Lời mở đầu.
Quan hệ thương mại Viêt - Mỹ là một nhân tố rất quan trọng trong tổng thể quan hệ Việt - Mỹ kể từ sau kết thúc chiến tranh Việt Nam. Bình thường hoá quan hệ Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, đàm phán và ký kết Hiệp định thương mại là chủ trương quan trọng và nhất quán của Đảng và nhà nước ta về mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại nhằm thực hiện nhiệm vụ do Nghị quyết Trung ương 4 ( khoá VIII ) đã đề ra “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa với nguồn lực bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới” và phải “Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, gia nhập APEC, WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA. Giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo lập được với các liên minh Châu Âu, khôi phục thị trường Nga và các nước Đông Âu; phát triển quan hệ chính ngạch với Trung Quốc; tăng cường quan hệ buôn bán, hợp tác với Ấn Độ; mở rộng thị trường Mỹ, đẩy mạnh việc tìm thị trường mới ở Trung Cận Đông, Châu Phi, Mỹ La tinh”.
Kể từ lúc Việt Nam áp dụng chính sách mở cửa nền kinh tế, quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới được cải thiện và xúc tiến theo chiều hướng tích cực với tốc độ cực nhanh. Nhưng phải đến tháng bảy năm 1995, khi Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao, hoạt động kinh tế được thúc đẩy mạnh mẽ hơn theo quyết định của Đảng Cộng Sản Việt Nam, một định hướng đúng đắn giúp Việt Nam cải thiện đáng kể về mọi mặt của nền kinh tế. Quan hệ ngoại giao được thiết lập với Mỹ là cơ sở bảo đảm thiện chí của Việt Nam muốn xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở một “luật chơi” bình đẳng với các nước, là cam kết tôn trọng thực hiện quyền và nghĩa vụ của một chủ thể của luật quốc tế, hợp tác chặt chẽ với các định chế quốc tế quan trọng như ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế ngoài những hợp tác kinh tế đa phương khác như gia nhập Hiệp hội Quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương. Tất cả các động thái đầy đủ thiện chí của Việt Nam đã giúp quốc tế mong muốn mở rộng hợp tác với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực.
Quan hệ Thương mại Việt - Mỹ là một hành động đột phá tích cực. Em đã chọn đề tài “ Quan hệ Thương mại Việt - Mỹ theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ ", bởi qua hiệp định này chúng ta có thể biết rõ hơn Việt Nam đã dần tiếp cận với “luật chơi” của Thương mại quốc tế khi cam kết mở rộng một số lĩnh vực, theo đúng luật lệ của Thương mại Quốc tế cho dù ở một mức độ hạn chế phù hợp với hiện trạng, hoàn cảnh kinh tế của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu.
Tiểu luận không tập trung phân tích những nội dung của hiệp định thương mại Việt – Mỹ mà chủ yếu làm rõ những mặt tích cực đã đạt được trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ dựa trên những điều khoản đã được ký kết giữa hai bên trong “hiệp định thương mại Việt – Mỹ”. Qua đó chúng em cũng xin đề ra những giải pháp chủ quan để thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước nhằm tạo ra một mối quan hệ hợp tác hữu nghị trên cơ sở bảo đảm được lợi ích của cả hai bên.
MỤC LỤC.
I/ PHẦN MỞ ĐẦU.
Lời mở đầu3
Phạm vi nghiên cứu4
II/ PHẦN NỘI DUNG.
Chương 1: Những vấn đề chung về thương mại quốc tế và tổng quan về hiệp
định thương mại Việt - Mỹ.
1.Những vấn đề chung về thương mại quốc tế5
1.1.Khái niệm5
1.2.Quá trình hình thành, phát triển và lợi ích của thương mại quốc tế5
2.Tổng quan về hiệp định thương mại Việt – Mỹ6
2.1.Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới6
2.2.Lợi ích mà Việt Nam thu được trong quan hệ thương mại với Mỹ7
2.3Lợi ích mà Mỹ thu được trong quan hệ thương mại với Việt Nam8
2.4.Những nội dung chủ yếu của hiệp định thương mại Việt – Mỹ9
2.4.1.Thương mại hàng hóa.11
2.4.2.Quyền sở hữu trí tuệ12
2.4.3.Thương mại dịch vụ13
2.4.4.Quan hệ đầu tư16
Chương 2:Quan hệ thương mại Việt– Mỹ theo hiệp định thương mại Việt– Mỹ.
1.Quan hệ Việt – Mỹ trước khi Mỹ hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam17
2.Quan hệ Việt – Mỹ sau khi Mỹ hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt – Nam18
3.Quan hệ thương mại Việt – Mỹ theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ19
3.1.Đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa18
3.2.Đối với lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ23
3.3.Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ24
3.4.Đối với lĩnh vực quan hệ đầu tư26
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại Việt – Mỹ.
1.Các giải pháp từ phía nhà nước28
2.Các giải pháp từ phía doanh nghiệp31
Kết luận36
Danh mục tài liệu tham khảo37
Mục lục38
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2225 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan hê thương mại Việt-Mỹ theo hiệp định thương mại Việt-Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác thoả thuận hợp tác song phương về Sở hữu trí tuệ với Úc, Thái Lan, Pháp và tham gia Hiệp định khung về hợp tác Sở hữu trí tuệ của các nước thành viên khối ASEAN. Chủ trương chung của Việt Nam là sẽ gia nhập Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật cũng như chuẩn bị các điều kiện để gia nhập WTO nhằm mở rộng toàn diện nguyên tắc “làm việc theo pháp luật” trong lĩnh vực bảo hộ Sở hữu trí tuệ trên quy mô quốc tế. Hiệp định Quyền tác giả được ký giữa Việt Nam và Mỹ ngày 27/6/1997 giúp Việt Nam tăng cường thêm một bước công tác quản lý các hoạt động văn hoá thông tin nhằm ngăn chặn việc phổ biến các tác phẩm có nội dung không lành mạnh tại Việt Nam, hạn chế tệ sử dụng tác phẩm của Mỹ mà không chịu trả tiền để kinh doanh kiếm lời của một số tổ chức và cá nhân trong nước. Ngoài ra, thông qua việc thực hiện Hiệp định, các tác phẩm của Mỹ sẽ được lựa chọn kỹ hơn và phổ biến ở Việt Nam với nội dung và hình thức tốt hơn. Quyền Sở hữu trí tuệ được đề cập trong chương 2 của Hiệp định. Việt Nam nhất trí tuân thủ hoàn toàn các quyền Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) trong tất cả các lĩnh vực trong một khuôn khổ thời gian ngắn bao gồm: Việc bảo hộ bản quyền và nhãn hiệu hàng hoá trên cơ sở TRIPs được thực thi trong 12 tháng; bảo hộ các bí mật thương mại và bản quyền trên cơ sở TRIPs được thực thi trong 18 tháng. Việt Nam đồng ý thực hiện những biện pháp bảo hộ mạnh mẽ hơn trong một số lĩnh vực khác như tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, bảo hộ bản quyền đối với các động vật và thực vật, bảo hộ những dữ liệu kiểm tra bí mật được trình cho các Chính phủ. Đối với trường hợp bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hoá, sẽ được thực hiện theo giai đoạn là 30 tháng. Theo Hiệp định thương mại song phương, phía Mỹ cam kết thực thi quyền Sở hữu trí tuệ được ký kết kể từ ngày Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực trừ các nghĩa vụ tại Điều 8 và Điều 3.1 liên quan đến việc bảo hộ thiết kế bố trí (topography) mạch tích hợp được thi hành sau 24 tháng kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định cũng quy định trường hợp có xung đột giữa các quy định của Hiệp định này và Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ về quyền tác giả, ký tại Hà Nội ngày 27/6/1997 thì các quy định của Hiệp định này được ưu tiên áp dụng trong phạm vi xung đột.
