A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Văn học là nhân học”, tức văn học lấy con người làm mục đích và đối tượng của mình. Trong văn học, con người hiện lên một cách cụ thể, sinh động với tất cả những mối quan hệ của nó. Cũng chính con người với những cảm xúc, tình cảm đã tạo nên sự kì diệu cho cuộc sống. Người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo của mình luôn vươn tới cái đẹp, cái hoàn mĩ. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn hướng con người trong cõi nhân gian.
Văn học Việt Nam sau năm 1975 có sự chuyển đổi mạnh mẽ và thu được nhiều thành tựu quan trọng. Đánh giá về giai đoạn văn học sôi động này, Đại hội Đảng lần thứ 6 khẳng định:Đời sống văn học đang có nhiều hứa hẹn đồng thời cũng đang nảy lên những vấn đề mới, những bước phát triển đáng mừng, thu hút sự quan tâm của nhiều tầng lớp độc giả. Văn học đổi mới phát triển mạnh mẽ với phương châm dân chủ hóa, mới mẽ về tư duy nghệ thuật để nhận thức lại con người. Các nhà văn trong khi cố gắng khám phá cái thế giới bí ẩn, khuất lấp, đầy bất trắc và bất thường bên trong mỗi con người, bên trong bản - thể - người, đều đang tìm một hướng đi riêng để khẳng định mình. Trong số đó có những người đã trở thành hiện tượng nổi bật của văn học đổi mới như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ Mặc dù không nổi bật ngay từ đầu nhưng Hồ Anh Thái đã bền bỉ tạo cho mình một phong cách vô cùng độc đáo, tinh tế và mang đậm những đặc sắc riêng biệt.
Bằng tài năng, nhiệt huyết, trái tim giàu yêu thương của mình, nhà văn Hồ Anh Thái đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị với một cách viết mới mẻ, một văn phong mang dấu ấn cá nhân sâu sắc. Ông sáng tác nhiều thể loại trong đó tiêu biểu là tiểu thuyết. Đến với Hồ Anh Thái ta bắt gặp một giọng điệu tươi mới, trẻ trung, tinh nghịch, hiện đại khi văn chương Việt Nam vẫn chưa qua khỏi sự ám ảnh và nỗi buồn của chiến tranh qua quan niệm nghệ thuật về con người
Hồ Anh Thái là một trong số không nhiều những cây bút xuất hiện sớm và để lại dấu ấn văn xuôi đương đại Việt Nam. Tác phẩm của ông tái hiện nhiều kiếp người, cảnh người trong nhiều thời điểm, nhiều tình huống để qua đó nói lên cảm nhận về nhân sinh. Hơn nữa, tác phẩm của Hồ Anh Thái thường đề xuất thể nghiệm những nhận thức mới về xã hội, những cách nhìn mới về nghệ thuật nhằm tạo sự phù hợp, hiệu quả trong việc thể hiện con người theo cảm quan của mình. Với gần 30 năm cầm bút, ông đã cho xuất bản hơn 20 tập truyện ngắn và tiểu thuyết. Hồ Anh Thái đã từng đạt giải thưởng của văn xuôi 1983 – 1984 của Báo Văn nghệ với truyện ngắn Chàng trai ở bến đợi xe, nhận giải văn xuôi 1986 – 1990 của Hội nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Người và xe chạy dưới trăng. Nhiều cuốn sách của ông đã được chọn dịch, giới thiệu ở nước ngoài và tạo được dư luận tốt.
Trong đó, quan niệm nghệ thuật về con người là một tiêu chí quan trọng để đánh giá giá trị của tác phẩm văn học.Cảm nhận tác phẩm là cảm nhân từ cái nhìn của tác giả về con người thể hiện trong tác phẩm. Đồng thời, quan niệm nghệ thuật về con người còn được xem là nhân tố cơ bản, là điểm xuất phát cho mọi sự sáng tạo của nhà văn. Những phương tiện, thủ pháp nghệ thuật được nhà văn sử dụng trong tác phẩm, từ xây dựng nhân vật, tổ chức kết cấu cốt truyện hay giọng điệu trần thuật đều chịu sự chi phối và góp phần thể hiện con người theo quan niệm của tác giả. Vì vậy, xuất phát từ quan niệm nghệ thuật về con người để tìm hiểu tác phẩm văn học được xem là một trong những biện pháp quan trọng để có cái nhìn toàn diện về sự sáng tác của mỗi nhà văn cũng như về một giai đoạn văn học.
.
Chọn đề tài :Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái- một tác giả ngày càng được dư luận chú ý nhưng chưa được đánh giá toàn diện, chúng tôi muốn thể nghiệm quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm văn xuôi của ông. Mặt khác tìm hiểu những tìm tòi cách tân nghệ thuật của cây bút này, phù hợp với dòng chảy của những cách tân trong văn xuôi Việt Nam hiện nay.
Đặc biệt trong Mười lẻ một đêm, với tiếng cười của mình, Hồ Anh Thái đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống. Mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực.
Là sinh viên, chúng tôi mang trong mình niềm đam mê tìm hiểu, khát khao khám quan niệm nghệ thuật về con người trong văn chương nói chung và trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái nói riêng để qua đó hiểu hơn về con người.
Việc thực hiện đề tài còn là dịp cho chúng tôi bước đầu làm quen, tập nghiên cứu độc lập một vấn đề văn học, từ đó giúp chúng tôi nâng cao kiến thức cũng như kinh nghiệm cho việc học tập và nghiên cứu sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Hồ Anh Thái là nhà văn ngày càng có nhiều công chúng, các tác phẩm của ông ngày càng gây được nhiều sự chú ý của dư luận và bạn đọc. Để có cơ sở cho một cái nhìn sâu sắc, bao quát đối với nghệ thuật truyện ngắn, vừa không dẫm dấu chân người đi trước, vừa đảm bảo tính khách quan khoa học, chúng tôi xin lược khảo những nghiên cứu, đánh giá về những quan niệm sáng tác của Hồ Anh Thái.
Hồ Anh Thái với những sáng tác của mình, đã thực sự thu hút và tạo được những ấn tượng tốt cả trong và ngoài nước. Hiếm có tác giả nào có sức sáng tạo dồi dào và có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau như Hồ Anh Thái. Nhìn chung, các đánh giá dừng lại ở dạng bài viết cho từng tập truyện, từng tiểu thuyết, hay từng truyện ngắn trước vấn đề mà Hồ Anh Thái đặt ra trong tác phẩm của mình, chẳng hạn như:
Những bài phỏng vấn Hồ Anh Thái xoay quanh tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của ông mới xuất bản gần đây.
Mười lẻ một đêm là cuốn tiểu thuyết thành công của Hồ Anh Thái, ở đó chủ âm là giọng giễu nhại, hài hước. Được kể chủ yếu theo kiểu hoạt cảnh nhờ việc tạo dựng ra những màn kịch nhỏ trong một màn kịch lớn, vở hài kịch về chuyện hẹn hò thời hiện đại được Hồ Anh Thái “cường điệu” một cách hợp lí. ***g vào câu chuyện hẹn hò của hai nhân vật chính này là biết bao con người, biết bao mảnh đời khiến độc giả cười ngả nghiêng mà chua xót. Hồ Anh Thái đã sử dụng grotesque với chất giọng giễu nhại để “lật tẩy”. Giễu nhại văn hóa thi hoa hậu: Bạn sẽ làm gì ngay sau khi đăng quang hoa hậu? Em kính thưa ban giám khảo, nếu em đăng quang hoa hậu, việc đầu tiên em sẽ hiến thân cho người nghèo trong xã hội (Mười lẻ một đêm); Giễu nhại hội Lim: Bờ ao kè xi măng. Không còn bờ cỏ tự nhiên. Mấy con thuyền bằng sắt tây chen nhau đi vòng quanh bờ ao. Anh hai đi giày Tây, chị hai đi giày khủng bố. Anh hai khăn đóng áo dài, chị hai tứ thân mớ ba mớ bảy. Mỗi người cầm một cái micơzô. Còn duyên ngồi gốc cây thông, Hết duyên ngồi gốc cây hồng hái hoa (Mười lẻ một đêm); Giọng điệu giễu nhại không chỉ bộc lộ qua cảm hứng mà thể hiện rõ qua việc cấu tạo ngôn ngữ, cấu trúc câu. Chất giễu nhại kiểu grotesque, chất trào tiếu dân gian làm nổi rõ sự va đập giữa hai mảng sáng tối: một thế giới của văn hóa và một thế giới lộn nhào mọi giá trị, lố bịch và kệch cỡm. Chính sự dung hợp giữa chất trào tiếu dân gian và chất suy tưởng bác học ấy đã khu biệt giọng điệu Hồ Anh Thái trong bản hợp xướng nhiều bè của tiểu thuyết Việt Nam đương đại Việt. Nó được thể hiện qua những câu trả lời của ông trước báo chí đã cho chúng ta hiểu rõ về những quan niệm sáng tác mới của mình:
Cho đến trước Mười lẻ một đêm, thiên hạ bảo từ sau Cõi người rung chuông tận thế (2003), Hồ Anh Thái không viết được cái gì mới hơn nên phải quay sang “đỡ đầu” các “tài năng trẻ” để chứng tỏ sự - tồn - tại của mình và để làm văn đàn bấy nay vốn tẻ nhạt thêm “xôm trò”. Anh nghĩ sao về những chuyện kiểu này?
