước chỉ có thể mở rộng và có hiệu quả dựa trên cơ sở một khu vực kinh tế tư nhân được phát triển đủ lớn làm tiền đề. Vì vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay sự phát triển mạnh mẽ và năng động của kinh tế tư bản tư nhân có ý nghĩa to lớn và đòi hỏi phải được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ.
Kinh tế tư bản tư nhân kinh doanh hợp pháp cần được Chính phủ khuyến khích tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn ra kinh doanh, cần được bảo vệ bằng luật pháp và chính sách, những nhà đầu tư tư nhân phải được thực sự bình đẳng trong kinh doanh với các thành phần kinh tế khác. Trong thực tế hiện nay, các ông chủ các doanh nghiệp tư nhân thường vẫn bị coi là kẻ bóc lột và so với các doanh nghiệp Nhà nước họ còn bị thua thiệt nhiều bề, chưa thực sự bình đẳng.
Chính sách của Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân phát triển trong những ngành và lĩnh vực pháp luật cho phép. Nhà nước góp phần vốn đầu tư cùng tư nhân trên cơ sở thoả thuận đôi bên cùng có lợi. Tất cả các thành phần kinh tế trên tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ.
2.2.6. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Là thành phần kinh tế mà vốn do các chủ thể kinh tế nước ngoài đầu tư. Thành phần kinh tế này bao gồm các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc vốn đầu tư của nước ngoài nắm cổ phần khống chế. Chủ trương của ta là tạo điều kiện để thành phần kinh tế này phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm’ (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX)
2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Nền kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ ở nước bao gồm nhiều thành phần kinh tế với những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất, vừa thống nhất vừa mẫu thuẫn với nhau. Tính thống nhất của các thành phần kinh tế thể hiện ở:
Các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt lập nhau mà gắn bó, đan xen, xâm nhập lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế vì chúng đều là các bộ phận của hệ thống phân công lao động xã hội thống nhất. Mỗi thành phần kinh tế có vai trò, chức năng của nó trong đời sống kinh tế xã hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn vì yếu tố điều tiết thống nhất của hệ thống các quy luật của kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ.
Tất cả các thành phần kinh tế đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta. Vì vậy cần có các biện pháp để các thành phần này đều phát huy mọi tiềm lực hiện có nhắm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Các thành phần kinh tế đều khác nhau về nhiều mặt cho nên sự thống nhất này bao hàm những mặt khác biệt nhau và đối lập nhau. Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xu hướng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ có sự mâu thuẫn là do đặc điểm sỡ hữu của các thành phần kinh tế là khác nhau nên lợi ích kinh tế giữa các thành phần là khác nhau, trái ngược nhau nên mâu thuẫn lẫn nhau vì chúng đều là các chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trường.
Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển. Trong hệ thống thống nhất của nền kinh tế thời kỳ quá độ chứa đựng những sự đối lập, một mặt bài trừ, phủ định lẫn nhau, cạnh tranh với nhau. Mặt khác chúng thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết.
Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá để vươn lên tự khẳng định mình và phát triển theo quỹ đạo chung chịu sản xuất quản lý của nhà nước. Tuỳ vào khả năng và trình độ xã hội hoá của từng thành phần và sự hợp tác giữa chúng mà giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tạo công ăn việc làm, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
2.4. Những thành quả đạt được, những mặt còn hạn chế trong quá trình thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
2.4.1. Những thành quả đạt được:
Qua gần hai mươi năm đổi mới, nền kinh tế nước ta bước đầu được cấu trúc lại đi dần vào thế ổn định, tăng trưởng nhanh và đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Hàng năm nền kinh tế đều có tăng trưởng: tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng bình quân hàng năm là trên 7,5%, giảm tỷ lệ lạm phát từ mức hai con số xuống dưới 5%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân gần 20%/năm. Mở rộng được quan hệ kinh tế hợp tác với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật của nhiều nước để phát triển kinh tế trong nước. Từng bước xây dựng được các đơn vị kinh tế có sức cạnh tranh cao, xây dựng được một số ngành, lĩnh vực có trình độ tiên tiến so với thế giới. Đến cuối năm 2002 có gần 1000 công ty lớn, nhỏ đầu tư vào nước ta với gần 50 tỷ đô la, hàng trăm dự án phát triển kinh tế thuộc nhiều thành phần khác nhau như: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, ngân hàng tài chính... Chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại thương với hơn 120 nước trên thế giới, xoá bỏ thế bao vây cô lập về kinh tế tạo ra thế và lực mới để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Môi trường kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định và cán cân thương mại ngày càng được cải thiện rõ rệt làm cho nền kinh tế phát triển và năng động hơn.
Bên cạnh những thành tựu đạt được nền kinh tế nước ta còn bộc lộ những khuyết tật, hạn chế cơ bản.