2.4.3. Thương mại dịch vụ.
Thương mại dịch vụ được đề cập trong chương 3 của Hiệp định. Chương này áp dụng cho các biện pháp của các bên có ảnh hưởng tới dịch vụ thương mại. Các cam kết chung bao gồm: Các quy định của khuôn khổ Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ (GATS) bao gồm Tối huệ quốc, Đãi ngộ quốc gia và Pháp luật quốc gia.Về các lĩnh vực và ngành cụ thể:
Các dịch vụ pháp lý: Các nhà dịch vụ Mỹ có thể cung cấp dịch vụ dưới hình thức chi nhánh, công ty 100% vốn Mỹ; các chi nhánh này nhận được giấy phép hoạt động là 5 năm và có thể được gia hạn mỗi lần không quá 5 năm. Các dịch vụ kế toán, kiểm toán: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ được hoạt động trong lĩnh vực này. Giấy phép được cấp trên cơ sở từng trường hợp, có hiệu lực trong 3 năm, không có giới hạn sau đó. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, không giới hạn sau đó.
Các dịch vụ kiến trúc: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ được phép kinh doanh. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó không hạn chế.
Các dịch vụ kỹ thuật: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó không giới hạn.
Các dịch vụ về vi tính và các dịch vụ liên quan: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ. Có thể cung cấp dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó không hạn chế.
Các dịch vụ quảng cáo: Chỉ các liên doanh với các đối tác Việt Nam mới được phép kinh doanh một cách hợp pháp các dịch vụ quảng cáo. Phần góp vốn của phía Mỹ không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực hạn chế này là 51% và 7 năm sau sẽ không hạn chế về tỷ lệ góp vốn từ phía Mỹ trong các liên doanh.
Các dịch vụ tư vấn quản lý: Chỉ thông qua các công ty liên doanh 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực được phép lập các công ty 100% vốn Mỹ.
Các dịch vụ viễn thông:
- Các dịch vụ viễn thông có giá trị gia tăng: liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 2 năm (3 năm đối với dịch vụ Internet), vốn của Mỹ không quá 50% vốn pháp định của liên doanh.
- Các dịch vụ viễn thông cơ bản (bao gồm mobile,cellular và vệ tinh): liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 4 năm, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
- Dịch vụ điện thoại cố định: liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 6 năm, vốn đóng góp của phía Mỹ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Phía Việt Nam có thể xem xét những yêu cầu tăng vốn đóng góp từ phía Mỹ khi Hiệp định này được xem xét lại sau 3 năm.
Các dịch vụ nghe nhìn: Bao gồm các dịch vụ sản xuất và phân phối phim, các dịch vụ chiếu phim. Liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ nghe nhìn, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49% và sau 5 năm hạn chế về vốn này sẽ là 51%.
Các dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ có liên quan: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 3 năm đầu tiên, sau đó không hạn chế.
Các dịch vụ phân phối ( bán buôn và bán lẻ): Được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49%. Sau 6 năm Hiệp định có hiệu lực hạn chế về vốn này sẽ được bãi bỏ.
Các dịch vụ giáo dục: Chỉ dưới các hình thức liên doanh, 7 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực sẽ được phép lập trường học với 100% vốn Mỹ.
Các dịch vụ tài chính:
- Các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và các bảo hiểm không bắt buộc: được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 50%. Sau 5 năm được phép 100% vốn Mỹ.
- Các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trong xây dựng...): được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, không giới hạn vốn đóng góp của phía Mỹ, sau 6 năm được phép 100% vốn Mỹ.
Các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính liên quan khác:
- Các nhà cung cấp, công ty thuê mua tài chính và ngoài ngân hàng: được phép thành lập công ty liên doanh trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, cho phép 100% vốn Mỹ.
- Ngân hàng: sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Mỹ được phép thành lập ngân hàng chi nhánh 100% vốn Mỹ tại Việt Nam .Trong thời gian 9 năm đó các ngân hàng Mỹ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần góp vốn của đối tác Mỹ không dưới 30% và không quá 49%.
- Các dịch vụ chứng khoán: các nhà kinh doanh chứng khoán Mỹ chỉ được lập văn phòng đại diện tại Việt Nam .
Các dịch vụ y tế: Được phép thành lập các cơ sở chữa bệnh 100% vốn Mỹ. Vốn đầu tư tối thiểu cho bệnh viện là 20 triệu USD, phòng khám đa khoa là 2 triệu và phòng khám chuyên khoa là 1 triệu USD.
Các dịch vụ du lịch và dịch vụ lữ hành liên quan:
- Các dịch vụ khách sạn và nhà hàng: các công ty cung cấp dịch vụ Mỹ cùng với việc đầu tư xây dựng khách sạn nhà hàng được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn Mỹ.
- Các dịch vụ đại lý và điều phối du lịch lữ hành: được phép lập liên doanh, phần góp vốn phía Mỹ không quá 49% và 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực hạn chế này là 51% và 5 năm sau hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
2.4.4. Quan hệ đầu tư.
Các cam kết chung bao gồm: Các hoạt động đầu tư của mỗi nước đều được nước đối tác cam kết bảo hộ, Việt Nam đảm bảo việc bảo hộ các công ty Mỹ không bị sung công các khoản đầu tư của họ tại Việt Nam.
Các chuyển khoản tài chính: Cho phép đối tác Mỹ được đem về nước các khoản lợi nhuận và các chuyển khoản tài chính khác trên cơ sở đãi ngộ quốc gia.
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs): Phía Mỹ cam kết thực hiện ngay từ đầu, Việt Nam sẽ huỷ bỏ dần các TRIMs không phù hợp với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO trong 5 năm như những quy định về tỷ lệ số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước.
Đối xử quốc gia: Việt Nam cam kết thực hiện chế độ Đối xử quốc gia với một số ngoại lệ. Việc thẩm tra giám sát đầu tư sẽ được dần huỷ bỏ hoàn toàn đối với hầu hết các khu vực trong giai đoạn 2, 6 hoặc 9 năm (tuỳ thuộc vào loại khu vực đầu tư, ví dụ, đầu tư trong các Khu Công nghiệp hay trong khu vực sản xuất), tuy nhiên Việt Nam duy trì quyền áp dụng thẩm tra giám sát trong những khu vực ngoại lệ nhất định.
Loại bỏ việc giới hạn đóng góp vốn trong các liên doanh: Quy định hiện nay đối với phần góp vốn phía Mỹ trong các công ty liên doanh ít nhất phải 30% vốn pháp định; loại bỏ những quy định bán cổ phần phía Mỹ trong liên doanh cho đối tác Việt Nam. Phía Mỹ chưa được thành lập công ty cổ phần và chưa được phát hành cổ phiếu ra công chúng, chưa được mua quá 30% vốn của một công ty cổ phần. Những ràng buộc này sẽ duy trì trong vòng 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực.
Bộ máy nhân sự của liên doanh: Trong vòng 3 năm huỷ bỏ quy định về số thành viên nhất định người Việt Nam trong Ban giám đốc; giới hạn mạnh mẽ các vấn đề trong đó “sự nhất trí” của ban giám đốc phải đạt được (ví dụ, trong vấn đề đó các thành viên Việt Nam có quyền phủ quyết); cho phép các nhà đầu tư Mỹ được phép tuyển chọn nhân sự quản lý không phụ thuộc vào quốc tịch. Phía Việt Nam cũng cam kết ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực sẽ loại bỏ dần tất cả các đối xử không công bằng về giá đối với các công ty và các cá nhân Mỹ như phí lắp đặt điện thoại và các dịch vụ viễn thông khác, các phí vận tải, thuê mướn nhà xưởng, trang thiết bị, giá nước và dịch vụ du lịch. Trong vòng 2 năm sẽ bỏ chế độ hai giá đối với đăng ký ô tô, giá dịch vụ cảng và giá đăng ký điện thoại. Trong vòng 4 năm sẽ bỏ hẳn chế độ hai giá đối với mọi hàng hoá và dịch vụ kể cả giá điện hay vé máy bay.
Chương II: Quan hệ thương mại Việt – Mỹ theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
1.Quan hệ Việt – Mỹ trước khi Mỹ hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam.
