Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế bất cứ ở đâu và vào lúc nào cũng không thể có sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế để chọn giải pháp phù hợp. Trong quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nói chung cũng có sự ràng buộc xuất phát từ chúng. Tuy nhiên chính bản thân các quan hệ sản xuất lại có mối quan hệ chặt chẽ với lực lượng sản xuất. Vấn đề đặt ra là ta sử dụng mối quan hệ ấy như thế nào cho phù hợp. Đặc biệt quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lại có nhiều phức tạp trong việc nghiên cứu , sử dụng và phát triển các phương thức sản xuất tức là quá trình Đa dạng hoá cụ thể hơn là quá trình Phù hợp hoá các loại phương thức sản xuất vào điều kiện thực tế hiện nay ở nước ta . Nếu chúng ta sử dụng đúng các qui luật trên cộng với điều hoà quan hệ lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh cùng với các nước phát triển trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đã chọn .

doc27 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1816 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hệ sản xuất cũ, thay bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Như vậy, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù hợp). Nhưng do tính năng động của lực lượng sản xuất mâu thuẫn với tính ổn định tương đối của quan hệ sản xuất nên quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp với lực lượng sản xuất lại trở nên không phù hợp và trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất (không phù hợp). "Phù hợp" và "không phù hợp" là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tức là phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn. Mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn được tái tạo trong sự lặp lại có tính quy luật của quá trình sản xuất vật chất. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật xã hội. Nó được thông qua hoạt động của con người có ý thức. Vì vậy, việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Con người phát hiện ra những yếu tố không phù hợp, giải quyết mâu thuẫn đem lại sự phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất. Nhưng rồi quan hệ sản xuất này cũng sẽ trở thành không phù hợp với lực lượng sản xuất này cũng sẽ trở thành không phù hợp với lực lượng sản xuất và được phát triển ở trình độ mới; cứ như thế, sự phù hợp biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện ra là: phù hợp - không phù hợp - phù hợp - ... Ngày nay nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một lực lượng sản xuất đồ sộ; tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng cao mâu thuẫn với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Sự không phù hợp của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với lực lượng sản xuất đã xã hội hoá cao đưa đến xung đột xã hội gay gắt. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội viết: "Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy, chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc." Trong tất cả các hình thái xã hội trước chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dần trở nên mâu thuẫn không điều hoà mâu thuẫn đó cuối cùng sẽ được giải quyết bằng cách mạng xã hội, bằng cách tiêu diệt quan hệ sản xuất lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Thủ tiêu được xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì sẽ tạo nên những khả năng mới để phát triển sản xuất. b) Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của lực lượng sản xuất, khuynh hướng phát triển của quan hệ lợi ích; từ đó hình thành một hệ thống yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là tương đối. Trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, trong các giai đoạn khác nhau của quá trình lịch sử, lực lượng sản xuất phát triển với tốc độ rất khác nhau. Quan hệ sản xuất có ảnh hưởng quyết định đối với tốc độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất quyết định những quy luật kinh tế đặc thù của sự phát triển của lực lượng sản xuất của mỗi hình thái kinh tế xã hội, quyết định những động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nó tạo ra địa bàn tương đối lớn để cho sản xuất phát triển. Với sự phát triển tất yếu khách quan của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất lỗi thời cuối cùng sẽ bị thay thế bởi một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất. Tuy vậy, khi mâu thuẫn khách quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất bộc lộ gay gắt và đòi hỏi phải giải quyết nhưng con người không phát hiện được, hoặc phát hiện mà không giải quyết được mâu thuẫn, hoặc do những sai lầm chủ quan trong quá trình giải quyết mâu thuẫn,... thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất. Nhưng cuối cùng quy luật vẫn tự vạch đường cho nó đi. c) Sự phát triển của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuât và quan hệ sản xuất trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dùng để bóc lột công nhân làm thuê là cơ sở của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khác với các nền kinh tế trước, chủ nghĩa tư bản là nền sản xuất hàng hoá, hơn nứa là nền sản xuất hàng hoá ở giai đoạn phát triển cao khi mà cả sức lao động cũng trở thành hàng hoá. Chủ nghĩa tư bản sử dụng lao động làm thuê tự do thay người nông nô đã tạo nên một cuộc cách mạng trong kỹ thuật sản xuất và đã nâng cao năng suất lao động dựa vào máy móc. Trong thời kì đầu, chủ nghĩa tư bản đã tạo nên những kích thích to lớn không sao lường được để phát triển lực lượng sản xuất hơn hẳn tất cả các hình thái xã hội trước đó. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá đã phá vỡ tính chất biệt lập và cô lập tự tại của các bộ và các vùng kinh tế mà nền kinh tế tự nhiên vốn có, đã thống nhất các thị trường địa phương thành thị trường dân tộc thống nhất và sau đó là thị trường thế giới. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, sản xuất ngày càng có tính chất xã hội, nhưng tư liệu sản xuất vẫn là tài sản tư hữu. Vì vậy nảy ra mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và hình thức chiếm hữu tư nhân. Mâu thuẫn đó phát triển thành sự xung đột giữa lực lượng sản xuất và toàn bộ các quan hệ tư bản chủ nghĩa về sản xuất, trao đổi và phân phối. Phần lớn thu nhập quốc dân lại tập trung trong tay một số ít người là những nhà tư bản kếch xù do đó đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng sản xuất "thừa". Khủng hoảng ở chỗ hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, thợ thuyền bị thất nghiệp, xí nghiệp bị đóng cửa. Tình trạng "thừa" hàng hoá không có nghĩa là so với sức mua eo hẹp của quần chúng. Trong lúc khủng hoảng "thừa" thì lại có hàng triệu quần chúng lao động bị đói rét. Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản chính là nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng kinh tế. Do sự phát triển của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa buộc chủ nghĩa tư bản phải có sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất nên nó phát triển lên một giai đoạn mới. Do sự phát triển của các phong trào cách mạng sau chiến tranh thế giới lần II như phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh giải phong dân tộc, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào đấu tranh đòi hoà bình, chống chiến tranh tạo ra sự không ổn định trong tình hình kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư bản. Nó đe doạ lợi nhuận độc quyền cao và nó đặt chủ nghĩa tư bản trước nguy cơ sụp đổ. Trước tình hình đó, giai cấp tư sản đã có những điều chỉnh thích hợp về cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Về lực lượng sản xuất, có sự vận động của cả ba yếu tố: tư liệu sản xuất, đối tượng lao động và con người. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghiệp hiện đại làm cho nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đang từ giai đoạn cơ khí sang tự động hoá thể hiện ở chỗ những người máy công nghiệp được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ để đạt được năng suất lao động cao. Các dạng năng lượng, nguyên liệu mới như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, nguyên liệu chất dẻo, nguyên liệu tổng hợp đang dần thay thế cho những dạng năng lượng và những nguyên liệu được khai thác từ thiên nhiên. Công nhân làm thuê là lao động trí óc là chủ yếu, lao động chân tay chiếm tỉ lệ ít và ngày càng giảm dần. Điểm cơ bản đánh dấu sự thay đổi về quan hệ sản xuất là người công nhân có thể tham gia vào chính công ty họ thông qua chế độ cổ phần hoá các doanh nghiệp. Điều này làm xuất hiện chế độ đồng sở hữu. Người làm công bây giờ cũng sở hữu một phần vốn, một phần tài sản của doanh nghiệp hoặc công ty, bên cạnh các chủ thể sở hữu là Nhà nước hoặc các chủ tư bản lớn, nhỏ. Người làm công cũng được thu hút vào quản lí, hình thành nên chế độ công quản hay tự quản thay thế cho chế độ hành chính khắt khe trước đây. Chính họ cũng được tham gia vào việc chia lợi nhuận của công ty, vì vậy thu nhập của họ bây giờ bao gồm hai bộ phận: Tiền lương được trả căn cứ vào sức lao động và tiền lương phân chia từ lợi nhuận công ty; lượng này nhiều hay ít phụ thuộc giá trị cổ phần của người làm công, hiệu quả làm ăn của công ty, hiệp ước trên cơ sở thoả thuận giứa chủ tịch công ty với người làm công thông qua đại hội cổ đông. Nhưng thực chất quan hệ bóc lột của giai cấp tư sản với giai cấp công nhân không hề thay đổi mà nó chỉ được khoác trên mình sự che phủ hơi khác so với trước kia. Việc người công nhân cũng làm "ông chủ" trong chính các công ty, tập đoàn họ làm việc, không những không ảnh hưởng đến việc thu lợi nhuận của các nhà tư bản, mà ngược lại, đây lại chính là yếu tố kích thích bản thân những người công nhân này làm việc chăm chỉ hơn, tích cực hơn. Hơn nữa, các nhà tư bản cũng rất khôn khoan họ chỉ dành ra khoảng 5% cổ phần bán cho công nhân còn lại phần lớn vẫn trong sự quản lý của chính họ; bên cạnh đó cũng tồn tại một số tổ chức mang tên Công đoàn vàng thì cổ phần dành cho công nhân có thể lên tới 50% nhưng số này rất ít và mang tính mua chuộc mà thôi. Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, máy móc đã được áp dụng ở tất cả các ngành công nghiệp cũng như nông nghiệp. Máy móc với tác dụng ban đầu là nâng cao năng suất lao động, làm giảm bớt lao động cho công nhân, nhưng với lòng tham lợi nhuận vô đáy của các chủ tư bản, họ đã biến máy móc trở thành phương tiện để bóc lột công nhân nhiều hơn nữa. Công nhân đòi hỏi phải làm việc với cường độ cao cùng với sự hiện đại của máy móc nên trong thời gian ngắn, họ có thể bòn rút hết sức lực và trí lực của người công nhân. Việc dần thay thế kỹ thuật tự động hoá sản xuất và năng lượng nguyên tử cho kỹ thuật cơ khí thông thường và nguồn năng lượng truyền thống (than đá, dầu mỏ,...) sẽ làm cho các mâu thuẫn của xã hội tư bản trở nên sâu sắc và đặt ra cho xã hội tư bản những vấn đề khó giải quyết. Sự tự động hoá từ sản xuất đến quản lý đã làm cho một lượng lớn công nhân cũng như trí thức sẽ bị thất nghiệp, và đây là sức ép lên nền kinh tế cũng như các vấn đề xã hội. Sự cạnh tranh không cân sức giữa các tập đoàn lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã làm cho số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm xuống, các tập đoàn lớn với số lượng ít ỏi nhưng nắm phần lớn của cải xã hội. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, sự tiến bộ của kỹ thuật có tính chất cực kỳ mâu thuẫn. Giá cả độc quyền được định ra trong một khuôn khổ nhất định và cạnh tranh thì bị hạn chế nên không còn có những động cơ thúc đẩy kỹ thuật tiến bộ, xuất hiện khuynh hướng đình đốn và thối nát. Nhưng các tổ chức lũng đoạn tư bản chủ nghĩa không thể xoá bỏ hoàn toàn cạnh tranh trên thị trường một quốc gia cũng như trên thị trường thế giới. Muốn vậy, các tổ chức này vẫn phải liên tục đổi mới công nghệ để giảm bớt chi phí hàng hoá và nâng cao lợi nhuận. Sự tiến bộ của kỹ thuật làm cho mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và hình thức chiếm hữư tư nhân trở nên sâu sắc, ví dụ như muốn phát triển công nghiệp năng lượng nguyên tử cần lượng vốn và đầu tư rất lớn, tức là yêu cầu sự xã hội hoá cao của sản xuất nhưng sự chiếm hữu tư nhân ngăn cản điều đó. Mâu thuẫn này phát triển ngày càng gay gắt, biện pháp hình thức sở hữu tư bản tập thể của thời kì độc quyền tư bản tư nhân cũng không thể giải quyết được mâu thuẫn này thì xuất hiện một biện pháp hoàn toàn mới là sở hữu nhà nước, là cơ sở phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đây được coi là nội dung của sự điều chỉnh tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Sự xã hội hoá cao độ của lực lượng sản xuất vượt khỏi khuôn khổ của quan hệ độc quyền tư nhân tất yếu dẫn đến sự chuyển biến về kinh tế. Sự tập trung hoá và quốc tế hoá tư bản ngày càng có quy mô lớn dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi, nhu cầu tư bản tăng lên. Sự tích tụ và tập trung tư bản trong các tổ chức độc quyền tư nhân có han nên phải dựa vào vốn của Nhà nước tư sản. Mặt khác, tính chất xã hội hoá cao của sản xuất đòi hỏi một tổ chức nhân danh "xã hội" đứng ra điều khiển nền sản xuất xã hội. Tổ chức đó không thể là tổ chức độc quyền tư nhân, mà phải là Nhà nước tư bản. Thêm nữa là mâu thuẫn gay gắt giữa tư bản và lao động, giữa các cường quốc tư bản với nhau, giữa chủ nghĩa tư bản với các nước dân tộc chủ nghĩa và cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội, buộc các tổ chức độc quyền phải nắm lấy bộ máy Nhà nước. Nhà nước nắm trong tay các công cụ pháp luật, các công cụ kinh tế vĩ mô: tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ và cả khu vực kinh tế Nhà nước đã duy trì môi trường hoạt động thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản, làm giảm biên độ dao động của chủ nghĩa tư bản, tức là làm ổn định hơn và giảm thiệt hại cho nền kinh tế tới mức thấp nhất. Mọi phương thức sản xuất đều có quá trình ra đời, phát triển và tiêu vong. Chủ nghĩa tư bản ra đời là một thành tựu của loài người nhưng nó cũng phải tuân theo quy luật trên nên sự suy vong của nó là tất yếu và sẽ có một phương thức sản xuất mới thay thế cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất được xã hội hoá sẽ làm cho quan hệ sở hữu tư nhân bị thủ tiêu và một quan hệ sản xuất mới dựa trên sở hữu xã hội sẽ ra đời để thay thế. Như vậy, sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu xã hội với nền sản xuất và lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá cao sẽ hình thành một phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. d) Sự liên hệ lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Cơ sở của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là chế độ sỏ hữu công cộng xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, sức lao động không còn là hàng hoá nữa, không có chế độ bóc lột người, quan hệ thống trị và bị trị. Khi đó, quan hệ lẫn nhau giữa người và người trong quá trình sản xuất biểu hiện ở sự hợp tác theo tình đồng chí và sự giúp đỡ lẫn nhau của những người đã thoát ra khỏi bóc lột. Mác giải thích rằng muốn cho xã hội tiến bộ, bao giờ cũng cần có lao động tạo ra một số sản phẩm nhiều hơn nhu cầu của bản thân những người sản xuất. Nhưng trong chế độ tư sản, các nhà tư bản đã chiếm mất giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê sáng tạo ra, người lao động chỉ được hưởng lượng tiền công ít ỏi không tương xứng với sức lao động họ bỏ ra. Họ đáp ứng không đủ hoặc vừa đủ nhu cầu bản thân. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì việc đó không còn xảy ra nữa. Phần giá trị mới đó sẽ do chính bản thân người lao động hưởng để nâng cao mức sống của họ và của xã hội. Lao động trong xã hội chủ nghĩa là lao động cho bản thân mình và cho xã hội của người lao động. Hai hình thức sở hữu chính của xã hội chủ nghĩa là sở hữu Nhà nước và hợp tác xã, chúng đều cùng một bản chất là xã hội chủ nghĩa, đều phục vụ lợi ích của nhân dân, chỉ khác nhau về trình độ, chế độ sở hữu Nhà nước có trình độ xã hội hoá cao hơn. Công nghiệp hoá không những thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mà còn là biểu hiện mở rộng tái sản xuất của quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như dưới bất cứ phương thức sản xuất nào là yếu tố động hơn, biến đổi nhanh hơn quan hệ sản xuất. Vì vậy trong xã hội chủ nghĩa vẫn có sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp giữa hai mặt của phương thức sản xuất này không phải là tuyệt đối mà nó có biến đổi và mâu thuẫn. Sẽ không bao giờ có sự phù hợp tuyệt đối giữa hai yếu tố này, vì nếu như vậy nền kinh tế sẽ không thể phát triển. Tuy nhiên chế độ xã hội chủ nghĩa không có các giai cấp đối kháng, vì vậy tư liệu sản xuất là tài sản chung của nhân dân, nhưng ta cũng cần tránh hiểu nhầm tài sản chung tức là phải chia nhỏ nó ra mỗi người giữ một phần, cũng như không phải chung tức là không ai lo, không ai quan tâm, giữ gìn. Khi đó, lực lượng sản xuất phát triển làm cho quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được củng cố và phát triển. Cũng do không còn giai cấp đối kháng nên sự phát triển của lực lượng sản xuất không dẫn đến xung đột với quan hệ sản xuất như các hình thái xã hội có giai cấp khác. Mâu thuẫn trong chế độ xã hội chủ nghĩa không mang tính đối kháng, nên dù nó nảy sinh, nó sẽ được giải quyết trên cơ sở của quyền sở hữu công cộng, trong sự thống nhất về chính trị và tinh thần của nhân dân, nhưng những mâu thuẫn này cũng cần sự phát hiện và giải quyết kịp thời. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn liên quan đến cả quan hệ phân phối và trao đổi. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì hình thức phân phối cũng càng phát triển, đồng thời nguyên tắc lợi ích vật chất của người sản xuất vẫn được duy trì và củng cố. Sự vi phạm nguyên tắc lợi ích vật chất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất; do đó, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có thể trở nên phức tạp nếu có khuyết điểm và sai lầm trong việc thi hành chính sách kinh tế. Nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa là phân phối theo số lượng và chất lượng lao động, nhưng trong thực tế, thường mắc phải một số sai lầm như phân phối bình quân, sai lầm này sẽ dẫn đến người lao động không hăng say lao động, sáng tạo và dẫn đến không kích thích phát triển sản xuất hay một sai lầm khác như sự cách biệt một cách vô lý giữa tiền lương của các loại công nhân. Lý luận về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất tạo cho chúng ta một nền tảng vững chắc để tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn nhất là trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa hiện nay ta vẫn còn gặp nhiều vướng mắc trong tư tưởng và hành động. II.vận dụng Đại hội đảng IX đã xác định việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ ở Việt Nam là cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên trong thực tiễn vẫn còn có nhiều sai lầm trong tư tưởng cũng như hoạt động nên nó đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của ta. Do đó, việc nghiên cứu thật kĩ lưỡng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang đặc điểm Việt Nam có ý nghĩa sâu sắc về phát triển lý luận và hoạt động thực tiễn. 1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư sản chủ nghĩa ở Việt Nam. a) Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mọi phương thức sản xuất đều có quá trình ra đời, phát triển và tiêu vong. Chủ nghĩa xã hội ra đời là một thành tựu của loài người nhưng nó cũng phải tuân theo quy luật đó nên sự suy vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và sẽ có một phương thức sản xuất khác thay thế cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng là một tất yếu khách quan. Thêm nữa, sự phát triển của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất sớm muộn sẽ trở thành sợi dây trói buộc sự phát triển của nền sản xuất được xã hội hoá. Khi đó nhân tố kìm hãm sự phát triển chung là quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất sẽ bị thủ tiêu. Một phương thức sản xuất duy nhất phù hợp với lực lượng sản xuất đã được xã hội hoá cao lúc này là phương thức sản xuât cộng sản chủ nghĩa. Khi một sự vật, hiện tượng, tư duy cũ kết thúc, thay vào đó là một sự vật, hiện tượng, tư duy mới bao giờ cũng cần thời gian để cái cũ chuyển sang cái mới, khoảng thời gian này được gọi là thời kì quá độ. Đây là yêu cầu khách quan của quy luật phát triển, nó mang tính phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Do đó, từ tư bản chủ nghĩa chuyển sang xã hội chủ nghĩa phải trải qua thời kì quá độ cũng là một tất yếu khách quan. Để chuyển từ tư bản chủ nghĩa lên xã hội chủ nghĩa cần thời kì quá độ còn do chính sự khác biệt về bản chất giữa hai chế độ này. Các cuộc cách mạng xã hội trước đây chỉ thay đổi chế độ tư hữu này thành chế độ tư hữu khác, còn chế độ xã hội chủ nghĩa lại thay hẳn chế độ tư hữu thành chế độ công hữu. Hai chế độ này hoàn toàn trái ngược nhau, nên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không thể hình thành trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Thêm vào đó vai trò của giai cấp công nhân không những là lực lượng lật đổ chính quyền cũ mà còn tham gia vào xây dựng chính quền mới-công việc này hoàn toàn mới mẻ với giai cấp công nhân nên bản thân cần thời gian để giữ vững và củng cố chính quyền. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ biến chuyển từ xã hội cũ sang xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, nó bắt đầu kể từ khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản giành được chính quyền sẽ kết thúc khi xây dựng xong cơ sở về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng của chủ nghĩa xã hội. b) Việt Nam có đủ khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa của ta được đặt dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, lấy mục tiêu giải phóng người lao động và xây dựng xã hội công bằng, văn minh làm nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và Đảng cộng sản đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó lãnh đạo nhân dân tiến hành đổi mới, bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Trước kia trong một thời gian dài cách mạng Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ vô tư cả về vật chất lẫn tinh thần của các Đảng, các nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chính sự giúp đỡ đó kết hợp với nỗ lực của Đảng và toàn dân ta, đất nước ta đã vượt qua thời kì khó khăn, gian khổ nhất trong những bước đi đầu của thời kì quá độ. Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế có nhiều phức tạp, một số nước xã hội cũ đã sụp đổ, nhưng bên cạnh chúng ta vẫn có sự giúp đỡ của nhân dân tiến bộ thế giới. Bên cạnh đó là sự hội nhập và mở cửa, tham gia vào nền kinh tế thế giới đã tạo cơ hội cho chúng ta "đi tắt đón đầu", từ đó rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam với khu vực và thế giới. Chúng ta vẫn đang kết hợp giữa thuận lợi bên ngoài và nỗ lực bên trong để tiếp tục quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản. c) Thực trạng thời kì quá độ ở Việt Nam. Lênin đã từng chỉ ra những yếu tố kinh tế tư bản cũng như những thành phần kinh tế chưa xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại đồng thời với sự xuất hiện những yếu tố kinh tế của xã hội mới. Trong thời kì này diễn ra sự đấu tranh "một mất một còn" giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội một cách âm thầm. Nếu lực lượng của chủ nghĩa xã hội đủ mạnh về kinh tế và thể hiện được sự ưu việt thì