Thấy văn chương có cái gì hay là tôi muốn giới thiệu cho nhiều người cùng thưởng thức. Có khi sự nồng nhiệt của mình làm người khác khó chịu. Nhưng dư luận là cái không nên chống đỡ, và cũng không thể. Nhiều điều cơ bản của đời sống con người là dựa trên nhầm lẫn và ngộ nhận - đừng có mong không bị người đời hiểu nhầm! Mà cũng phải tự hỏi lại, chính ta đã làm gì nhiều để người đời hiểu đúng về mình đâu? Bất kể thế nào thì mỗi ngày tôi vẫn viết ít nhất hai tiếng đồng hồ. "Kho dự trữ" của tôi còn bản thảo hai tiểu thuyết viết trước Mười lẻ một đêm nhưng chưa gửi in.
Trong Mười lẻ một đêm người ta thấy hiện rõ bộ mặt Hà Nội và Sài Gòn với sự “giàu xổi” của giới trí thức, sự kệch cỡm của những “Phòng khách”, sự tẻ nhạt của lớp thị dân, thói trưởng giả của giới thượng lưu . Vì sao đời sống thị dân luôn trở đi trở lại trong các sáng tác của anh? Phải chăng vì anh cũng là một công chức “sáng cắp ô đi, tối vác về” nên mới thấm thía hết cái nhợt nhạt, nhàn nhạt của những “ao đời bằng phẳng” ấy ?.
Dịp đầu năm, có tờ báo mời viết truyện ngắn nhằm vào đối tượng độc giả là nông dân, tôi phải lập tức trình bày: tôi không biết gì về nông thôn cả. Nếu không có hai lần đi sơ tán thời chống Mỹ thì tôi không có một tí kỷ niệm nào về cánh đồng, ao đầm, mùa màng . Có lẽ chính là hoàn cảnh đã chọn đề tài cho tôi, sống đâu quen đấy, làm gì biết nấy. Không thể gọi là đã hiểu, nhưng có thể nói tôi thuộc môi trường sống của mình.
Mười lẻ một đêm rồi trước đó là những Trại cá sấu, Bến Ôsin, Cõi người rung chuông tận thế . thấy anh lạnh quá, tỉnh quá! Những điều tử tế, những kẻ tử tế (kiểu như thằng Người Cá chẳng hạn) cũng bất thành nhân dạng, cũng chỉ như thanh củi khô cháy leo lét, còn bao trùm là một bức tranh xám màu về nhân tình thế thái. Phải chăng “cõi người ta” đã trở thành một sa mạc mênh mông, hoang vắng của dục vọng và lòng ích kỷ đến mức anh phải “rung chuông tận thế?.
Các nhân vật của tôi không có người hoàn toàn tốt hoặc hoàn toàn xấu. Ngay cả khi giễu nhại thì tôi cũng thấy trong đối tượng có cả hình bóng của chính mình và người thân của mình. Không thể có chuyện vô can theo kiểu: "Chắc là nó trừ mình ra!" Một số độc giả phản ứng có lẽ vì họ chỉ thấy tôi phê phán người đời mà không đọc ra được cái chất tự giễu nhại của chính tôi. Dù sao đi nữa, nếu để cho độc giả hiểu nhầm thì lỗi đầu tiên vẫn là của tác giả.
Hay là những bài nghiên cứu về Hồ Anh Thái của các tác giả Việt Nam. Ở những bài viết này tác giả dù ít nhiều cũng đề cập đến những phương diện nghệ thuật có liên quan phong cách cũng như những quan niệm nghệ thuật về con người của ông đó là:
Nhà báo Lê Hồng Lâm nhận xét: Ngay từ khi xuất hiện, anh đã “phả” vào văn học một giọng điệu tươi mới, trẻ trung, hiện đại khi văn chương Việt Nam vẫn chưa đi qua khỏi sự ám ảnh và nỗi buồn của chiến tranh [3, tr 249].
Hay nhà văn Lê Minh Khuê nhận định: Đây là người con đi dài với văn chương [3, tr 267]
Rồi Nguyễn Đăng Điệp khi khảo sát các sáng tác của Hồ Anh Thái đã nhận định: Rõ ràng, xuất phát từ quan niệm coi cuộc đời như những mảnh vỡ, bản thân mỗi một con người lại mang những mảnh vỡ, những xung lực khác nhau trong trăm ngàn mảnh vỡ kia đã trở thành nét chính trong quan niệm về cuộc sống của Hồ Anh Thái. Chính quan niệm này sẽ tao nên tính đa cấu trúc trong các tác phẩm của anh [3, tr 350].
Nguyễn Thị Minh Thái nhận xét: Văn viết lạ có lẽ không chỉ ở sự tinh tế ở văn phong, lối biểu đạt độc đáo, nhuần nhuyễn trong cấu tứ; mà chính ở chỗ anh đã cho thấy những giao nhịp phức điệu giữa con người cá thể và nhân loại [3, tr 342].
Không dừng lại ở đó những sáng tác của Hồ Anh Thái cũng đã thực sự thu hút và tạo được ấn tượng trong lòng các tác giả nước ngoài qua những nhận xét chủ yếu tập trung chỉ ra cái nhìn dũng cảm của nhà văn về hiện “thực khi thế giới thảm hại đi qua chiến tranh và sử dụng thay đổi văn hóa, cùng với văn phong vừa hài hòa vừa sâu sắc của tác giả”:
Tiến sĩ văn học Ấn Độ K.Pandey đã từng nhận xét truyện ngắn viết về Ấn Độ của Hồ Anh Thái trên báo The Hindustan là: Những dòng chữ của Hồ Anh Thái là những mũi kim châm cứu Á Đông đã điểm đúng huyệt tính cách Ấn Độ[3, tr 322]
Nhà văn Wayne Karlin (Mỹ) viết: Với lòng kính trọng và tình yêu, anh chấp nhận điểm xuất phát của mình trong lịch sử và văn học nước nhà, nhưng cùng mở hướng ra cho những ảnh hưởng khác – nổi bật là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ la tinh và tác phẩm của nhà văn Pháp gốc Czech Milan Kundera và anh đã để cho tác phẩm của mình đưa văn học Việt Nam đương đại đi theo những hướng mới [5, tr 391].
Còn rất nhiều bài viết về văn xuôi Hồ Anh Thái, trên đây chỉ là những bài viết về tác phẩm tiêu biểu. Có nhiều bài viết cần bàn luận thêm nhưng hầu hết các ý kiến đều khẳng định Hồ AnhThái là cây bút triển vọng, có phong cách đa dạng, có cái nhìn đa chiều về hiện thực, có những cách tân về nghệ thuật. Qua những tài liệu chúng tôi nhận thấy: chưa có nhiều công trình nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người trong các sáng tác của Hồ Anh Thái, bao gồm cả tiểu thuyết Mười lẻ một đêm. Xuất phát từ thực tế đó, việc nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người trong sáng tác Hồ Anh Thái nói chung và trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm nói riêng có thể xem là một hướng nghiên cứu hợp lý, có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn cao. Từ đó thấy được ý nghĩa thẩm mỹ đậm chất nhân văn, những nét độc đáo trong nghệ thuật văn xuôi, cũng như những góp của Hồ Anh Thái cho văn xuôi đương đại Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối với đề tài này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là: quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện và hoàn thành đề tài này, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu là tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiên hành nghiên cứu, căn cứ vào nội dung, yêu cầu của đề tài chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp thống kê, miêu tả: thống kê các tác phẩm của Hồ Anh Thái, cũng như những tác phẩm của các tác giả khác trong văn xuôi Việt Nam sau 1975,các công trình nghiên cứu đi trước và nhiêu đánh giá, nhận xét. Trên cơ sở đó để ta có một cái nhìn khách quan, tổng thể hơn về vấn đề.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp: cùng với việc thống kê cần phải có một óc phân tích, tổng hợp một cách logic, hợp lý. Vừa tổng hợp vừa đưa ra những dẫn chứng để phân tích, mổ xẻ vấn đề.
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu: Nhằm phân biệt sự giống và khác nhau trong phong cách sáng tác nói chung và quan niệm nghệ thuật về con người nói riêng qua tiểu thuyết Mười lẻ một đêm so với các tác phẩm khác của Hồ Anh Thái, đồng thời là với các nhà văn khác.