Nhìn từ góc độ lịch sử, quan hệ thương mại Việt – Mỹ đã bắt đầu cách đây hơn 150 năm , với những thương vụ lẻ tẻ . Thậm chí ngay trong thời kì Hoa kì đơn phương áp đặt lệnh cấm vận đối với việt nam (Từ 5/ 64 – 2/94 ) thông qua con đường gián tiếp , Việt nam có thể xuất khẩu sang Mỹ tuy rằng không đáng kể. Thời kỳ 1986 – 1989 xuất khẩu của Việt nam sang Hoa kì gần như bằng không. Nhưng đến năm 1990, Việt nam xuất sang Hoa kì một lượng hàng trị giá khoảng 5000USD, năm 1991 tăng lên 9000USD, năm 1992 tăng lên 11000USD và năm 1993 là 58000USD.
2.Quan hệ Việt – Mỹ sau khi Mỹ hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam.
- Ngày 3/2/1994 Tổng thống Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với việt nam. Tiếp đó Bộ thương mại Mỹ chuyển Việt nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Cuba) lên nhóm Y – là nhóm ít hạn chế về thương mại hơn (gồm Mông Cổ, Lào, Campuchia, Việt Nam, cùng một số nước Đông Âu và Liên Xô cũ). Bộ vân tải và Thương mại Mỹ cũng bỏ lệnh cấm vận tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam được nhập cảnh Mỹ. Trong năm này thì Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ lượng hàng hoá trị giá 50,5 triệuUSD (Trong đó hàng nông nghiệp chiếm 38,3 triệu USD tức 76% giá trị suất khẩu sang hoa kỳ) và hàng phi nông nghiệp chiếm 12,15 triệu USD (24%).
- Ngày 11/7/1995 Hoa kỳ tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Năm 1995, Việt nam xuất khẩu sang hoa kỳ 200 triệu USD ( gấp 4 lần năm 1994 ) trong đó hàng nông nghiệp là 152USD ( chiềm 76% giá trị xuất khẩu sang Hoa kỳ ) hàng phi nông nghiệp chiếm 48 triệu USD(24%).
- Năm 1996 là năm hai nước bắt đầu quá trình đàm phán Hiệp định thương mại song phương. Xuất khẩu đạt 306 triệu USD trong năm này.
- Năm 1997, Đại sứ Mỹ và Đại sứ Việt Nam nhậm chức tại Thủ Đô mỗi nước, đồng thời hai nước thoả thuận thiết lập quan hệ song phương về bản quyền để tạo điều kiện cho sản phẩm trí tuệ có mặt tại thị trường Việt Nam. Xuất khẩu của Việt Nam trong năm này sang Mỹ đạt 372 triệu USD. Hàng nông nghiệp chiếm 46% (106,5 triệu USD) hàng phi nông nghiệp đạt 54% (126,203triệu USD).
Năm 1998 và 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hoa Kỳ tiếp tục tăng đạt 519,5 triệu USD và 601,9 triệu USD.
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 827,4 triệu USD, tăng 37,4% so với năm 1999.
Riêng quý I năm 2001xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 74,4 triệu USD (so với 46,4 triệu USD cùng kỳ năm 2000).
3.Quan hệ thương mại Việt – Mỹ theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
3.1.Trong lĩnh vực thương mại hàng hóa.
Mỹ là nước lớn với dân số 271,8 triệu người và là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất. Thế giới xem Mỹ là thị trường khổng lồ vì có sức mua lớn khoảng 7.000 tỷ USD/năm. GDP năm 1999 của Mỹ là 9.256 tỷ USD (gấp 300 lần Việt Nam ).Trên thế giới có 100 tập đoàn kinh tế làm ăn có hiệu quả nhất thì có 61 tập đoàn là của Mỹ. Theo số liệu của Bộ Thương mại thì năm 1999 kim ngạch xuất khẩu của Mỹ là 960 tỷ USD nhưng kim ngạch nhập khẩu của họ lên tới 1.230 tỷ USD, trong đó hàng dệt may khoảng 40 tỷ USD, hải sản 7,431 tỷ USD, cà phê 2,820 tỷ USD, dầu thô 35,192 tỷ USD và giày dép 13-14 tỷ USD. Mấy năm qua hàng Việt Nam vào Mỹ phần lớn phải chịu mức thuế cao tới 40% nhưng kim ngạch xuất khẩu của ta sang Mỹ vẫn tăng đáng kể. Theo số liệu của Hải quan Hoa Kỳ, năm 1994 kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ ở mức 50,4 triệu USD nhưng đến 1996 đã lên đến 308 triệu USD và trong năm 1999 là 601,9 triệu USD, tăng gấp 12 lần, bình quân một năm tăng 64,2%, cao gấp gần 3 lần tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Có một số mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ đã đạt kim ngạch khá và tăng qua các năm như cà phê, giày dép, đồ thêu ren, rau quả, cao su...Việt Nam cũng xuất sang Mỹ dầu thô, hàng may mặc. thịt cá, hải sản tươi sống, sành sứ, gốm, đồ da, đồ bọc da, đồ gỗ gia dụng...Riêng mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, trong 6 tháng đầu năm 2000 đã đạt gần 123 triệu USD, gấp 2,1 lần cùng kỳ năm 1999 và chiếm 22% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của nước ta. Ngân hàng thế giới (WB) nhận định khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực thì kim ngạch xuất khẩu và nhóm hàng hoá như gạo, dệt may, cà phê, hải sản... xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ có thể tăng từ 600 triệu USD hiện nay lên 800 triệu USD/năm.
Hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam đã tranh thủ xuất khẩu sang thị trường Mỹ những mặt hàng có thuế suất nhập khẩu bằng “0” như cà phê, tôm đông lạnh, quế và cao su tự nhiên ngày càng nhiều (trung bình tăng 10%). Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng này đạt gần 300 triệu USD. Những mặt hàng đang chịu mức thuế cao cũng được đưa nhanh vào thị trường Mỹ như giày dép năm 1995 mới xuất sang Mỹ được 7 triệu USD, đến năm 1996 lên đến 39 triệu USD, năm 1998: 111 triệu USD và hiện nay đã trở thành nước đứng thứ 12 trong số các nước xuất khẩu giày dép vào thị trường Mỹ; hàng dệt may xuất sang Mỹ cũng tăng khoảng 3- 4 lần, năm 1995 là 2,7 triệu USD, năm 1997 là 7 triệu USD và năm 1999 là 70 triệu USD...chắc chắn, khi Hiệp định thương mại có hiệu lực mức thuế các mặt hàng này sẽ giảm từ 1,5 đến 2 lần, hàng dệt may giảm từ 2,5 đến 10 lần, dầu mỏ giảm 4 lần, gạo giảm 3 lần. Các mặt hàng như dứa, mật ong của Việt Nam trước đây nhập vào Mỹ mức thuế thường cao gấp 10 lần so với các nước khác. Nhưng khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ cũng như những Hiệp định liên quan khác có hiệu lực, tất cả các mặt hàng có thuế suất cao sẽ giảm xuống ngang bằng mức thuế suất các nước khác có quan hệ tối huệ quốc, sẽ thực sự là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá của mình sang Mỹ vì khi đó hàng Việt Nam vào Mỹ thuế trung bình sẽ giảm từ 40% xuống 3%. Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt- Mỹ tạo cơ hội cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ, đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, từ đó góp phần nâng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân xuất nhập khẩu trong quan hệ thương mại với Mỹ.
* Hàng nông sản:
Khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, ta sẽ thuận lợi hơn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. Mặt hàng rau tươi xuất sang Mỹ chênh lệch giữa có MFN và phi MFN là 10% và 50% nên khi có MFN, nước ta có thể xuất khẩu hàng chục triệu USD rau quả tươi sang Mỹ, nếu đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt của Mỹ (Thuế suất của rau quả giảm từ 22 cent/kg xuống còn 1cent/kg và quả tươi giảm từ 10cent/kg xuống 0,4cent/kg, chè xanh từ 20% xuống 7%). Hiện nay mỗi năm Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ 30 triệu USD hạt điều. Các chuyên gia Bộ Thương mại dự đoán kim ngạch xuất khẩu hạt điều có thể tăng lên gấp đôi (60 triệu USD) nếu các doanh nghiệp sản xuất và chế biến mặt hàng này đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng. Nước ta mỗi năm xuất sang Mỹ trên 100 triệu USD cà phê. Các nhà xuất khẩu cà phê Việt Nam đã có kinh nghiệm trụ ở thị trường Mỹ nên khả năng xuất khẩu mặt hàng này sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.