chủ nghĩa xã hội thắng; ngược lại, chủ nghĩa tư bản sẽ thắng. Nước ta với trình độ lực lượng sản xuất và năng lực tổ chức, quản lý còn rất thấp, quá độ lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa lại bỏ qua chế độ tư bản sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, việc nhận thức đầy đủ và vận dụng sáng tạo các quy luật khách quan, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất nhằm cải tạo các thành phần kinh tế, khai thác mọi tiềm năng sản xuất, phát huy tính chủ động sáng tạo của chủ thể các thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần. Chúng ta phải khắc phục quan niệm "bỏ qua" chủ nghĩa tư bản một cách giản đơn. Phải khai thác, sử dụng tối đa chủ nghĩa tư bản làm "khâu trung gian" để chuyển nền sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, như Lênin đã chỉ ra. 2. Đặc điểm nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần. a) Thành phần kinh tế là gì? Thành phần kinh tế là bộ phận cấu thành của nền kinh tế đại diện cho một loại hình quan hệ sản xuất và thích ứng với một tính chất và trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Thành phần kinh tế chỉ là những bộ phận khác nhau tồn tại bên cạnh nhau mà những bộ phận khác nhau đại diện cho những quan hệ sản xuất khác nhau nhưng trong số các thành phần kinh tế đó bao giờ cũng nổi lên một thành phần giữ vai trò chủ đạo. b) Tất yếu khách quan phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kì quá độ. Về lý luận, cả Mác và Lênin đều cho rằng rất hiếm khi tồn tại một nền kinh tế mà trong đó duy nhất tồn tại một thành phần, nếu có chỉ là giai đoạn đầu của phương thức cộng sản nguyên thuỷ. Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì đấu tranh giữa các nhân tố cũ và mới vì vậy mà trong kinh tế tất yếu phải có sự tồn tại đan xen những mảnh, những bộ phận của các chế độ khác nhau, chúng tồn tại bên cạnh nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau. Nước ta xuất phát điểm là nền kinh tế sản xuất nhỏ nên không những ta phải đối mặt với tư hữu lớn tư bản chủ nghĩa mà còn phải đối mặt với tư hữu nhỏ của những người lao động cá thể. Với hai hình thức tư hữu này lại đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách khác nhau để giải quyết cho phù hợp. Bước vào thời kì quá độ, nền kinh tế vốn dĩ không đồng đều về trình độ của lực lượng sản xuất mà xuất phát từ yêu cầu của quy luật phù hợp cho nên sẽ phải xác lập nhiều hình thức khác nhau của quan hệ sản xuất do đó sự tương hợp giữa các quan hệ sản xuất với các tính chất và trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất sẽ tạo nên nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại bên cạnh nhau. Trong quá trình xây dựng và củng cố chính quyền công nông cũng phải chủ động tạo dựng những cơ sở kinh tế riêng cho mình làm chỗ dựa về vật chất để thực hiện vai trò về điều tiết và quản lý về vĩ mô. Trong quá trình mở rộng và phát triển, những mối quan hệ hợp tác với nước ngoài cũng lại xuất hiện thêm những thành phần kinh tế mà vốn là các chủ đầu tư nước ngoài hoặc các chủ đầu tư nước ngoài liên doanh với Nhà nước. Thực tiễn của việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta cho thấy, ở giai đoạn đầu của thời kì quá độ, khi thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chưa chiếm được vị trí độc tôn, khi các thành phần kinh tế khác có nhiều khả năng góp phần làm cho sản xuất phát triển, thì một số yếu tố trong quan hệ sản xuất mới vượt lên lực lượng sản xuất và hướng vào việc tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu. c) Đường lối của Đảng với các thành phần kinh tế. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo luật phap đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế của ta hiện nay, chúng cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xoá bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiêm về sản xuất kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp, có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hộ trợ phát triển, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến khích việc tích luỹ, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở cả nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo điều kiện pháp lý thuận lợi để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Tạo điều kiện cho kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết câu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. 3. Kinh tế thị trường trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. a) Kinh tế thị trường là gì? Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá mà trong đó tất cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất kinh doanh đều được mua bán thông qua thị trường. Tất cả các vấn đề sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều được thực hiện thông qua thị trường và do thị trường quyết định. b) Sự cần thiết khách quan của kinh tế thị trường trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. b.1 Cơ sở lý luận. Hiện nay ở Việt Nam đang hội tụ cả hai điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá. Từ kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang kinh tế thị trường trên một quy mô lớn thì tất yếu phải tiến hành phân công và phân công lại lao động xã hội. Nó không những là đòn bẩy của sự phát triển về công nghệ, năng suất lao động mà còn góp phần hình thành và tạo dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Phân công lao động xã hội đang ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu: Phạm vi của phân công lao động lao động xã hội đang ngày càng mở rộng từ địa phương lan ra toàn quốc đến phạm vi khu vực và thế giới; trong hệ thống phân công lao động quốc tế, Việt Nam đang tham ngày càng có hiệu quả hơn, những lợi thế so sánh của Việt Nam đã bước đầu được phát huy. Sự tách biệt về kinh tế. Việt Nam đang tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở đa dạng hoá về hình thức sở hữu nên quan hệ sở hữu có sự khác nhau. Ngay trong một thành phần kinh tế, dựa trên cùng một hình thức sở hữu, giữa các doanh nghiệp vẫn có sự khác nhau về trình độ công nghệ, về năng lực quản ly, về trình độ tay nghề của người lao động, về điều kiện sản xuất kinh doanh nên chi phí sản xuất cá biệt giữa các doanh nghiệp không giống nhau. Do đó, nó đòi hỏi mọi quan hệ kinh tế giữa người và người vẫn cứ phải giải quyết thông qua quan hệ mua bán hay là quan hệ hàng hoá, tiền tệ. b.2 Cơ sở thực tiễn. Ngay sau cách mạng tháng Mười, trong tác phẩm "Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu tư sản", Lênin đã cực lực phê phán những tư tưởng nóng vội muốn xác lập ngay chế độ công hữu. Đặc biệt trong chính sách mới, Lênin đã đề ra tư tưởng về kinh tế nhiều thành phần, về các hình thức kinh tế quá độ, đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi Lênin mất, Liên Xô đã đi vào thực hiện công nghiệp hoá, đẩy mạnh quốc hữu hoá và tập thể hoá, thực hiện quản lý kinh tế theo mô hình quản lý kinh tế kế hoạch tập trung. Mô hình đó đã phát huy tác dụng trong điều kiện Liên Xô bị các nước tư bản bao vây, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Từ đó dẫn đến tuyệt đối hoá mô hình kế hoạch hoá tập trung, tuyệt đối hoá công hữu dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô đã cho rằng: hình thức sở hữu tập thể đang từng bước chuyển thành sở hữu toàn dân. Như vậy, vào giai đoạn lịch sử đó, quan niệm chế độ công hữu phát triển đến đỉnh cao sẽ trở thành một hình thức sở hữu duy nhất là sở hữu toàn dân. Song mô hình đó đã sụp đổ, trong lúc đó chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục phát triển. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại mô hình sở hữu xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI đã chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và việc sử dụng những hình thức kinh tế trung gian trong thời kì quá độ. Đại hội Đảng VII cũng chỉ rõ: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước." Thực tiễn hơn 15 năm đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế tương đối cao và ổn định trong thời gian dài, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, chủng loại hàng hoá trên thị trường ngày càng đa dạng, phong phú nên thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Trong thời gian tới ta lại tiếp tục đẩy mạnh kinh tế hàng hoá và nâng tầm kinh tế hàng hoá lên ở trình độ cao hơn là kinh tế thị trường. c) Đặc điểm của nền kinh tế thị trường. Mục tiêu của sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội thúc đẩy phát triển kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với vấn đề cải thiện đời sống của dân cư, gắn tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ đầu. Nước ta bao giờ cũng thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội đi đôi với xoá đói giảm nghèo. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở đa dạng hoá về hình thức sở hữu và sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế nhưng trong đó công hữu là nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tính chất của Nhà nước không thay đổi, tính chất của Nhà nước được quy định trong Hiến pháp: Nhà nước của dân, vì dân và của dân. Tính chất đó sẽ quy định định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, những mục tiêu kinh tế vĩ mô, những hoạt động can thiệp của Nhà nước vào các quá trình kinh tế đều vì lợi ích của đại đa số những người lao động và hướng tới một xã hội dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, văn minh. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tồn tại nhiều hình thức phân phối: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và tài sản, phân phối theo hiệu quả kinh tế, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi, các quỹ tiêu dùng công cộng, phân phối theo sự đóng góp về các nguồn lực. Trong điều kiện của Việt Nam. phân phối thêo lao động và phân phối theo hiệu quả lao động là chủ yếu. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được phát triển theo một cơ cấu mở cửa giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Qua các đặc điểm trên, ta có thể thấy những sự khác biệt cơ bản về nguyên tắc của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa sau: Trong nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhưng nền tảng của nó là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản độc quyền giữ vai trò chi phối toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng dựa trên nhiều hình thức sở hữư như: sở hữu toàn dân và nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác để trở thành nền tảng của nền kinh tế, có khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, các lĩnh vực xã hội cần thiết cũng như an ninh - quốc phòng, mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không có lãi hoặc ít lãi. Cơ chế vận hành kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điểu khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kì, do đó nó còn phải chịu sự điều chỉnh quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. d) Các giai đoạn của quá trình đổi mới. Thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, thị trường nước ta đã trải qua ba giai đoạn:1986-1990,1991-1995,1996 đến nay. Mỗi giai đoạn có những đặc trưng khác nhau. Giai đoạn 1986-1990: Cơ chế thị trường bắt đầu được thực hiện, một số loại thị trường được hình thành, đã tạo ra động lực mới, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và ở một số xí nghiệp quốc doanh. Thị trường hàng tiêu dùng đã dồi dào, đa dạng hơn, thị trường tư liệu sản xuất cũng nhích lên đôi chút, lưu thông bắt đầu tương đối thuận lợi, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng và phát triển khá nhanh. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta còn ở trong tình trạng khủng hoảng, phát triển chậm, phân phối lưu thông còn rối ren, ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt, nguồn vốn thiếu nghiêm trọng, tiền mặt luôn ở tình trạng căng thẳng, lạm phát ở mức cao. Giai đoạn 1991-1995: Các chính sách về cơ chế thị trường được thực hiện mạnh mẽ, đã "lay động" các lĩnh vực của nền kinh tế xã hội. Đặc trưng cơ bản nhất của thị trường trong thời gian này là giá cả thị trường ổn định, sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu xã hội; các loại thị trường phát triển mạnh. Giai đoạn 1996-nay: Tình hình thị trường nước ta có những đặc trưng mới khác hẳn giai đoạn trước. Tổng cung vượt xa tổng cầu trong tình hình cả tổng cung và tổng cầu đều giảm mạnh, nhưng tổng cầu giảm nhanh hơn tổng cung. Trên thị trường những năm gần đây, nhiều mặt hàng công nghiệp có khối lượng tồn kho lớn như giấy 16000 tấn, thép 400000 tấn, xi măng 700000 tấn. Thực trạng trên tiếp tục phát triển và nặng nề hơn nhiều vào năm 1999. Sự gia tăng trì trệ của thị trường đã làm cho doanh nghiệp không trả nợ được ngân hàng, thu nhập của dân cư giảm làm giảm sức mua. Lạm phát giảm mạnh, hơn nữa còn có tình trạng giảm phát. Sau những tháng đầu năm 2000, trên thị trường có xuất hiện một số sản phẩm mới, sản phẩm trong nước có nhiều tiến bộ về mẫu mã, chất lượng nhưng vấn đề nổi côm của thị trường vẫn là vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm. 4. Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Chúng ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới rất quan trọng- đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Hội nghị lần thứ 2 BCHTƯ Đảng khoá VIII đã khẳng định: "Cùng với giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội." a) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là gì? Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội. Từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Hiện đại hoá nền kinh tế thực chất là thay đổi cơ cấu công nghiệp, dựa trên các ngành công nghệ cao, trong đó những công nghệ cũ, tiêu hao nhiều tài nguyên và lao động, dựa trên nền tảng điện cơ khí được thay thế bằng những ngành công nghiệp cao cấp, dựa trên nền tảng cơ điện tử. b) Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá ở Việt Nam. Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập dựa trên cơ sở vật chất kĩ thuật tương ứng với nó. Do đó nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa không qua chế độ tư bản là phải xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ đó nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển trên một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về lực lượng sản xuất. Công nghiệp hoá chính là quá trình tạo ra nền tảng cơ sở vật chất đó cho nền kinh tế quốc dân. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất xã hội thấp kém. Nếu chúng ta không tiến hành công nghiệp hoá thì sẽ làm cho lực lượng sản xuất lạc hậu so với quan hệ sản xuất, đây là mối quan hệ không bền, sớm muộn sẽ nảy ra mâu thuẫn giữa hai yếu tố này. 5. Thực hiện đa dạng hoá về hình thức sở hữu. Việc xây dựng quan hệ sản xuât phải tiến hành từng bước đi từ thấp đến cao, phải đa dạng hoá về hình thức sở hữu và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ta cần nhận thức rõ, mỗi hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất vốn có bản chất và đặc trưng riêng, nhưng trong sản xuất kinh doanh thì giữa các hình thức sở hữu không có sự ngăn cách nhau mà có sự đan xen tạo ra hình thức sở hữu hỗn hợp, vừa bổ sung cho nhau vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. a) Tại sao phải tiến hành đa dạng hoá về sở hữu. Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, các chế độ sở hữư cũng như các hình thức sở hữu cũng thay đổi. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, các chế độ sở hữu lần lượt thay thế nhau: từ chế độ công xã nguyên thuỷ, đến chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa. Lịch sử phát triển của nhân loại cũng cho thấy không có một chế độ sở hữu nào là thuần nhất một hình thức sở hữu, mà nó là sự đan xen nhiều loại hình, nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên trong đó có một loại hình đóng vai trò chi phối quyết định bản chất của chế độ sở hữu trong từng giai đoạn lịch sử. Xu hướng phát triển của nhân loại không phải đi đến chỗ đơn nhất hoá, mà ngược lại ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Xu hướng phát triển đó là tất yếu, phù hợp với quá trình xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Trước đây nói đến chế độ công hữu là nói đến biến tư liệu sản xuất thành sở hữu toàn dân và tập thể. Từ đó dẫn đến công hữu hoá ồ ạt, càng nhanh càng tốt. Song thực tiễn cho thấy, đó là quan điểm sai lầm. Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa không hề gạt bỏ tính đa dạng các hình thức sở hữu, mà ngược lại chúng thống nhất với nhau. Trong tính đa dạng của các hình thức sở hữu, công hữu phải giữ vai trò chi phối. b) Phân biệt sở hữu cá nhân, sở hữu tư nhân và chế độ công hữu. Theo các tác giả của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, xoá bỏ chế độ tư hữu không có nghĩa là xoá bỏ sở hữu nói chung. Hình thức sở hữu mà những người cộng sản không chủ trương xoá bỏ là sở hữu cá nhân của người lao động. Trong thực tế lịch sử chế độ tư hữu ra đời từ sự phát triển của sở hữu cá nhân. Nhưng sự khác nhau giữa hai loại hình sở hữu đó thì rất rõ ràng. Sở hữu cá nhân là sở hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân; còn chế độ tư hữu lại là phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở người này bóc lột người kia. Trong các xã hội có dựa trên chế độ tư hữu, sở hữu cá nhân của một số ít người được phát triển bằng cách tước đi sở hữu cá nhân của đa số những người khác. Chủ nghĩa cộng sản làm cho "sở hữu cá nhân không còn có thể biến thành sở hữu tư sản được nữa. Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa không những không loại trừ sở hữu cá nhân mà lại là sự khôi phục sở hữu cá nhân của người lao động đã bị chế độ tư hữu phủ định. Trong chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, sở hữu xã hội phải được hiểu là sở hữu của những cá nhân đã liên hiệp lại với nhau, "toàn bộ sản xuất đã tập trung trong tay những cá nhân đã liên hiệp với nhau." Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời và được xây dựng trong điều kiện chưa qua chủ nghĩa tư bản như ở nước ta, viêc xác lập chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa không thể không là quá trình tìm tòi sáng tạo những hình thức và bước đi thích hợp. Không những thế, chế độ tư hữu nhỏ còn tồn tại một cách phổ biến và sự phát triển tư bản là không tránh khỏi. Việc tìm ra những hình thái quá độ , những khâu trung gian để đi tới chế độ công hữu là hết sức cần thiết để tiến lên chủ nghĩa xã hội thành công. kết luận Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên thực tế bất cứ ở đâu và vào lúc nào cũng không thể có sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế để chọn giải pháp phù hợp. Trong quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nói chung cũng có sự ràng buộc xuất phát từ chúng. Tuy nhiên chính bản thân các quan hệ sản xuất lại có mối quan hệ chặt chẽ với lực lượng sản xuất. Vấn đề đặt ra là ta sử dụng mối quan hệ ấy như thế nào cho phù hợp. Đặc biệt quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lại có nhiều phức tạp trong việc nghiên cứu , sử dụng và phát triển các phương thức sản xuất tức là quá trình Đa dạng hoá cụ thể hơn là quá trình Phù hợp hoá các loại phương thức sản xuất vào điều kiện thực tế hiện nay ở nước ta . Nếu chúng ta sử dụng đúng các qui luật trên cộng với điều hoà quan hệ lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh cùng với các nước phát triển trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đã chọn . Qua bài viết này phần nào tôi hiểu và biết được tình hình kinh tế nước nhà ; những chính sách , những việc làm mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành để phát triển Đất nước . Từ đó tôi có đôi lời kiến nghị sau : - Không ngừng phát triển lực lượng sản xuất bằng việc nhanh chóng đưa các tiến bộ kỹ thuật của những nước đi trước và tăng cường công tác giáo dục , hướng dẫn cho người lao động có thể tiếp thu được những công nghệ mới . - Bình thường hoá quan hệ sản xuất , có cách nhìn đúng đắn giữa người làm thuê với ông chủ của mình . Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm làm ra . Quan hệ sản xuất tốt người lao động được hưởng mọi quyền lợi họ sẽ tích cực làm việc từ đó năng suất và sản phẩm không ngừng tăng lên . Tài liệu tham khảo 1_ Triết học Mác - Lênin Nhà xuất bản chính trị quốc gia . 2_ Kỷ yếu hội thảo khoa học Chủ đề : Đặc trưng của quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ( Tháng 6/2001 ) . 3_ Tạp chí hoạt động khoa học số 8/2001. 4_ Nghiên cứu kinh tế số 276 -5/2001 . 5_ Tạp chí quản lý nhà nước . 6_ Lý luận chính trị số 5 - 2001 . 7_ Tạp chí cộng sản số 6 - 2003 . 8_Tạp chí triết học,số 1 tháng 1/2002. 9_Tạp chí kinh tế và phát triển, số 61,63 tháng 7/2002. đề cương tiểu luận triết học Đề 3: Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. A) Lời nói đầu B) Nội dung I. Lý luận 1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là gì ? a) Lực lượng sản xuất bao gồm : -Tư liệu sản xuất - Người lao động b) Quan hệ sản xuất - Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất - Quan hệ phân phối sản phẩm lao động 2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. a) Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. - Những cuộc cách mạng trong kĩ thuật sản xuất sẽ dẫn đến những thay đổi căn bản trong đời sống xã hội. - Khi sản phẩm thừa xuất hiện thì cũng dần hình thành chế độ tư hữu và sự bất bình đẳng về tài sản. - Thay đổi công cụ lao động khiến quan hệ sản xuất cũng dần thay đổi để theo kịp. b) Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. - Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển. - Nếu quan hệ sản xuất đã lỗi thời, đã mâu thuẫn với lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. c) Sự phát triển mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ tư bản chủ nghĩa. d) Sự liên hệ lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ xã hội chủ nghĩa. II. Vận dụng 1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư sản chủ nghĩa ở Việt Nam. a) Tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. b) Việt Nam có đầy đủ khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. c) Thực trạng của thời kì quá độ. 2. Đặc điểm nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần. a) Thành phần kinh tế là gì? b) Tất yếu khách quan phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. c) Đường lối của Đảng với các thành phần kinh tế. 3. Kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. a) Kinh tế thị trường là gì? b) Sự cần thiết khách quan của kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. b.1 Lý luận. - Phân công lao động xã hội. - Sự tách biệt về kinh tế. b.2 Thực tiễn. - Nguyên nhân Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. - Thành tựu sau 15 năm đổi mới ở nước ta. c) Đặc điểm kinh tế thị trường. - Đặc điểm kinh tế thị trường ở nước ta. - Sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường ở chế độ xã hội chủ nghĩa và chế tư bản chủ nghĩa. d) Các giai đoạn của quá trình đổi mới. 4. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. a) Khái niêm công nghiệp hoá - hiện đại hoá. b) Tính tất yếu khách quan phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 5. Thực hiện đa dạng hoá về hình thức sở hữu. a) Tại sao phải tiến hành đa dạng hoá về sở hữu? b) Phân biệt sở hữu tư nhân, sở hữu cá nhân, và chế độ công hữu. C) Kết luận.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35446.doc
Tài liệu liên quan