4.4. Vận dụng lý thuyết thi pháp học: vận dụng các khái niệm,các phương pháp và các tri thức trong thi pháp học để làm rõ hơn quan niệm nghệ thuật về con người trong các tác phẩm văn học. Đặc biệt là đối với tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái.
5. Bố cục tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo đề tài của chúng tôi được trong ba chương sau:
Chương 1: Hồ Anh Thái – Hành trình sáng tạo nghệ thuật.
Chương 2: Những kiểu quan niệm về con người trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái.
Chương 3: Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái nhìn từ phương thức biểu hiện.
81 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3380 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của Hồ Anh Thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và thích hợp nhất khi có một tình huống quan trọng. Và khi đó, tình huống không chỉ thể hiện tính cách mà còn thể hiện cả sự vận động biến đổi tính cách của con người – nhân vật trong tác phẩm. Những tình huống có tác động lớn đến nhận thức của nhân vật, là những tình huống mà khi đã trải qua thì ngay sau đó nhân vật lột xác.
Hồ Anh Thái thường đặt nhân vật của mình vào một tình huống nhạy cảm để cho nhân vật tự ý thức, tự đấy tranh để có sự lựa chọn đúng đắn nhất, lựa chọn một cách sống, lựa chọn một hướng đi sao cho thật ý nghĩa. Nhân vật của Hồ Anh Thái trong thời kì đầu sáng tác là khát vọng vươn tới sự hoàn thiện. Những thanh niên khi mới bước vào đời với rất nhiều băn khoăn về sự nghiệp, tình yêu, về các mối quan hệ bạn bè, gia đình và xã hội. Những lo lắng, băn khoăn ấy thực sự được gỡ bỏ khi những nhân vật này đặt trong tình huống buộc phải lựa chọn.
Hồ Anh Thái còn có kiểu tình huống giả tưởng trong các sáng tác của mình. Tình huống này xuất phát từ tư tưởng hư cấu, trong đó hoàn cảnh, môi trường do nhà văn sáng tạo ra và đặt nhân vật vào để bộc lộ tính cách. Tình huống được xem như một giả thiết, một phép thử đối với con người và cuộc sống. Hồ Anh Thái sử dụng thành công cả trong tiểu thyết lẫn truyện ngắn. Đặc biệt là trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm bắt đầu bằng tình huống có một người đàn ông và một người đàn bà bi nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Đó là hai người nửa bạn nửa tình thời trẻ, rồi chia tay nhau, ai cũng đã lập gia đình. Hơn mười năm mới gặp lại và lần đầu tiên họ muốn trao thân cho nhau. Họ được người bạn – Họa sí Chuối Hột – cho mượn căn hội để gặp gỡ. Anh họa sĩ tốt bụng khóa cửa buổi sáng, hẹn chiều về giả phóng cho đôi tình nhân nhưng anh ta đi luôn. Trong tình huống bị nhốt không thể thoát ra ngoài lại chẳng còn cái gì ăn, đói xanh mắt, không kể cho nhau nghe chuyện mình, chuyện người, chuyện đời,… thì người đàn ông và người đàn bà con biết làm gì, ngoài việc ái tình mà họ chỉ định làm trong đó có một ngày để trả nợ tình xưa. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia trong tấn trò đời. Họa sĩ Chuối Hột, Người đàn ông, Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Bằng tình huống bị nhốt, Hồ Anh Thái đã phanh phui những cái lẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn trong cuộc sống. Mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống hiện tại đều anh ngổn ngang, các giá trị cần phải được nhìn nhận lại và để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và sức lực cho nó.
3.1.2.Xây dựng nhân vật qua chi tiết gợi bản chất
Khi xây dựng nhân vật theo quan niệm của mình, Hồ Anh Thái rất chú ý trong chi tiết. Trong tác phẩm của ông có khi chi tiết về ngoại hình, có khi chi tiết thực và ảo, chi tiết giả định, hài hước gây cười… Nhưng có một nét chung người đọc dễ nhận thấy là: chi tiết có ý nghĩa gợi bản chất rất rõ trong tác phẩm của Hồ Anh Thái. Người đọc khó hình dung nhân vật giáo sư Một là một nhà văn hóa lớn trong Mười lẻ một đêm lại đi đái bậy ở tượng đài – một nơi trang nghiêm để nêu gương các vị anh hùng. Nó như bổ sung thêm cho hình tượng một nhà văn hóa lớn trong mắt quần chúng nhân dân. Đến lúc ấy ông nhớ ra là mình còn một việc phải làm trước khi đi ba trăm mét nữa về nhà. Về đến nhà rồi phải chui vào toa lét khép kín thì chẳng có không gian thoáng rộng gió thổi mơn man. Mau với chứ vội vàng lên với chứ. Mau lên. Thật may đã nhớ ra. Ông bước đến ốp vào bệ quần tượng. Thoáng làm sao mát làm sao. Sự sướng sẽ hoàn hảo nếu không phải cái tội đái như tiểu liên tắc cú. Dền dứ chập chừng. Lắt nhắt tắt bật. Nhưng mà vô nhân thập toàn. Dù sao thì mọi danh hiệu không sao làm ta sướng như phút này. Mặc dù chỉ một chi tiết rất nhỏ nhưng qua đó tác giả đã làm nổi bật hơn bản chất của một nhà văn hóa lớn, bên ngoài tỏ ra là người có tri thức, có văn hóa nhưng lại có một tật xấu làm ta không thể không kinh ngạc.
Hay như qua nhân vật “chị” càng làm phong phú hơn tính cách của nhân vật này. Chị là người phụ nữ với bao thăng trầm của cuộc đời, từ nhỏ chị đã phải chứng kiến cảnh mẹ mình thay chồng như thay áo. Người đàn bà nay tuổi năm mươi tám nhưng mãi mãi có một trái tim thiếu nữ.Tuy thế nhưng trong thâm tâm từ khi bắt đầu là một thiếu nữ có ý thức, chị đã luôn nghĩ mình là lá ngọc cành vàng. Mình thuộc đẳng cấp trên. Bước đi không bao giờ bước thật dài. Bao giờ cũng khoan thai. Đi đứng thẳng thắn, đầu hơi ngẩng cao kiêu hãnh.. Không lê dép quèn quẹt gõ giầy bình bịch, nhưng cũng không nhấc chân quá cao. Nhanh nhẹn nhưng không vội vàng hấp tấp, việc trước làm trước việc sau làm sau, không làm dở cái này bỏ sang làm cái khác… Qua một chi tiết rất nhỏ nhưng lại có khả năng khái quát, đúng với tính cách của “chị”. Mỗi con người đều có một cách sống, cách nghĩ cũng như lòng kiêu hãnh riêngcủa mình. Chính vì thế nó tạo ra những đặc thù khác nhau của con người.
Ngoài ra phải kể đến tên nhân vật, nó cũng là một trong những yếu tố làm nên nhân vật, trong đó thể hiện những đặc điểm, tính cách của nhân vật. Khi nhà văn đặt tên cho nhân vật tức là đã có ý thức, có quan niệm về con người, nhất là đối với nhân vật có vấn đề. Có thể xem nhân vật là một hoán dụ, một ước lệ về chính nhân vật ấy. Ngoài những tên bình thường, những tên Ấn Độ và có những tên chỉ là những kí hiệu dành cho đối tượng của tác giả. Còn có thể tìm thấy nhiều điều độc đáo, thú vị qua tên nhân vật của Hồ Anh Thái. Dấu hiệu về tên nhân vật có từ 1900 (trong tập truyện Lũ con hoang, với tên nhân vật nam giới là Mèo Đực hay đi tán tỉnh phụ nữ), nhưng năm 1996 trở lại đây mới rõ nét qua tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế, Tự sự 265 ngày, tập truyện Bốn lối vào nhà cười, tiểu thuyết Mười lẻ một đêm và một số truyện ngắn gần đây.
Kiểu đặt tên xấu cho nhân vật hay gọi tên nhân vật cho những ký hiệu bằng các đặc điểm nổi bật, trước Hồ Anh Thái đã có người làm. Trước đây đã có những Typn, Hoàng Hôn, Văn Minh, … của Vũ Trọng Phụng; những Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, … của Nam Cao; …Đấy đều là nhứng cái tên có vấn đề, đều thể hiện quan niệm về con người của nhà văn.
Đặc điểm nào đó của nhân vật cũng trở thành cái tên rất thú vị, giàu sức liên tưởng như Khỏa, Xí trong Mười lẻ một đêm qua tình huống Có một lần giáo sư Xí đến gọi giáo sư Khỏa đi họp đột xuất. Không gặp. Ông Xí lấy phấn trắng viết lên cửa nhà ông Khỏa một lời nhắn: Khỏa thân đến ngay nhà Xí để họp. Nhớ mang theo giấy. Chỉ qua hai cái tên tưởng chừng như đơn giản với một tình huống rất đời thường đã tạo nên một chi tiết rất hài hước, đầy châm biếm. Dường như đó cũng chính là nơi bộc lộ một phần tính cách của nhân vật.