* Hàng dệt may:
Hiệp định thương mại Việt- Mỹ vừa được ký kết đã mở ra nhiều triển vọng mới cho ngành dệt may trong thời gian tới bởi Mỹ luôn đứng đầu các nước trên thế giới về nhập khẩu hàng dệt may. Theo tình hình hiện nay, sau khi Việt Nam được hưởng Quan hệ Thương mại bình thường, Việt Nam có thể xuất khẩu vào Mỹ với kim ngạch xấp xỉ 1 tỷ USD ngay từ năm đầu tiên nếu chuẩn bị tốt các điều kiện. Khả năng gia tăng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào Mỹ có nhiều triển vọng do giá lao động thấp, các công ty Mỹ sẽ tìm kiếm nguồn hàng giá thành rẻ với số lượng lớn tiêu thụ ở Mỹ. Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam với chất lượng cao và chủng loại phong phú đã được các thị trường khó tính Nhật và EU chấp nhận sẽ dễ dàng chinh phục khách hàng Mỹ nhất là khi thuế quan bị cắt giảm bởi quy chế TNTR. Tuy nhiên, theo Bộ Thương mại, hàng dệt may là mặt hàng được bảo hộ cao bằng hàng rào thuế quan và hạn ngạch, trong quan hệ song phương sẽ là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất. Nếu mở được thị trường này, hàng dệt may của Việt Nam theo khả năng sản xuất có thể thu hút được các nước khác đầu tư vào Việt Nam làm hàng xuất khẩu đi Mỹ.
* Hàng giày dép:
Mức tiêu thụ giày dép của Mỹ rất lớn, chỉ cần giành được 10% thị trường này cũng có thể đạt kim ngạch trên 1,5 tỷ USD, lớn hơn tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép mà Việt Nam có thể đạt được trong năm nay. Bà Châu Huệ Cẩm, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhận định với thị trường Mỹ, hàng da giày của Việt Nam có thể tham gia vào thị trường “thượng lưu” nếu đi kèm với mác của các hãng nổi tiếng như Adidas, Reebok. Còn với phân khúc thị trường “hạ lưu” thì phải cạnh tranh với hàng của Trung Quốc. Tuy vậy, thị trường Mỹ cũng không khó tính, nếu đã vào được thì khả năng trụ lại là không quá khó khăn. Nhận xét về khả năng tăng tốc của ngành Da Giày Việt Nam , một chuyên gia của Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Thương mại) khẳng định, với Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, thuế suất thuế nhập khẩu từ mức 35% trước đây sẽ chỉ còn 20% đối với mặt hàng giày dép của Việt Nam sang Mỹ.
Trước thời điểm Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, sản phẩm giày dép Việt Nam xuất khẩu tới hơn 40 nước, trong đó thị trường chủ yếu là các nuớc EU, Mỹ, Nhật. Việt Nam được đánh giá là một trong 5 nước có số lượng giày dép tiêu thụ nhiều nhất ở EU, do lợi thế giá rẻ, chất lượng và mẫu mã chấp nhận được với loại sản phẩm chủ yếu là giày thể thao.
* Hàng thuỷ - hải sản:
Mỹ là nước nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai trên thế giới sau Nhật Bản Các loại thuỷ sản nhập khẩu nhiều là: Tôm, tôm hùm, sò, cua , trong đó tôm có giá trị lớn nhất (trên 2 tỷ USD/năm ).Năm 1992 Mỹ nhập 4,8 tỷ USD thuỷ sản các loại. Năm 1998 con số này đã tăng lên 6,7 tỷ USD tăng 40% so với năm 1992. Năm 1999 nhập khẩu thuỷ sản vào Mỹ tăng lên mức kỷ lục 9,3 tỷ USD. Việt Nam bắt đầu xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ năm1994, nhưng với kim ngạch rất nhỏ bé là 6 triệu USD. Tuy nhiên, đây là mặt hàng có tốc độ xuất khẩu tăng nhanh nhất trong các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ bởi vì Việt Nam chưa được hưởng chế độ MFN của Mỹ nhưng mức chênh lệch giữa mức thuế phi MFN và mức MFN là không lớn lắm. Nếu giá trị xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản sang Mỹ năm 1995 mới là 16,8 triệu USD thì năm 1996 đã tăng lên 28,5 triệu USD vào năm 1997 là 46,3 triệu USD. Giá trị xuất khẩu năm 1998 là 80,6 triệu USD tăng 89% so với năm 1997. Trong giai đoạn 1995-1999 kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Mỹ tăng 6,5lần , từ 16,8 triệu USD lên 108,1 triệu USD. Năm 2000 mặt hàng này vẫn dữ vị trí hàng đầu trong danh sách hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ với kim ngạch 242,9 triệu USD chiếm 29,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ .
Trong các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ thì tôm và cua vẫn là các mặt hàng chủ lực đặc biệt là tôm. Năm 1997 Việt Nam xuất khẩu được 3074 tấn tôm trị giá 31,32 triệu USD chiếm 73,69% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ. Năm 1998 trị giá này lên tới 66,89 triệu USD tương đương 6125,7 tấn, nâng tỷ trọng tôm lên 83% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ trong năm.
Năm 1999 tỷ trọng trên vẫn được giữ vững với 9100 tấn tôm, trị giá 96,5 triệu USD.
Như vậy tuy đến với thị truờng Mỹ hơi muộn nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản không ngừng tăng trong mấy năm qua. Theo FAO: Năm 1998 Việt Nam đứng thứ 10 trong 130 nước xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ và tới tháng 4 năm 2000 Việt Nam đứng ở vị trí thứ 8.
3.2.Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Hai bên cam kết bảo hộ quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, mạch tích hợp, kiểu dáng công nghiệp... kèm theo chế tài. Các cam kết dựa trên 3 nguyên tắc:
- Một là: không vượt quá quy định của WTO
- Hai là: không vượt quá phổ biến của các nước khác trong hiệp định song phương mà Hoa kỳ đã ký với các nước đó;
- Ba là: thể hiện được điều kiện cụ thể của các bên ký kết.
Tuy nhiên lĩnh vực này còn mới mẻ đối với VN nên HĐ cho phép VN chuẩn bị các điều kiện thực hiện với thời hạn ngắn nhất là 12 tháng và dài nhất là 30 tháng kể từ khi HĐ có hiệu lực.
Vì vậy, "Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là một yếu tố then chốt với tư cách thành viên WTO và là lĩnh vực quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp Mỹ", đối với Việt Nam đây có thể là một thách thức nhưng nếu thành công trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thì sẽ rất có lợi trong mối quan hệ kinh tế song phương Việt Mỹ.
Sở hữu trí tuệ là một trong ba vấn đề trụ cột của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) bên cạnh thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ, được điều chỉnh bởi Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền SHTT (TRIPS). Các quy định của TRIPS về cơ bản giống với các quy định của hiệp định song phương giữa VIệt Nam và Hoa Kỳ được ký và tháng 12.2001 (HĐTM Việt - Mỹ).
Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp định song phương liên quan đến quyền tác giả như: Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả Việt Nam – Hoa Kỳ năm 1997); Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (năm 2000). Theo cam kết tại các Hiệp định song phương với Hoa Kỳ, và một số tổ chức khác, Việt Nam đã gia nhập Công ước Giơ-ne-vơ, Công ước Brúc-xen và tuân thủ các quy định của Hiệp định TRIPS (Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ).