2.4.2. Những mặt hạn chế.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế chưa thật ổn định và vững chắc. Sự tăng trưởng này chủ yếu do đầu tư theo chiều rộng. Chưa tạo lập được một hệ thống thị trường đầy đủ theo yêu cầu của kinh tế thị trường, thị trường hàng hoá và dịch vụ tuy có hoạt động sôi nổi nhưng chỉ tập trung ở thành phố, đô thị lớn và một số tỉnh biên giới và về cơ bản là tự phát, hoặc quản lý kém hiệu quả. Thị trường nông thôn chưa được coi trọng đúng mức.
Trong khu vực kinh tế Nhà nước, có tới 1/3 số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn chưa có lãi hoặc thua lỗ. Tình trạng kinh doanh phi pháp rất nghiêm trọng, nạn tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả ngày càng gia tăng phá hoại sản xuất nội địa gây thiệt hại cho lợi ích người tiêu dùng và gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Trình độ lực lượng sản xuất thấp kém có nguy cơ ngày càng tụt hậu so với nhiều nước nếu chúng ta không có những biện pháp để phát triển theo chiều sâu. Mặt khác kết cấu hạ tầng trong kinh tế còn nhiều yếu kém, việc phát triển nguồn lực con người nhằm tạo ra lực lượng lao động có kỹ thuật, năng suất - cơ sở quan trọng nhất cho sự cất cấn của nền kinh tế còn hạn hẹp. Sự phân hoá giàu - nghèo trong xã hội có xu hướng ngày càng gia tăng.
III- Giải pháp khắc phục khó khăn và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Để khắc phục những khó khăn và hạn chế nêu trên Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện các giải pháp sau: song song với việc phát triển mạnh các thành phần kinh tế phải đảm bảo cho kinh tế Nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo và khả năng điều tiết được các thành phần kinh tế khác. Để thực hiện được điều này cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp sau:
Xây dựng mới, nâng cấp cải tạo, mở rộng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống như: giao thông, điện, nước sạch, thông tin liên lạc, các công trình công cộng khác.
Tạo điều kiện tối đa để khu vục Kinh tế Nhà nước và thành phần kinh tế Nhà nước đi đầu trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trong việc nghiên cứu chế tạo, triển khai, nhập khẩu, chuyển giao công nghệ nhằm khai thác sử dụng có hiệu quả tài nguyên, có khả năng giải quyết việc làm và bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời xoá bỏ dần tình trạng lạc hậu của nền kinh tế, tạo năng suất lao động cao, làm cơ sở nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế
Tập trung nghiên cứu để xây dựng mới, cải tạo, bổ sung và giúp đỡ các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác sản xuất những hàng hoá và các ngành kinh tế mũi nhọn mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thu hút được lực lượng lao động, tạo đà cho phát triển kinh tế và hội nhập.
Phân loại và sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước theo hướng: Nhà nước chỉ nên nắm những lĩnh vực, những ngành then chốt. Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, sáp nhập, cho thuê, khoán hoặc giải thể, phá sản những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả; các doanh nghiệp công ích cần có chính sách, cơ chế phù hợp để quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư, đảm bảo mục tiêu chính trị - xã hội trong quá trình tăng trưởng và phát triển.
Đối với thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ Nhà nước cần trợ giúp về vốn, kỹ thuật, công nghệ, tài chính, tiêu thụ sản phẩm.... dể thành phần này từng bước tham gia kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp của nền kinh tế.
Đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và Tư bản Nhà nước cần đa dạng hoá các hình thức liên doanh, liên kết và cải thiện môi trường đầu tư; nâng cao năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư đi đôi với bảo vệ quyền lợi của người lao động.
C. kết luận
Như vậy, việc phát triển nên kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan. Các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất (nền kinh tế), chứa đựng những khuynh hướng đối lập. Một mặt, chúng cạnh tranh, bài trừ, phủ định lẫn nhau; mặt khác, chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thâm nhập, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển thông qua hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên kết.
Chính vì vậy, trong điều hành, quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước cần quan tâm đến những mối liên hệ trong bản thân mỗi thành phần kinh tế, những mối liên hệ giữa các thành phần kinh tế với nhau; đồng thời phải xem xét kỹ những điều kiện cụ thể trong nước cũng như quốc tế để đề ra các chính sách, biện pháp tác động sao cho có hiệu quả nhất. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế hiện nay, yêu cầu đặt ra là phải đối xử thực sự bình đẳng với các thành phần kinh tế và tạo môi trường thuận lợi để chúng tồn tại và hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, cũng cần phải phân biệt các thành phần kinh tế (vì lịch sử hình thành và bản chất vốn có của nó) để đưa ra các biện pháp tác động phù hợp với từng thành phần kinh tế nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của chúng. Có như vậy việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN mới dem lại hiệu quả mong muốn.
Danh mục tài liệu tham khảo:
Giáo trình triết học Mác - Lênin, Bộ giáo dục và đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2002.
Triết học (dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học), tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003.
Triết học (dành cho chương trình đào tạo thạc sỹ kinh tế tài chính theo phương thức từ xa) - Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Nxb Thống kê - 2002.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, Nxb Chính trị quốc gia.
Mấy vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 1994.
Tạp chí Kinh tế và phát triển số 76 (tháng 10/2003), 77 (tháng 11/2003), 78 (tháng 12/2003).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28401.doc