Tên nhân vật còn được gọi theo thứ tự, tuổi tác: Ông số Một, bà số Hai, cô số Ba, anh số Bốn (Tờ khai Visa); giáo sư Một, giáo sư Hai (Mười lẻ một đêm).
Bản chất, đặc điểm của nhân vật còn được thể hiện rất rõ qua những cái tên như: Họa sĩ Chuối Hột (Mười lẻ một đêm). Chỉ với cái tên đó, người đọc có thể hình dung ra nhân vật với mọi cái xấu xa và tức cười. Tên nhân vật Họa sĩ Chuối Hột được giải thích: …Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám mùa cởi mở. Thời trang yêu thích là bộ cánh lúc lọt lòng mẹ…Hay … Người ta đặt biệt danh cho gã hẳn hoi. Chim để ngoài quần. Biệt danh đấy. Hội họa không thành gã chuyển sang lý luận hội họa. Lý luận không hấp dẫn gã tạt sang luyện yoga. Đạt đến độ dốc ngược đầu lên. Trông một góc nhà gã chống đầu xuống đất hai chân duỗi thẳng lên trời, thân người bóng nhẫy trắng lôm lốp như thân chuối. Tất nhiên là chuối hột trổ bông ở khoảng lưng chừng trời …
Hay như cái tên Mơ Khô cũng làm nỗi rõ ngoại hình, tính cách của nhân vật “chị”. Mơ Khô được giải thích như sau: … Xinh xắn cao ráo. Nhưng lưng hơi thẳng người hơi khô. Khô chân gân mặt. Hơi nghiêm. Cuối tuần không về với mẹ thì chỉ còn ngồi lại một mình trong phòng. Bốn cái giường tầng. Tám chỗ nằm thì tất cả tám cái màn gió mở toang ra. Mỗi một người ở nhà trông cả tám chỗ. Thực ra thì cũng có nhiều việc để làm. Cô lại là người mê sách. Đắm chìm trong tiểu thuyết. Mơ về một thế giới xa xôi.
Như vậy, tên gọi có vẻ trừu tượng nhưng đạt hiệu quả không hề thua kém việc khắc họa nhân vật qua ngoại hình hay qua ngôn ngữ. Và khả năng tự biểu hiện của những cái tên này rất cao, người đọc đã có thể hình dung được bản chất, đặc điểm nổi bật về tính cách, lối sống mà chư cần đi sâu vào chi tiết hay hành động của nhân vật. Hồ Anh Thái đã có dụng ý xây dựng nhân vật có tính chất đại diện cho một loại người nào đấy trong xã hội, có sức khái quát lớn. Dường như anh muốn xóa nhòa cá tính của từng nhân vật để chỉ ra đặc tính chung của một loại người. Từ đó nhà văn dẫn người đọc đi tới nhận thức về cuộc sống. Đây là một thủ pháp độc đáo được ông sử dụng thành công. Đó là những con người thiếu bản sắc, dễ hòa tan, sống hời hợt, nhợt nhạt, thể hiện sự nhố nhăng lai tạp, nhiều thói xấu của đời sống hiện đại.
Hồ Anh Thái không ngần ngại gọi tên nhân vật bằng những ký hiệu lấy ra từ những đặc điểm thuộc về nghề nghiệp, tuổi tác, chức vụ, chức danh và ngoại hình và không hề giấu diếm nụ cười hài hước trước thói xấu của con người hiện đại. Cách gọi tên nhân vật kiểu này có tác động lớn bởi nó thực sự đã động chạm đến nhiều con người trong xã hội, đến nhiều người đọc vì có thể thấy bóng dáng mình trong đó. Với tầm bao quát rộng lớn về đời sống, với kiểu gọi tên nhân vật độc đáo đã đem lại một ấn tượng như thật, Hồ Anh Thái đích thực phải làm người tử tế, đầy trách nhiệm với cuộc đời.
3.2 Nghệ thuật tổ chức cốt truyện linh hoạt
Cốt truyện là những biến cố, những hành động tạo thành một bộ phận lớn nhất, quan trọng nhất của nội dung tác phẩm cụ thể, của kịch, tác phẩm tự sự. Các biến cố được phát triển trong quá trình kể truyện. Theo giáo sư Trần Đình Sử : một sự kiện, biến cố để trở thành sự kiện biến cố của cốt truyện là phải xảy ra một cách khác thường với lôgic thông thường, nó xảy ra lệch chuẩn ấy được gọi là cốt truyện. Nó xảy ra một cách khác thường nhưng nó dự báo một thay đổi khác lạ nào đó.
Cốt truyện có tác động và ảnh hưởng đáng kể đến số phận và tính cách của nhân vật. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cốt truyện là: Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất, trong hình thức động của tác phẩm văn học tự sự và kịch.[30, tr 99]. Trong văn học truyền thống, cốt truyện đóng vai trò quan trọng, là yếu tố hàng đầu tạo nên cái hay cái dở, sự hấp dẫn hay nhàm chán của tác phẩm. Còn trong văn học đương đại, vai trò của cốt truyện ngày càng nhỏ trong tác phẩm văn học. Chính những bước ngoặt của trạng thái tâm linh, những xung đột cá nhân đã trở thành yếu tố thúc đẩy cốt truyện. Như vậy nếu xét từ quan niệm truyền thống, những truyện viết theo kiểu này được coi là tryện không có cốt truyện.
Là một nhà văn trưởng thành trong quá trình đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975, Hồ Anh Thái đã kế thừa và phát huy cả những yếu tố truyền thống và hiện đại trong tác phẩm của mình. Đồng thời trong hoàn cảnh mới nhà văn cũng đã nỗ lực tìm tòi để lạ hóa tác phẩm của mình.
Hồ Anh Thái đã xây dựng cốt truyện bằng cách gắn kết các nhân vật và các mối qua hệ của các nhân vật với nhau, làm cho các mối quan hệ ấy va quệt vào nhau tạo nên các sự kiện và tác giả đã khéo léo trong việc kêt nối các số phận ấy với nhau. Đây là một thành công đáng ghi nhận của Hồ Anh Thái trong nghệ thuật tổ chức cốt truyện. Chính vì vậy các sáng tác của nhà văn hấp dẫn và thu hút người đọc.
Xung đột trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái có tác động đến cấu trúc tác phẩm. Tác giả đã chuyển một cách tài tình từ chuyện của người này sang chuyện của người khác nhằm bộc lộ hình tượng của con người cá nhân tái sinh theo nhiều quan điểm khác nhau. Tiêu biểu trong các sáng tác của ông, đặc biệt là trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm nổi lên hai loại cốt truyện sau:
3.2.1. Cốt truyện đời tư – thế sự
Cốt truyện đời tư – thế sự xuất hiện khá nhiều trong cá tác phẩm của Hồ Anh Thái. Tính quan niệm của cốt truyện nằm ở cấu trúc cốt truyện, bởi vì tiểu thuyết có khả năng phản ánh đời sống con người rộng lớn trong nhiều giới hạn không gian, thời gian nên nó có nhiều chi tiết sự kiện. Do đó, cần có cái nhìn mang tính chất tập hợp sự kiện, tình huống vào những hướng nhất định theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Hồ Anh Thái nhìn đời sống xã hội thông qua đời sống cá nhân. Do vậy, triong tiểu thuyết nhà văn thường đề cập trực tiếp đến tâm lý, tính cách, số phận ới nhau, làm cho các mối quan hệ ấy hòa trộn vào nhau tạo nên các sự kiện. Cốt truyện đời tư – thế sự thường đầy đủ các thành phần nhưng cách cấu trúc có thể theo trình tự hoặc bị đảo lộn. Từ điểm nhìn quan niệm nghệ thuật về con người, có thể thấy rằng các sự kiện và tình huống được Hồ Anh Thái đưa vào tác phẩm có tác động rất lớn đến nhân vật, nó làm cho nhân vật bộc lộ tính cách hoặc làm thay đổi đời sống nhân vật, đồng thời tạo nên những bước ngoặt cho cốt truyện.
Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm có cốt truyện tưởng như rời rạc nhưng lại được gắn kết một cách chặt chẽ. Mọi sự kiện tình huống diễn ra theo dòng kí ức của hai nhân vật là “anh” và “chị”. Nhưng nó lại được bắt đầu bằng một tình huống ở hiện tại. Đó là Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu trong mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm. Và mười lẻ một ngày. Sau đó những hồi ức của quá khứ dần dần hiện về qua lời kể của của hai nhân vật chính từ câu chuyện trong gia đình đến những chuyện xảy ra ngoài xã hội đều được đề cập đến. Đầu tiên là câu chuyện về anh họa sĩ Chuối Hột – người đã đẩy anh, chị đến cảnh bị nhốt này đã được hiện lên với những chi tiết, sự kiện vô cùng trớ trêu, hài hước. Đó là một anh chàng rất hồn nhiên cởi mở… Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám mùa cởi mở. Thời trang yêu thích nhất là bộ cánh lúc lọt lòng mẹ… Tiếp theo những kí ức đau buồn lại trở về trong chị từ hình ảnh người mẹ với thiên tình sử lâm ly, dạt dào trước sự chứng kiến đầy đau khổ tuyệt vọng của chị. Nó là nỗi đau luôn được giấu kín trong cõi lòng chị nhưng giờ chính anh lại là người chia sẽ những hoài niệm đau buồn đó. Phải chăng anh là người quan trọng, là nơi an toàn để chị gửi gắm những suy tư, những trăn trở đã hằn dấu trong trái tim nhỏ nhoi, yếu ớt của chị… Kí ức tuổi thơ của đứa con gái như một con thuyền. Lênh đênh. Nay bến này mai bến khác. Bao nhiêu lần chuyển nhà. Mỗi lần mẹ có một người đàn ông mới là một lần chuyển nhà. Con dại cái mang, mẹ đi đâu là mang con theo đấy, tất nhiên rồi. Cũng vì vậy mà con bé phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ. Mẹ dại con lang thang… Mối tình nghiệt ngã, thầm kín giữ anh và chị hiển hiện nguyên vẹn trong tâm trí yêu thương nồng cháy của hai trái tim luôn hướng về nhau này. Không những tất cả các sự kiện, biến cố trong công việc, trong gia đình của cả anh và chị đều ùa về trong hoàn cảnh bất đắc dĩ này. Phải chăng trong giây phút tưởng như nghẹt thở này người ta lại muốn bộc bạch những nỗi niềm sâu kín đã ngủ yên từ lâu lắm rồi. Ngay cả một xã hội ngổn ngang với những mặt trái của nó cũng xuất hiện trong cuộc trò chuyện này. Tư hành vi thiếu văn hóa của ông giáo sư Một đái bậy trước tượng đài cho đến việc tham nhũng trơ trẽn của ngay người chồng mà chị gửi gắm cả cuộc đời cũng được hé mở qua lời kể của một con người đã từng trải nghiệm. Sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại đã lột tả, phơi bày tất cả những gì vốn có của hiện thực cuộc sống đang nghiễm nhiên ngự trị.
Như vậy, cách tổ chức cốt truyện tưởng như đơn giản gọn nhẹ nhưng chứa đựng một dung lượng nội dung khá lớn. Nó vừa khép lại trong sự trọn vẹn của tư tưởng chủ đề: mỗi con người cần hướng thiện, cần phải bao dung bằng sự thương yêu, vừa mở ra một phản đề: cái ác, cái xấu xa, ngang trái còn nhiều trong cuộc sống.
3.2.2. Cốt truyện kỳ ảo, lắp ghép
Hiện thực luôn đóng vai trò cốt lõi trong tổ chức cốt truyện. Hiện thực không chỉ là cái nhìn thấy, cầm nắm được, miêu tả được. Hiện thực còn là những giấc mơ ly kì, là niềm tin tín ngưỡng, là những ước mơ ngoài tầm với, là những ảo ảnh chập chờn… xuất hiện trong đời sống tinh thần của con người. Không khơi dậy những yếu tố kì ảo thì nhân vật hiện thực chỉ là một cái xác khô cứng thô sơ đơn điệu mà thôi. Viết về thế giới này mà chỉ sử dụng mỗi một công cụ hiện thực giản đơn là chưa đủ mà cần phải sử dụng yếu tố kì ảo. Vì vậy, hiện thực kì ảo là một cái nhìn hiện thực sâu sắc hơn, nhiều chiều hơn về đời sống.
Trong hầu hết những cốt truyện có yếu tố kì ảo của Hồ Anh Thái, cái thực vẫn là trụ cột, là điểm tựa của cái ảo. Hiện thực đôi lúc chỉ bị mờ đi chứ không bị chối bỏ. Yếu tố kì ảo lúc ấy chỉ có tác dụng làm lạ hóa hiện thực. Trên cái nền hiện thực ấy, Hồ Anh Thái chêm xen các yếu tố kì ảo tạo nên một cốt truyện đa dạng, thự hư lẫn lộn. Nếu ở một số tác giả khác yếu tố kì ảo chiếm vị trí rất lớn thậm chí xuyên suốt từ đầu đến cuối cốt truyện thì ở Hồ Anh Thái, các yếu tố kì ảo tuy sử dụng nhiều nhưng dùng như là một thứ phương tiện nghệ thuật phụ trợ cho việc phản ánh hiện thực. Với vai trò phụ gia đó, sự vắng mặt của yếu tố kì ảo vẫn không ảnh hưởng gì đến cốt truyện. Chỉ có điều nếu thiếu những yếu tố kì ảo đó tác phẩm sẽ mất đi sự hấp dẫn và bị thu hẹp phạm vi hiện thực. Sự có mặt của cái kì ảo không làm cho tác phẩm bị thần bí hóa mà hiện thực được soi ngắm lung linh hơn.
Cốt truyện kì ảo xuất hiện nhiều trong sáng tác của Hồ Anh Thái. Đi vào tìm hiểu loại cốt truyện này, chúng tôi thấy hầu hết nó đều được tác giả sử dụng để nói về con người có nhiều thói hư tật xấu, chủ yếu thông qua tình huống kì ảo giả tưởng. Đây là kiểu tình huống xuất phát từ tưởng tượng hư cấu, là hoàn cảnh môi trường mà nhà văn sáng tạo ra để đặt nhân vật vào cho chúng hoạt động để bộc lộ tính cách. Tình huống này giống như một giả thiết, một phép thử đối với con người và cuộc sống buộc chúng phải phơi bày bản chất.
Hồ Anh Thái đã sử dụng tình huống gặp gỡ độc đáo của anh và chị để khắc họa rõ thêm bản chất, tính cách cũng như hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
3.3 Nghệ thuật đa giọng điệu
Giọng điệu trần thuật là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong nghệ thuật tự sự. Đại văn hào Lep Tônxtôi đã từng nhận xét: Cái khó nhất khi bắt tay viết một tác phẩm mới không phải là chuyện đề tài, tài liệu mà phải lựa chọn một giọng điệu thích hợp. Như vậy, cái quan trọng không phải là viết về những cái gì, mức độ phức tạp của những vấn đề được trình bày trong tác phẩm mà chính là cách thể hiện, thái độ của nhà văn về những điều mình thu nhận từ cuộc sống.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu trần thuật là: Thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…[30, tr 134]. Thiếu một giọng điệu phù hợp với đề tài, tư tưởng chủ đề, với nhân cách… thì nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm. Nhìn trên phương diện giọng điệu trần thuật cũng đủ để khẳng định sự thống nhất giữa quan niệm nghệ thuật và thực tế sáng tác của Hồ Anh Thái: Văn xuôi của ông là một dòng chảy thống nhất trong đa dạng, có sự đan cài của nhiều giọng điệu. Có thể nói, thống nhất trong đa dạng là phong cách của Hồ Anh Thái. Đúng như ông quan niệm: Tôi cho rằng người có phong cách chính là không khư khư bám lấy một phong cách cố định, bất biến. Có phong cách tức là phải đa giọng điệu, dù là anh có đổi giọng đến thế nào thì vẫn trên cái nền tảng văn hóa của anh, trên tầm nhìn của anh vào thế giới và nhân sinh. Hồ Anh Thái là nhà văn làm cue được nhiều giọng điệu trong sáng tác. Giọng điệu trần thuật của Hồ Anh Thái đa dạng nhưng không tồn tại riêng lẻ mà luôn đan cài vào nhau. Điều này thể hiện tài năng dẫn truyện cũng như phong cách đa dạng của nhà văn. Mỗi một cái nhìn khác nhau về con người và cuộc đời sẽ cho những cảm hứng khác nhau và những giọng điệu khác nhau để truyền đạt cảm hứng đó.
Hồ Anh Thái là một người kể chuyện có duyên và có giọng đặc sắc riêng. Một trong những yếu tố góp phần quan trọng tạo nên cái duyên và đặc sắc ấy chính là giọng điệu trần thuật. Ngay từ những trang viết đầu tiên nhà văn đã tạo chú ý về một lối kể chuyện hài hước sâu sắc riêng và đến những tác phẩm đạt độ chín nghệ thuật như Bốn lối vào nhà cười, Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm nhà văn đã khẳng định phong cách riêng của mình.