Hiện nay, về vấn đề sở hữu trí tuệ, đã xảy ra một số bất cập như nạn sao chép tác phẩm, vi phạm nhãn hiệu hang hóa gây ra nhiều thiệt hại. các bản ghi âm ghi hình, chương trình máy tính có giá trị chung bị sao chép lậu, các nhãn hiệu nổi tiếng bị làm nhái, làm giả . môi trường kĩ thuật số nói chung, môi trường kĩ thuật số nói riêng đã bị khai thác với động cơ vụ lợi xâm phạm quyền tác giả nghiêm trọng đối với các loại hình văn học nghệ thuật và khoa học. Một số vụ đã được các tổ chức quốc tế, các quốc gia và doanh nghiệp xử lý chặt chẽ. Vì thế, Việt Nam đã có những sửa đổi, bổ sung Luật sở hữu trí tuệ để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp ở Mỹ có thể tiếp cận được hệ thống pháp luật hoàn thiện, hiện đại, phù hợp với thực tiễn. từ đó thúc đẩy mối quan hệ song phương giữa Mỹ và Việt Nam.
3.3.Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
- lĩnh vực pháp lý: Xét ở góc độ kinh tế thì dịch vụ pháp lý cũng có thể được xem như một ngành dịch vụ thương mại đặc biệt. Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ cũng xếp đây là một loại hình dịch vụ thương mại mà Việt Nam sẽ mở cửa theo lộ trình cho các nhà đầu tư Mỹ. Thật dễ hiểu khi một loạt các hãng luật nước ngoài đã có mặt ở Việt Nam từ rất sớm kể từ sau chính sách mở cửa như Baker & McKenzie (Mỹ), PricewaterhouseCoopers Legal (Mỹ), Vovan & Associés (Pháp), Russin & Vecchi (Mỹ), Lucy Wayne & Associates (Anh), Clifford Chance (Anh)… Song song đó, số lượng các văn phòng luật sư và các hãng luật trong nước cũng vùn vụt tăng. Một số công ty luật Việt Nam như VILAF-Hồng Đức, YKVN, Investconsult, Thang & Associates, Vision & Associates… đã bắt đầu được mời tham gia tư vấn trong các dự án kinh tế lớn, các hợp đồng trị giá hàng chục, hàng trăm triệu đô la Mỹ hoặc được thuê tham gia tư vấn, giải quyết trong các vụ tranh chấp thương mại quốc tế mà điển hình là các vụ kiện chống bán phá giá gần đây ở Mỹ. Điều quan trọng nữa là các luật sư không chỉ cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng mà thông qua dịch vụ ấy còn góp phần quảng bá chính sách pháp luật và nhờ vậy một cách gián tiếp họ đã góp phần vào việc thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. So với nhiều ngành nghề khác, chi phí đầu tư cho dịch vụ pháp lý hầu như không tốn kém. Thậm chí, cơ sở vật chất của nhiều văn phòng luật sư hiện nay không bằng một thẩm mỹ viện. Vì vậy, với những lợi ích to lớn do dịch vụ này mang lại thì rõ ràng đây là một ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao.
- Lĩnh vực tài chính: Mới đây ngân hàng Welsfago của Mỹ, có trụ sở chính ở San Francisco, đã hợp tác với Ngân hàng Công Thương Việt Nam (IncomBank) để cung cấp dịch vụ chuyển tiền giữa Mỹ và Việt Nam. Ông D.Elar, Phó Giám đốc đặc trách chuyển tiền toàn cầu của Ngân hàng Welsfago, cho biết mức lệ phí chuyển tiền giữa Welsfago và Ngân hàng Công Thương Việt Nam dự kiến là 8 USD/1.000 USD tiền chuyển. Về thủ tục đối với khách hàng ở Mỹ, người muốn gửi tiền có thể đến 1 trong 3.000 địa điểm giao dịch của Welsfago trên khắp nước Mỹ để mở một tài khoản chuyển tiền quốc tế về Việt Nam. Một khi khách hàng đã ký thác một số tiền vào tài khoản này thì trong vòng 24 giờ đồng hồ, người nhận tiền bên Việt Nam có thể đến Ngân hàng Công Thương để nhận tiền bằng đồng USD. Theo thống kê, trong năm 2006, cộng đồng người Mỹ gốc châu Á gửi về quê hương khoảng 80 tỷ USD để sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Trong số tiền này, người Mỹ gốc Trung Quốc, Philippines và Việt Nam chiếm khoảng 30%.
- Lĩnh vực giáo dục: Về giáo dục, hiện Chính phủ Việt Nam đang chủ trương nâng cấp các trường đại học Việt Nam cả về tổ chức và chất lượng. Việt Nam đã hợp tác hết sức chặt chẽ với Mỹ trong lĩnh vực này và Mỹ cũng sẵn sàng hỗ trợ để xây dựng các trường đại học của Mỹ ở Việt Nam hoặc các trường đại học Việt-Mỹ trên đất Việt Nam.
- Ngoài ra các lĩnh vực dịch vụ khác như du lịch, quảng cáo, truyền thông,… giữa hai nước cũng đang phát triển khá mạnh mẽ và đạt được những thành tựu đáng kể trong thời gian gần đây điều này hứa hẹn tiềm năng cho một sự phát triển lên một tầm cao mới cho quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trong thời gian xắp tới.
- Về phương hướng phát triển của quan hệ Việt-Mỹ trong năm 2010, Đại sứ Lê Công Phụng nhấn mạnh quan hệ Việt-Mỹ là mối quan hệ rất đặc biệt, có tính đặc thù riêng so với quan hệ giữa Việt Nam với các nước khác, xuất phát lịch sử chiến tranh để lại.
- Năm 2010, hai bên sẽ kỷ niệm 15 năm bình thường hóa quan hệ. Bộ Ngoại giao Mỹ cũng như các cơ quan liên quan muốn hai nước tổ chức trọng thể sự kiện này. Dự kiến, trong năm tới sẽ có các chuyến viếng thăm lẫn nhau của các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước. Những cuộc viếng thăm đó sẽ là động lực quan trọng góp phần thúc đẩy sự hợp tác giữa hai bên. Ngoài ra, năm 2010, Việt Nam sẽ đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN. Mỹ đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong ASEAN và mong muốn Việt Nam giúp tăng cường mối quan hệ giữa Mỹ với ASEAN, trên cơ sở đó cùng Mỹ giải quyết các vấn đề tồn tại để thúc đẩy quan hệ với các nước Đông Nam Á.
3.4.Trong lĩnh vực quan hệ đầu tư.
Liên quan đến đầu tư , hiệp định thương mại Việt-Mỹ có các bảo đảm về đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia, minh bạch và bảo vệ trong trường hợp tước quyền sở hữu. Bên cạnh đó Việt Nam cũng tiến hành một số thay đổi trong cơ chế đầu tư của mình như: thẩm định đầu tư, chuyển đổi lợi nhuận ra ngoại tệ, ngưỡng góp vốn, các yêu cầu về nhân sự đối với liên doanh tính minh bạch….Dựa trên những thay đổi và cam kết được kí trong Hiệp định, quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực đầu tư đã có nhiều bước phát triển nhanh và thiết thực.
Cho đến năm 2005, Mỹ đã có 248 dự án tại Việt Nam với tổng trị giá khoảng 2 tỷ USD, trong đó 209 dự án trị giá 1,3 tỷ USD đang còn hiệu lực. Môi trường kinh doanh được cải thiện, các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ đã và đang tiếp tục tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Trưa 21/6/2007 (giờ Mỹ), Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã chứng kiến lễ ký Hiệp định Khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA) giữa hai nước Việt - Mỹ, dọn đường cho việc đạt một thỏa thuận mậu dịch tự do. Hiệp định Thương mại Song phương (BTA), tư cách thành viên WTO của Việt Nam, Hiệp định Khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA) mở ra nhiều cơ hội hợp tác hơn nữa trong các vấn đề thương mại, lĩnh vực mà cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều ưu tiên. Hơn thế, những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO càng làm tăng niềm tin và sức hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư Mỹ, triển vọng đầu tư của Mỹ lại thêm phần sáng sủa. Với tổng số vốn đầu tư đạt 4,1 tỷ USD trong năm 2009, Hoa Kỳ đã trở thành nhà đầu tư đứng thứ 7 trong tổng số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Hãng tin DPA trích nguồn bộ phận thống kê của bộ này cho hay đầu tư từ các công ty Mỹ chiếm tới 37% lượng đầu tư nước ngoài từ đầu năm tới nay. Các dự án lớn của Mỹ tập trung trong lĩnh vực dịch vụ, như khách sạn và du lịch.