Trong sáng tác của Hồ Anh Thái luôn có sự tham dự của dàn hợp xướng giọng điệu, hài hước, giễu nhại, triết lý, trữ tình… Sự hòa điệu của các giọng khác nhau tạo nên một lối kể chuyện nhiều bè, những cách nhìn nhận khác nhau về cuộc sống của nhà văn. Vì thế, trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái không chỉ nêu ra một mà nhiều vấn đề, cho nên một giọng là không đủ cho tác giả diễn đạt. Dù là trong tiểu thuyết hay truyện ngắn, giọng điệu của ngôn ngữ trần thuật thường rất đa dạng, có sự đan cài nhiều giọng điệu trong mỗi tác phẩm. Sự biến ảo linh hoạt về điểm nhìn, điểm đứng của tác giả trong tác phẩm khiến người đọc không dễ xác định tư tưởng chủ đề, nội dung của nó mà phải vận dụng tư duy, tìm hiểu khám phá kĩ lưỡng tác phẩm. Sự biến đổi giọng điệu của Hồ Anh Thái gây nhiều ngạc nhiên bất ngờ, làm nên một phong cách độc đáo, phong cách viết đa giọng điệu.
3.3.1 Giọng trào phúng, giễu nhại
Trong tác phẩm này, hài hước, giễu nhại là chủ âm của bè giọng điệu. Hài hước được hiểu như một kiểu giọng vui đùa pha trò, cười cợt và châm biếm nhẹ nhàng chừng mực với mọi hiện tượng đời sống. Nó xuất hiện nhiều trong các tiểu thuyết sau 1975. Điều đó xuất phát từ những đổi thay của xã hội, bởi “tiếng cười chỉ tồn tại thực sự trong một quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa nhà văn và đối tượng chiếm lĩnh của văn học, đó là sự xóa bỏ khoảng cách sử thi, phi huyền hoặc, phi thành kính. Nó đem lại cho nhà văn điểm tựa có cơ sở thực tiến, điểm tựa tâm lí để chống lại thói quen lí tưởng hoá thi vị hoá, giản đơn và dễ dãi”
Nếu như tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một chuỗi cười dài thì Mười lẻ một đêm cũng là một tràng cười liên thanh. Tiếng cười có tính chất bao quát những bình diện trong cuộc sống. Nó thể hiện qua giọng nhại "vỡ Gia Lâm chạy về Thái Hà lập căn cứ địa mới, vỡ Thái Hà chạy về Hoàng Quốc Việt lập lại chiến khu hay "đa dạng hoá và đa phương hoá. Đấy là phương châm của người đàn bà lấy chống không biết mệt này", ở sự nhầm lẫn của ngôn từ "Tìm cho tớ xem ông trồng chuối họt ở đâu? Nộm hoa chuối à, tớ biết một nơi nhậu có nộm hoa chuối đậm đà khó quên, đến nhà hàng ở Láng Hạ nhé hay là sự hiểu nhầm "ngon không? chỉ tay vào đĩa thịt chó. Hồng Kông hiểu ngay. Ô gút gút. Bốn ông Việt Nam rộ lên theo gút gút. Đấy hiểu nhau rồi, dễ thế. Hồng Kông khen thêm một tiếng ngon dilisớt. Nó bảo sốt sốt cái gì? Thịt chó không chấm sốt. Đồ ngu. Có thế mà thông ngôn không đầu sỏ vẫn vui. Ngôn ngữ bị chia cắt, hiểu nhầm tạo ra khoảng đứt gãy ý niệm. Mỗi người theo đuổi một suy nghĩ riêng, cách hiểu riêng và đến cuối cùng họ vẫn không hiểu được nhau.
Giọng mỉa mai châm biếm là một cung bậc cao hơn của giọng cười cợt, thể hiện rõ thái độ của tác giả. Nhà văn mỉa mai những công trình xây dựng nửa vời, " Công trình hiện đại nào ở xứ này cũng có cái không đồng bộ. Chung cư có thang máy sang trọng, có hệ thống dịch vụ bài bản. Nhưng tình trạng mùa hè thiếu điện thiếu nước sao cũng có lúc trục trặc thang máy, cư dân từ tần hai đến tầng chín đều phải leo bộ lên đỉnh Evơrit. Sao tránh được lúc nước không bơm lên được tầng cao. Gọi xe chở nước đến mya thì chỉ tầng hai trở xuống mua được nước, các tầng trên phải mang xô mang chậu xuống mà xách lên hay sao?", tình trạng du học sinh "Con học trong nước không ra gì là cho du học, sang đấy trường giỏi, thầy giỏi nó sẽ giỏi", tình trạng xã hội nhốn nháo.
Nhà văn đặc biệt dành nhiều trang viết bàn luận về thực trạng nghệ thuật, về hội hoạ: " Vẽ hoạ tiết âm dương. Vẽ thời trang thương nhớ đồng quê, gầu nước đen, gầu nước đèn dầu tường đất. Vẽ thế được một lúc thì tự thấy tranh mình có chiều sâu triết học, có cảm xúc cội nguồn quê hương." nghệ thuật sắp đặt " Cả nhóm làm hội hoạ sắp đặt. Cả nhóm làm hội hoạ biểu diễn. Bày mấy cái chậu nhựa trên vỉa hè. Treo lủng lẳng trên mỗi chậu một cái nón. Rôi cầm vòi nước tưới lên nón cho rơi mưa xuống chậu. Thế là hoành chỉnh một tác phẩm.", điện ảnh: "Đạo diễn chủ nhiệm mỗi người xây được biệt thự mua được cả trang trại nhờ làm phim. Chỉ có điều phim là ra không ai xem. Điên mới xem. Một câu chuyện giả tạo từ đầu đến đuôi. Những triết lý cao thượng giả dối, Những nhân vật ra vào phim như đi chợ bất chấp lôgic, vài tự nhiên ra mất hút.… Không chỉ nêu lên những vấn đề tồn tại, bằng giọng mỉa mai châm biếm pha triết lí, Hồ Anh Thái còn khái quát lên bệnh của số đông những người làm nghệ thuật: "mắc bệnh hoang tưởng nghệ sĩ, mình còn chẳng biết mình là ai, thì thế giới xung quanh đều chỉ nhìn qua một màn sương mù của kẻ lệch lạc ". Đó là một cái nhìn thẳng thắn và có chiều sâu suy nghiệm. Những ảo tưởng, hư danh không làm sáng lên tên tuổi của những người làm nghệ thuật mà chỉ đẩy họ đi sâu hơn vào con đường mù mờ về cuộc sống.
Không chỉ tập trung mổ xẻ những vấn đề của giới nghệ sĩ, Hồ Anh Thái còn tập trung châm biếm giới giới trí thức. Từ những vấn đề như hội thảo quốc tế, "hội thảo của ta tổ chức, một trường một viện đứng ra làm hội thảo kéo vào được một vài nghiên cứu sinh nước ngoài đang sống ở Việt Nam đến lập tức được điềm nhiêm đi kèm chữ quốc tế. Tính chất hội thảo đã khác, đến việc làm luận văn, viết sách, phong hàm. Nhà văn bóc trần chân dung trí thức, "chỉ có duy nhất hai ông nói tiếng Việt trong một hội thảo nói tiếng Anh" hay "nhà văn hoá lớn đang vục đầy vào ăn. Nhai chòm chọp. chèm, chẹp... Cả một vùng bán kính một mét quanh chỗ ông ngồi, món ăn đã bị cày bừa lật gạt bốc bải ngổn ngang. Những nét điểm qua không bàn luận nhưng thể hiện rõ sự châm biếm sâu sắc. Biện pháp đối lập được sử dụng triệt để để phản ánh nét hào nhoáng bên ngoài và sự sa đọa bên trong, hư danh và bản chất thực. Lời kết cho những bức tranh biếm hoạ là sự ngậm ngùi, bất lực, "từ lúc nào chị đã từ bỏ ý nghĩ sửa sang thế giới. Người ta phải sửa sang chính mình cho phù hợp với thế giới. Chị làm sao sửa sang được cái tính tham ăn của Giáo sư Một…làm sao sửa được cái hám danh làm thơ viết nhạc của Giáo sư Hai, cả cái tính tính sờ hiện vật của Giáo sư Hai nữa. Nhân vật người đàn bà, trước đó còn là một người rất hăng hái tham gia hoạt động xã hội, dũng cảm và nhiệt tình xung phong làm công việc không ai muốn là đi lập biên bản nhà văn hoá có thói quen đái bậy nhưng rồi sau đó chính nhân vật cũng phải ngậm ngùi đầu hàng. Sự ngậm ngùi ấy thể hiện sự bất lực, cả những xót xa và cay đắng. Một con người với sức lực cá thể không làm sao xoay chuyển được những thói tật đang ăn sâu trong con người.