Nhiều doanh nghiệp Mỹ đã đề xuất về các dự án đầu tư của mình dự định chuyền khai ở Việt Nam như: Tập đoàn Alcoa Inc- tập đoàn hàng đầu thế giới về năng lượng và khai khoáng quan tâm đến việc phát triển quan hệ hợp tác với Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam và tỉnh Đăk Nông trong việc xây dựng một nhà máy tinh luyện nhôm công suất 1,5 triệu m3/năm. Tập đoàn Cummins mong muốn phát triển các hệ thống phân phối sản phẩm ngành điện lực, điện tử tại Việt Nam. Cummins cũng mong muốn thúc đẩy triển khai liên doanh sản xuất xe buýt và và xe tải cỡ lớn với một đối tác Việt Nam.Trong khi đó, Hãng Gannon - một nhà đầu tư quốc tế đa ngành mong muốn đẩy nhanh việc cấp phép xây dựng một khu công nghiệp và xây dựng một nhà máy điện ở Việt Nam. Hãng năng lượng điện lớn nhất thế giới AES quan tâm đến Dự án Nhiệt điện Nghi Sơn và Dự án Nhiệt điện Ô Môn; đồng thời hợp tác với các Tập đoàn lớn của Việt Nam như Petro Việt Nam, Tổng Công ty Sông Đà để phát triển các dự án năng lượng.
Để tăng cường thu hút đầu tư của Mỹ vào Việt Nam trong thời gian tới, có một số việc phải làm. Thứ nhất, về phía Việt Nam, chúng ta cần vừa đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư ở Mỹ, vừa tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư thuận lợi thông qua việc nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng các tiêu chuẩn và cam kết quốc tế, bảo đảm tính minh bạch, quyền sở hữu trí tuệ... Việc chúng ta tích cực trong việc gia nhập WTO và thực hiện tốt những cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập sẽ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư. Thứ hai, các nhà hoạch định chính sách của cả hai nước cần tăng cường trao đổi, tiếp xúc nhằm tìm ra các giải pháp tháo gỡ vướng mắc trong việc thực hiện các dự án đang triển khai và xúc tiến các dự án trong các lĩnh vực mà hai bên có nhiều tiềm năng. Thứ ba, hai bên cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho cộng đồng doanh nghiệp trao đổi, tiếp xúc nhằm thúc đẩy quá trình giao thương và đầu tư trực tiếp. Như vậy, vốn đầu tư của các công ty Mỹ vào Việt Nam sẽ tăng lên đáng kể trong thời gian tới.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN MỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – HOA KỲ.
- Như vậy tính cho đến thời gian này thì hiệp định thương mại Việt Mỹ đã có hiệu lực vài năm. Bên cạnh những cơ hội lớn trong giao lưu kinh tế thương mại song phương và đa phương thì những thách thức không phải là nhỏ. Những tranh chấp thương mại đã phát sinh, vẫn còn đang trong quá trình đàm phán để giải quyết và vẫn còn chưa biết bao giờ sẽ kết thúc. Chúng ta sẽ còn phải làm quen với những thách thức này vì những vụ tranh chấp thương mại trên không phải là những trở ngại đầu tiên và cũng không phải là những trở ngại cuối cùng trên con đường nước ta đang đi để hoà nhập kinh tế quốc tế.
- Để tiếp tục phát huy lợi ích của Hiệp định thương mại và cũng để tránh những trường hợp mang lại hậu quả đáng tiếc cho các doanh nghiệp của ta, Việt nam không còn cách nào khác là phải có sự tự chuyển đổi cho thích nghi phù hợp với xu hướng phát triển của thương mại thế giới và rút ngắn khoảng cách chênh lệch kinh tế hai nước. Điều này sẽ phải là kết quả tổng hợp của sự nỗ lực của nhà nước,doanh nghiệp, cá nhân với các giải pháp mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
I/ CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC:
1.Về mặt pháp lý:Với tư cách là chủ thể trong quản lý nền kinh tế quốc dân, cần nhanh chóng giải quyết môi trường pháp lý cho doanh nghiệp phát triển như:
Bổ sung luật và những văn bản dưới luật còn thiếu.
Rà soát lại những văn bản luật và dưới luật để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp tình hình hiện tại và thông lệ quốc tế. Chẳng hạn, chính phủ nên bổ sung sửa đổi điều 69 Luật lao động, điều chỉnh hạn mức tăng ca từ 200 giờ/năm lên 400 giờ/năm để các doanh nghiệp dệt may không vi phạm luật lao động mà vẫn đảm bảo thời hạn giao hàng cho các nhà nhập khẩu Mỹ.
Để đối phó với chiến tranh thương mại, nhà nước cần phải xây dựng được một khung pháp lý chống phá giá, phòng ngừa các doanh nghiệp nước ngoài bán phá giá tại thị trường Việt Nam, cũng như ngăn chặn kịp thời các doanh nghiệp trong nước tự phá giá, tạo cớ cho phía đối tác kiện tụng, gây ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh.
2.Về chính sách vốn.
Nhà nước cần có một chính sách tín dụng công bằng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cung cấp thông tin và tư vấn cho các doanh nghiệp lựa chọn, tiếp nhận công nghệ và trang thiết bị tiên tiến.
3.Trên lĩnh vực thông tin
Nhà nước cần phổ biến rộng rãi nội dung hiệp định cho các doanh nghiệp, các đoàn thể xã hội và nhân dân , để nhận thức rõ những thuận lợi và thách thức trong việc thực thi hiệp định tạo ra sự nhất trí về nhận thức tư tưởng, kịp thời có kế hoạch triển khai thực hiện theo chức năng ở các cấp, các ngành, địa phương, cơ sở đạt hiệu quả. Ngoài ra, nhà nước cần mở rộng cung cấp thông tin và giới thiệu các doanh nghiệp Việt Nam về luật lệ thương mại của Hoa Kỳ, kể cả của các bang.
4.Về mặt chính sách.
Nhà nước cần có sự hỗ trợ toàn diện doanh nghiệp thâm nhập thị trường Mỹ. Hỗ trợ không chỉ về mặt thông tin như đã đề cập ở trên mà còn hỗ trợ về:
Nghiệp vụ xuất nhập khẩu và tiếp thị bao gồm bao bì đóng gói, nhãn hiệu hàng hoá, đơn vị tính, bảo quản, lựa chọn phương thức vận chuyển, mở và thanh toán L/C, tìm đối tác, chọn kênh quảng cáo sản phẩm, khảo sát thị trường, tham gia hội chợ triển lãm, mở trang web...
Tài chính bao gồm hình thành các quỹ tín dụng xuất khẩu, đặc biệt ưu tiên cho những doanh nghiệp đã từng xuất khẩu thành công sang thị trường Mỹ.
Thậm chí có thể mạnh dạn đầu tư cho một số doanh nghiệp xuất khẩu được sản phẩm nhằm tạo bàn đạp mở rộng thị phần sang Mỹ.
Tổ chức, sắp xếp lại một số bộ phận thuộc các cơ quan thúc đẩy thương mại như phòng công nghiệp và thương mại, Bộ thương mại, Hải quan, tài chính và cơ quan thương vụ ở Mỹ.
5.Về chính sách phát triển nguồn nhân lực
Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa để việc thực hiện hội nhập có hiệu quả. Trên cơ sở đánh giá thực trạng cần nhanh chóng quy hoạch, đào tạo lại, đào tạo bố sung để điều chỉnh bố trí lại đội ngũ cán bộ (hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, cán bộ làm công tác hội nhập, điều hành quản lý...) đồng thời đẩy mạnh việc đào tạo nghề nâng cao trình độ đội ngũ công nhân.