Lớp nghệ sĩ và trí thức đều có tính thị dân rõ nét, không làm sao gột rửa được những thói tật ấy để có thể xứng với vị trí thực của mình trong xã hội. Những điều đó đã tồn tại một thời gian dài và bùng phát trong thời đại mới. Những câu chuyện ấy không phải bạn đọc giờ mới được nghe nhưng bạn đọc vẫn thấy thích thú, hấp dẫn. Bởi không chỉ phơi trần sự thực, nhà văn còn phân tích, bóc tách, chỉ ra những bệnh trầm kha hiện tồn, bệnh sĩ diện hão, bênh hoang tưởng, bệnh tự tôn ... Bằng giọng điệu cười cợt, châm biếm, nhà văn đã hạ bệ tất thảy những vỏ ngoài hào nhoáng để bóc tách hiện thực trần trụi của mọi vấn đề, phản ánh chân thực hiện trạng của cuộc sống, con người.
Câu hỏi của nhân vật người đàn bà (chị) trong tác phẩm . " nhưng thực tế hơn có phải là bằng lòng với thế giới sẵn có? Và chấp nhận? như là khoảng lặng suy ngẫm. Dù đã tự thừa nhận sự bất lực của mình nhưng trong thâm tâm vẫn luôn trở trăn suy nhẫm. Câu hỏi không chỉ là sự tự vấn mà còn là sự mời gọi câu trả lời trong lòng người đọc. Sự mời gọi tham dự ấy như là điểm tựa của tác phẩm. Dù sao thì giữa cuộc sống vận hành đảo điên của mọi giá trị này, con người vẫn tỉnh táo để nhận ra bản chất thực của nó, hoài nghi về những giá trị ảo để thức nhận về mình.
3.3.2. Giọng trữ tình lãng mạn
Song hành với giọng điệu mỉa mai, châm biếm ấy là những khoảng lặng trữ tình. Trữ tình xen vào những câu chuyện kể tạo nên một khúc vĩ thanh ấn tượng, đặc biệt là chuyện về người cá. Có lẽ đây là câu chuyện đậm màu sắc cổ tích nhất trong tác phẩm. Mọi chuyện như được sắp đặt một cách tình cờ, cuộc gặp gỡ của cô tiên kể chuyện cố tích và người cá, mối tình chưa biết mặt đã yêu của cô tiên và bố của người cá … Sự tình cờ đưa đẩy để họ trở thành những mảnh ghép nối của một gia đình nhỏ. Bao bọc trong không khí của câu chuyện là sự sáng trong của tâm hồn người cá, sự yêu thương của người đàn bà và người đàn ông. Nhưng cái kết của câu chuyện cổ thời hiện đại ấy là không có màu sắc thần tiên. Cuối cùng, người cá chết vì kiệt sức sau một thời gian dài ngâm mình trong bể bơi. Người cá lại không hề biết bơi và chết vì nước. Đó là một nghịch lí đau xót của cuộc sống hiện đại. Người mẹ kế yêu thương của người cá lại quên bẵng đứa con của mình vì đắm chìm với mối tình cũ. Người bố yêu thương nó thì mải miết cùng chuyến công tác và thậm chí còn không ở bên cạnh nó trong những giây phút cuối cùng. Gia đình yêu thương tan biến. Những thanh âm trong trẻo, hạnh phúc nhất trong tác phẩm cuối cùng đã đứt vỡ.
Đến những phút cuối đời, người cá vẫn "đòi nghe chuyện kể", thằng Cá thỉnh thoảng lại hỏi xem con chó có đến không?". Nó vẫn mơ hồ về sự thật của cuộc sống bởi luôn được bao bọc bởi những câu chuyện cổ tích. Người cá như một thanh âm lạc lõng trong chuỗi bản nhạc xô bồ. Cuộc sống đầy nhưng toan tính bon chen, những điều giả trá không thể dung nạp được một tâm hồn quá đỗi trong trẻo và mù nhoà về cuộc sống như thế. Cái chết của nó như là một qui luật đào thải nghiệt ngã của hiện thực cuộc sống. Cái chết của người cá phần nào đó giống với cái chết của nhân vật đứa trẻ 2 tuổi trong Cõi người rung chuông tận thế (Hồ Anh Thái) hay sự ra đi của bé Hon trong Thiên sứ (Phạm Thị Hoài). Những nhân vật ấy đều ra đi khi chỉ mới là những đứa trẻ. Dường như sự sáng trong, thánh thiện đến mù mờ về cuộc sống không thể tồn tại trong xã hội đầy những biến động đổi thay, đầy những toan tính vụ lợi này Sự ra đi hiểu theo một cách khác thì có ý nghĩa như là sự bảo tồn của cái đẹp. Tâm hồn sáng trong ngây thơ của người cá sẽ vĩnh tồn trong lòng người đọc.
Nếu như giọng điệu hài hước, châm biếm như là một phương thức để phản ánh cuộc sống, giọng trữ tình là một nốt lặng để nhìn về những điều tốt đẹp hiện tồn thì giọng chiêm nghiệm triết lí là những thông điệp, những ngẫm suy của nhà văn đối thoại với bạn đọc.
Nhà văn thường gửi những ngẫm suy về cuộc sống qua các nhân vật, đặc biệt là nhân vật người đàn bà : "Từ lúc nào chị đã từ bỏ ý nghĩ sửa sang thế giới. Người ta phải sửa sang chính mình cho phù hợp với thế giới". Đó là sự thức nhận về chân lí của một thời đại. Một thời gian dài con người ảo tưởng về khả năng vẫn xoay vũ trụ, khả năng lay chuyển cả thế giới, cả xã hội đều là những anh hùng, vĩ nhân. Cái tôi rạn vỡ, hoài nghi, hiểu về giới hạn của mình mới là cái tôi thực của con người thời đại mới.
Nhà văn thức nhận đầy xót xa về cuộc đời : "nhưng những điều rốt cuộc mà đời người mang theo hình như bao giờ cũng nhiều chất ngụ ngôn".Chất cổ tích luôn ít hơn chất ngụ ngôn, đó mới là bản chất thực của cuộc sống, đời người. Tiểu thuyết này được viết theo lối nhại lại câu chuyện cổ nổi tiếng Nghìn lẻ một đêm nhưng kết truyện lại phủ định chất cổ tích của cuộc đời mà nhấn mạnh chất ngụ ngôn. Đó là một sự đối thoại trở lại, một sự nhìn thẳng vào hiện thực của cuộc sống.
Qua đó chúng ta thấy rằng, các giọng điệu không tồn tại như những âm giai tách biệt mà luôn có sự đan cài với nhau. Giọng chủ đạo của tác phẩm là giọng cười cợt châm biếm và sự tham gia, đan xen của giọng trữ tình và giọng chiêm nghiệm triết lí tạo nên sự phức hợp, thể hiện cách nhìn nhận đánh giá nhiều chiều của tác giả về hiện thực. Nhà văn không đưa ra lời phán truyền chân lí cũng không mở ra sự lựa chọn những con đường giải quyết những vấn đề ngổn ngang trong xã hội mà chỉ là sự quan sát, phơi bày, đánh giá, đúc rút thành những qui luật … Vai trò dẫn đường, người đi tìm chân lí của nhà văn đã bị mờ nhoà, thay vào đó là hình ảnh một nhà văn tham dự, đứng ngang hàng với nhân vật để đối thoại với bạn đọc. Giọng điệu trần thuật của Hồ Anh Thái đã biến đổi qua từng tác phẩm, từng thời kì sáng tác vừa thể hiện sự phong phú và nỗ lực đổi mới của nhà văn, vừa giúp nhà văn bộc lộ rõ hơn tư tưởng của mình, quan niệm nghệ thuật về con người của mình.
3.4 Không – Thời gian nghệ thuật
Không gian, thời gian là những phẩm chất quan trọng định tính của hình tượng nghệ thuật, đảm bảo cho việc tiếp nhận toàn vẹn thực tại nghệ thuật và tổ chức nên kết cấu của tác phẩm. Nghệ thuật ngôn từ thuộc nhóm các nghệ thuật động, các nghệ thuật thời gian. Nhưng hình tượng văn học, về mặt hình thức được khai triển trong thời gian, về mặt nội dung nó tái tạo bức tranh vừa không gian vừa thời gian về thế giới, hơn nữa, lại tái tạo ở bình diện giá trị tư tưởng.
Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của thế giới vật chất, con người bao giờ cũng tồn tại giữa một không gian và thời gian xác định. Trong tác phẩm văn học không thời gian nghệ thuật chính là nơi để cho nhân vật tồn tại và vận động, đồng thời là phương tiện nghệ thuật để tái hiện đời sống.