Ngoài việc am hiểu về luật pháp của thị trường Mỹ cũng như luật thương mại quốc tế, cần phải có một đội ngũ chuyên viên thành thạo, đủ sức đối phó với các vụ kiện, sớm nắm bắt được thông tin để tư vấn cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp điều chỉnh kịp thời biến động của thị trường, học tập kinh nghiệm xử lý của các nước cũng bị kiện như mình. Thêm vào đó, nhà nước cũng cần có biện pháp huy động có hiệu quả cộng đồng ngưòi Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài và Hoa Kỳ tham gia vào việc xây dựng đất nước, lôi kéo bà con hướng về đất nước, vì sự nghiệp ích nước lợi nhà. Phần lớn Việt kiều ở Hoa Kỳ là những người có trình độ học vấn cao, nhiều người là chuyên gia, cố vấn, luật sư cho các hãng kinh doanh của Hoa Kỳ, khi có chính sách động viên tốt thì có thể khai thác được ưu thế này làm cầu nối để triển khai buôn bán và hợp tác kinh tế kỹ thuật với Hoa Kỳ.
Trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên tạp chí thương mại tết Nhâm Ngọ, ông Nguyễn Ngọc Mỹ- chủ nhiệm câu lạc bộ Việt kiều, thành viên hội đồng quản trị hiệp hội doanh nghiệp Việt kiều tại thành phố Hồ Chí Minh đã nêu bật được vai trò của Việt kiều trong việc đóng góp giúp doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ.ông nhấn mạnh Việt kiều sẽ là trung gian tức là có thể làm đại diện,làm marketing, làm nhà phân phối... cho các doanh nghiệp Việt Nam tại Mỹ. Họ chính là khâu tiền phương rất tốt vì họ sinh sống và làm việc ở đó, có những thông tin về thị trường cập nhật hơn các doanh nghiệp trong nước và tiết kiệm được chi phí.Hiện tại, câu lạc bộ Việt kiều đã và sẽ tổ chức các buổi hội thảo xoay quanh các vấn đề đầu tư, thương mại, các luật định của thị trường Mỹ. Nếu nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, quan tâm nhằm duy trì các hoạt động như vậy thì đây sẽ là nơi gặp gỡ hữu ích cho các doanh nghiệp Việt Nam học hỏi kinh nghiệm tránh vướng vào các rắc rối đáng tiếc có thể xảy ra.
Nhận thức rõ điều này ngày 12/3/2003, Chính phủ đã ban hành chương trình tổng thể thực hiện hiệp định thương mại Việt Mỹ với các nội dung là: phổ biến hiệp định, rà soát văn bản pháp luật, lộ trình mở cửa thị trường theo cam kết trong hiệp định và nâng cao khả năng cạnh tranh, kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, xúc tiến thương mại,đầu tư, du lịch, an ninh quốc phòng, đào tạo nguồn nhân lực. Hy vọng là những chương trình này sẽ được thực thi có hiệu quả.
II/ CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP:
Trong điều kiện của Việt Nam, hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc trước tiên vào sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, nhất là các đường lối, chủ trương, chính sách và sự chỉ đạo của các bộ ,ngành. Nếu sự lãnh đạo và chỉ đạo đó tạo được chân trời rộng lớn, tạo được động lực và chỗ dựa cho các doanh nghiệp hoạt động thì rõ ràng vấn đề còn lại là của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp có rất nhiều việc phải làm để phát huy vai trò của mình, để nâng cao năng lực quản lí và cạnh tranh. Nếu không có sự chuẩn bị tích cực và cụ thể thì chắc chắn doanh nghiệp Việt Nam sẽ không được hưởng lợi nhiều từ bản hiệp định này mà ngược lại dễ có thể biến thị trường nội địa rộng lớn của mình thành nơi tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu và sản xuất gia công một cách thuần tuý và tràn lan.
1.Trước tiên doanh nghiệp phải sản xuất kinh doanh tốt, có chất lượng và có uy tín.
Tuy nhiên đây không phải là một điều đơn giản. Có người cho rằng, cứ có sản phẩm chất lượng tốt, đạt yêu cầu tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm của Mỹ( trường hợp thuỷ sản) được người tiêu dùng Mỹ chấp nhận thì vẫn có thể tiếp tục xuất khẩu sang Mỹ. Thực tế có thể là như vậy nhưng trong làm ăn kinh doanh nên tránh trước những rắc rối kiện tụng, nhất là ở Mỹ. Để tránh được những rắc rối như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng tự lớn lên về công nghệ, về hiểu biết và kinh nghiệm quản trị kinh doanh, về luật và lệ của nước mình và nước sở tại để tiến vào làm ăn kinh doanh, về luật lệ quốc tế và Mỹ để chiến thắng trong kiện tụng, nếu buộc phải làm như vậy.
2.Doanh nghiệp không những phải sản xuất ra những sản phẩm tốt mà còn phải biết lựa chọn phương thức tiếp cận và mặt hàng thích hợp, tạo dựng thương hiệu riêng.
Cần chú ý đến việc tô điểm cho sản phẩm thông qua quảng cáo tiếp thị tốt, nhãn mác rõ ràng, giao hàng đúng thời hạn, bán những hàng mà người sở tại ưa thích.
3.Trước khi sản xuất doanh nghiệp cần xác định các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh.
Cần tập trung phát triển mạnh các sản phẩm chủ lực theo lợi thế so sánh nhằm nâng cao năng suất, giảm giá thành, hình thành thương hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Theo đánh giá hiện nay các mặt hàng như dệt may, giầy dép, thuỷ sản, cà phê, chè , hạt tiêu, hạt điều, rau quả, hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, đồ gốm, đồ gỗ, đồ da, sữa , đồ uống... chiếm khoảng 90% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, trong những năm trước mắt, những mặt hàng trên vẫn là những mặt hàng xuất khẩu quan trọng của ta. Do vậy cần đẩy mạnh công tác cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, đồng thời đổi mới công nghệ, trình độ quản lý để tăng sức cạnh tranh của mặt hàng này và phát triển các mặt hàng mới.
4.Phải tận dụng nguồn lao động dồi dào,giá nhân công rẻ, tiết kiệm chi phí đầu vào như điện, nước, thông tin vận tải... đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
Bằng cách đầu tư thiết bị máy móc đạt tiêu chuẩn vệ sinh, đổi mới công nghệ chế biến, thực hiện nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm xây dựng được 3 tiêu chuẩn: hệ thống quản lí chất lượng ISO 9000, hệ thống quản lí chất lượng môi trường ISO 1400, hệ thống tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000. Đây chính là những giấy thông hành để đưa hàng vào Mỹ.
5.Trong hoạt động xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp cần làm tốt công tác tiếp thị ở tầm vi mô.
Như lập bộ phận nghiên cứu thị trường, tiếp thị qua hội chợ triển lãm, tiếp thị qua mạng Internet, gửi thư giới thiệu những mặt hàng mới, xây dựng bộ phận đại điện thương mại của công ty ở thị trường Mỹ, tiếp cận các siêu thị và hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu sản phẩm Việt Nam, từng bước củng cố thương hiệu sản phẩm của công ty trên thị trường thế giới.
Việc các cơ quan kinh doanh, các tổ chức thương mại trong nước chuẩn bị các bước tiếp cận thị trường Mỹ cũng cần được tổ chức thật chu đáo, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước. Không thể biến việc chuẩn bị thị trường thành các chuyến "đi du lịch Mỹ không mất tiền túi", không nên kéo bầu đoàn thê tử lao vào những" cỗ máy ngốn tiền" mà không tính tới hiệu quả kinh tế và những đồng tiền mà mình sử dụng. Nhiều Việt kiều cho hay rất ngạc nhiên khi biết tin có đoàn Việt Nam sang đây trong đàm phán với đối tác đã tuyên bố là không cần biết chất lượng và giá cả mặt hàng mà các bạn hàng khác của Mỹ đưa ra, cho dù những mặt hàng của họ tương tự chủng loại hàng hoá của công ty anh ta. Anh này nói rằng giá của công ty anh ta định ra là vậy, bạn hàng không chấp nhận thì thôi, anh ta không cần, anh chẳng mất gì khi đối tác không chấp nhận sản phẩm mà công ty anh ta chào hàng. Gặp được khách hàng là đã hoàn thành nhiệm vụ và anh đã biết thế nào là nước Mỹ.
6. Để doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam vào được thị trưòng Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam phải làm quen với tập quán, tác phong khi đàm phán, kí kết hợp đồng với các nhà kinh doanh Mỹ.
Phải tìm hiểu và nắm vững luật pháp, chính sách ngoại thương của Hoa Kỳ. Đây là quốc gia có hệ thống pháp luật, chính sách về thương mại khá rắc rối và phức tạp.Việc nắm vững các điều kiện trên thực sự quan trọng khi các doanh nghiệp Việt Nam muốn bước ra “sân chơi” thế giới.
7.Dù không hề muốn nhưng các doanh nghiệp cũng cần phải làm quen với các vụ kiện tụng, giải quyết tốt các tranh chấp.
Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng được một cơ chế thống nhất. Trước hết , phải đoàn kết, thực hiện nghiêm chỉnh những quy định và tiêu chí về chất lượng sản phẩm, quy trình và điều kiện sản xuất, an toàn vệ sinh... phải tích hợp hai hệ thống quản trị chất lượng và quản trị môi trường trong quá trình sản xuất để cho ra các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đáp ứng mục tiêu và chức năng đã xác định, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, phù hợp với tiêu chuẩn quy định kỹ thuật, mang lại lợi nhuận và đủ sức cạnh tranh...Tiếp đó, các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc hiệp định chống gian lận thương mại và tuân thủ các luật lệ thương mại quốc tế, không để xảy ra việc tiến hành điều tra, gian lận như bán phá giá hay sai lệch xuất xứ hàng hoá… từ phía các đối tác. Đồng thời, phải chú ý việc lưu trữ những hồ, tài liệu trong hoạt động kinh doanh, khi cần có thể làm bằng chứng chứng minh. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng đăng ký thương hiệu, nhãn mác để tránh được chuyện tranh chấp thương hiệu.
Năm 2003 là năm thứ hai thực hiện Hiệp định, ngoài các điểm đã thực hiện từ năm thứ nhất, năm nay phải tiếp tục thực hiện thêm một số điểm nữa trên lộ trình cụ thể. Những lộ trình này là áp lực rất lớn với các doanh nghiệp. Áp lực này còn tăng hơn nữa do tranh chấp nảy sinh từ năm 2002 đến nay vẫn chưa được giải quyết. Điều này khiến cho các doanh nghiệp phải có sự tự chuyển biến trên nhiều mặt thích hợp. Một trong những giải pháp là nâng cao vai trò hiệp hội ngành nghề để phát huy sức mạnh trong ứng phó với các bất trắc, đồng thời chủ động điều chỉnh lượng xuất khẩu cho thị trường để tránh được nhân tố không ổn định trong kinh doanh.
KẾT LUẬN.
Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ là một kết quả khách quan tất yếu phù hợp với xu thế quốc tế hoá kinh tế toàn cầu hiện nay. Như vậy là hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đã đi được một chặng đường. Thực tế thương mại đã cho thấy quá trình thực thi hiệp định vừa là quá trình hợp tác vừa là quá trình đấu tranh. Cơ hội nhiều mà thách thức cũng không phải là ít.
Với nội dung rất đầy đủ và chi tiết, HĐTM thực sự là một công cụ để điều hành quá trình kinh doanh giữa hai bên trên cơ sở luật định quốc tế. HĐTM có hiệu lực sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước, nhất là đối với VN, một nước có nhiều tiềm năng xuất khẩu vào thị trường rộng lớn này mà mấy năm qua ta không có cơ hội để thực hiện được. Tuy nhiên, làm thế nào để thâm nhập được một cách có hiệu quả thì đó là cả một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi sự cố gắng từ cả hai phía. Chính Phủ và các doanh nghiệp cần có những tính toán kỹ lưỡng, có sự chuẩn bị chu đáo thì mới thành công.
Mục tiêu trước mắt là phấn đấu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020. Có thể chặng đường này sẽ khó khăn vất vả hơn, mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn nhưng chúng ta tin tưởng rằng với những thành tựu đang đạt được trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với tinh thần nhìn thẳng vào khó khăn thách thức, biến thách thức thành thời cơ, dưói sự lãnh đạo của Đảng chúng ta sẽ từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ năng động và hoạt động hiệu quả hơn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tạo ra sức mạnh tổng hợp của dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1-Hỏi đáp về hiệp định thương mại Việt – Mỹ - GS.TS Võ Thanh Thu chủ biên.
2- Khái quát về kinh tế Mỹ - PTS Nguyễn Tiến Lộc - NXB Chính trị quốc gia, 1998
3-Kinh doanh với Hoa Kỳ 2002- Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, 2002
4-Tìm hiểu về hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại - NXB Thống kê, 2001.
5-Quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa Kỳ - TS Đỗ Đức Định - Nhà XB Thế giới, 2000.
6-Hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại - NXB Chính trị quốc gia, 2002.
7-Quan hệ kinh tế quốc tế - PGS.TS Tô Xuân Dân và PTS Vũ Chí Lộc-NXB Hà Nội
8- Tạp chí kinh tế và phát triển.
9-Tạp chí Thương nghiệp -Thị trường Việt Nam.
10-Thời báo kinh tế Việt nam.
11- Vietnam news.
12-Tạp chí thương mại.
13-Thời báo kinh tế Sài Gòn.
14-Và một số tài liệu khác.
MỤC LỤC.
I/ PHẦN MỞ ĐẦU.
Lời mở đầu…………………………………………………………………………..3
Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………………….4
II/ PHẦN NỘI DUNG.
Chương 1: Những vấn đề chung về thương mại quốc tế và tổng quan về hiệp
định thương mại Việt - Mỹ.
1.Những vấn đề chung về thương mại quốc tế……………………………………....5
1.1.Khái niệm………………………………………………………………………..5
1.2.Quá trình hình thành, phát triển và lợi ích của thương mại quốc tế……………5
2.Tổng quan về hiệp định thương mại Việt – Mỹ…………………………………...6
2.1.Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới………………….6
2.2.Lợi ích mà Việt Nam thu được trong quan hệ thương mại với Mỹ……………..7
2.3Lợi ích mà Mỹ thu được trong quan hệ thương mại với Việt Nam……………....8
2.4.Những nội dung chủ yếu của hiệp định thương mại Việt – Mỹ…………………9
2.4.1.Thương mại hàng hóa………………………………………………………...11
2.4.2.Quyền sở hữu trí tuệ………………………………………………………….12
2.4.3.Thương mại dịch vụ………………………………………………………….13
2.4.4.Quan hệ đầu tư……………………………………………………………….16
Chương 2:Quan hệ thương mại Việt– Mỹ theo hiệp định thương mại Việt– Mỹ.
1.Quan hệ Việt – Mỹ trước khi Mỹ hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam……...17
2.Quan hệ Việt – Mỹ sau khi Mỹ hủy bỏ lệnh cấm vận đối với Việt – Nam……...18
3.Quan hệ thương mại Việt – Mỹ theo hiệp định thương mại Việt – Mỹ…………19
3.1.Đối với lĩnh vực thương mại hàng hóa………………………………………...18
3.2.Đối với lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ………………………………………….23
3.3.Đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ…………………………………………..24
3.4.Đối với lĩnh vực quan hệ đầu tư………………………………………………..26
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy mối quan hệ kinh tế thương mại Việt – Mỹ.
1.Các giải pháp từ phía nhà nước…………………………………………………..28
2.Các giải pháp từ phía doanh nghiệp……………………………………………...31
Kết luận…………………………………………………………………………….36
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………………37
Mục lục…………………………………………………………………………….38
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- copy_of_tl_ltm_7635.doc