3.4.1 Không gian nghệ thuật
3.4.1.1. Không gian sinh hoạt đời thường
Trong "Mười lẻ một đêm" có sự dịch biến trong không gian, thời gian và từ bên ngoài vào bên trong. Câu chuyện ngay lúc đầu được xác định trong giới hạn không gian là "trong căn hộ trên tầng sáu (7-2) nhưng câu chuyện được kể không giới hạn trong cánh cửa mà xảy ra ở cuộc sống ngoài kia, nhốn nháo và đầy nghịch lí. Không gian mở rộng từ khoảng hẹp là thành phố, nông thôn rồi rộng hơn là không gian các nước khác như nước Mĩ, các nước Châu Âu. Đó không chỉ là không gian xã hội bao quát mà còn là không gian riêng tư của những gia đình, phòng trà, phòng khách, không gian chính giới, học thuật … Tất cả đều được mở ra cả chiều rộng và chiều sâu. Điều đáng chú ý là điểm nhìn luôn được dịch chuyển linh hoạt, từ toạ độ ban đầu (căn phòng) chuyển đến các không gian rồi quay trở về toạ độ cũ, lại tiếp tục dịch chuyển. Tưởng như điểm nhìn ấy có một toạ độ trung tâm : căn phòng và những toạ độ biên, các không gian rộng mở, những không gian hẹp khác. Giữa các toạ độ ấy luôn có sự liên kết, song chiếu lẫn nhau.
Những thói quen thời bao cấp kéo dài cùng thói học đòi thời mở cửa, đâu có thiếu gì trong cuộc sống hôm nay. Nhà văn nắm bắt rất nhanh, và bằng văn chương, anh điểm đúng huyệt nó. Đến tiểu thuyết Mười lẻ một đêm, người đọc có thể phải bật cười rất nhiều. Tên cuốn tiểu thuyết khiến ta có chút nhớ tới tác phẩm Ngàn lẻ một đêm của người Ba Tư, với trí tưởng tượng vô cùng phóng túng, họ kể những câu chuyện nhiều khi bất chấp lôgic. Mười lẻ một đêm cũng có sự phóng túng trong tưởng tượng của nhà văn, lại có cả lối bố cục liên tiếp mở ra những câu chuyện, mở ra nhiều khung cảnh sống, nhiều không gian khác nhau. Nhưng đây là cuộc sống Việt Nam hiện tại, chứ không phải là thế giới cổ tích của Ba Tư xưa.
Chính vì thế, không gian được hiện lên rất đời thường ngay từ căn hộ của anh chàng Họa sĩ Chuối Hột. Tất cả đều giản dị, sống động dưới ngòi bút đầy tài hoa, tinh tế của Hồ Anh Thái…Của đáng tội có một cái giường, cạnh giường có một cái tủ quần áo kiểu tạm, riđô kéo phécmơtuya bao quanh móc áo. Một cái bếp ga chẳng biết có còn ga. Một cái tủ lạnh chẳng biết có còn đồ lạnh… Căn hộ bảy mươi mét vuông, một phòng khách, một phòng ăn, hai phòng ngủ là quang cảnh vườn không nhà trống, chiến thuật tiêu thổ kháng chiến thời chống Pháp. Một không gian bị bó hẹp trong căn hộ mười bảy mét vuông rất đơn giản và đầy mộc mạc. Nó đậm chất đời thường nhưng có vẻ gì đó là sự tuyền toàng. Không chỉ dừng lại ở đó mà không gian được trải rộng ra ngoài với những điểm đến là làng quê, thành phố cho tới những nơi xa xôi hơn. Có thể nói rằng không gian trong tác phẩm không bị bó hẹp mà được dàn trải ra cả những không gian ngoài xã hội, thậm chí còn ở nước ngoài với những phong tục đặc trưng của mỗi nơi đã làm rõ hơn bộ mặt xã hội đương thời đầy ngổn ngang, xô bồ qua dòng kí ức của hai nhân vật chính. Do vậy, nó tạo cho tác phẩm có nét độc đáo, mới lạ đến kinh ngạc. Tuy không gian được nhìn ở nhiều góc độ khác nhau nhưng giưa các không gian luôn có sự thống nhất, cân xứng hài hòa với nhau. Chính vì thế phẩm gây sự hấp dẫn, tò mò và lôi cuốn công chúng những người yêu nghệ thuật.
3.4.1.2. Không gian tâm lý
Đây là không gian mà nó vốn có qua đó bộc lộ tâm tư, tình cảm, cảm xúc của nhân vật và cả chính bản thân tác giả.
Trong tác phẩm Mười lẻ một đêm, không gian tâm lý được gói gọn trong căn hộ trên tầng sáu qua diễn biến tâm trạng của “anh” và “chị”. Tất cả những cung bậc cảm xúc hiện lên một cách rất chân thật, rõ nét trong không gian đời thường đó là căn hộ của anh chàng độc thân Họa sĩ Chuối Hột. Dường như không gian cũng thay đổi theo tâm trạng của hai nhân vật. Căn phòng trở nên tù túng, ngột ngạt trong mắt họ…Không có điện thoại, chung cư chất lượng cao trở thành cô đảo. Cư dân sau giờ làm việc, rời công việc rời nơi làm ăn về nhà là tự xác định tách biệt với thế giới bên ngoài…Không gian hiện lên đầy vẻ cô liêu, ảm đạm. Phải chăng tâm trạng lo lắng, bồn chồn đã tạo nên một không gian như thế. Tâm lí được đẩy từ cao trào lên đỉnh điểm rồi lại kết thúc một cách đầy ngạc nhiên và vô cùng lý thú. Ở hoàn cảnh đó bao nhiêu phỏng đoán hiện lên trong suy nghĩ của họ. Chính những bối rối, rụt rè đã tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn đầy thú vị trong khoảng không gian này…Anh chàng với cô nàng tình nhân, không ai lý giải nổi vì sao mình lại bị nhốt như thế này. Bao nhiêu suy luận phỏng đoán. Qúa trưa không thấy gã về thì cho rằng gã mải mê quá chén với bạn bè. Chiều muộn không thấy gã về thì nghĩ gã say. Tối thì đoán gã vẫn còn say. Đêm thì bắt đầu nghĩ hay gã bị tai nạn, nhưng cứ phấp phỏng hy vọng gã sắp trở về…Tâm trạng họ gần như hoang mang, rối bời vì những kế hoạch, những công việc của họ đã lỡ. Những ngày đầu tiên trong căn hộ tâm trạng họ càng ngày càng nặng nề hơn. Và chính nó đã làm cho không gian cũng trở nên trống trải, lạnh lẽo và nó như tách biệt hẳn với thế giới ít ngày….Ngày thứ hai, người đàn ông đã thử tìm một sợi dây thép, một cái tuốcnơvít để xử lý ổ khó từ bên trong. Căn hộ hoàn toàn trong tình trạng vườn không nhà trống. Đố tìm ra nỗi cái gì…Nhưng ngay sau đó tâm trạng của họ lai đột ngột thay đổi …Buổi sáng đầu tiên hai người gặp lại trong căn hộ này phải nói là nồng nàn tình ái. Dân mình ăn đi kèm với chơi. Chơi rồi lại ăn. Bữa đại tiệc kết hợp ẩm thực với sex…
Có thể nói rằng không gian cũng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn cho người đọc. Nó chi phối đến mọi yếu tố khác từ kết cấu, nhân vật cho đến nội dung tư tưởng trong tác phẩm.
3.4.2 Thời gian nghệ thuật
3.4.2.1. Thời gian dòng ý thức
Song trùng với sự dịch chuyển của điểm nhìn không gian là sự thay đổi của điểm nhìn thời gian. Thời gian hiện tại, quá khứ, thời gian cuộc đời, thời gian thực và thời gian trong truyện cổ. Điểm nhấn của tác phẩm là sự chuyển hoá linh hoạt giữa thời gian cuộc đời trong tác phẩm. Kết cấu "truyện trong truyện" tạo đà cho sự đan xen thời gian cuộc đời của các nhân vật. Từ người đàn ông (anh), người đàn bà (chị) đến hoạ sĩ trồng chuối hột, người mẹ, giáo sư 1, giáo sư 2… Sự chuyển biến linh hoạt giữa điểm nhìn thời gian cuộc đời tạo nên sự xen kẽ những câu chuyện một cách tự nhiên. Nó cũng thể hiện sự đa phức của mảng hiện thực nhà văn phản ánh. Ở đó không chỉ có câu chuyện của người kể mà còn câu chuyện của biết bao số phận, không chỉ có chuyện của quá khứ hay hiện tại mà còn là sự dịch chuyển từ quá khứ đến hiện tại, sự đối sánh từ hiện tại trở về quá khứ …
Mười lẻ một đêm là những mẫu người dị hợm và lố bịch trong cuộc sống nước ta đầu thế kỷ XXI. Đó là họa sĩ Chuối Hột, người rất thích trồng cây chuối trong tình trạng khỏa thân Người bóng nhẫy, trắng lôm lốp như cây chuối. Tất nhiên là chuối hột trổ hoa ở quãng lưng chừng trời. Nhân vật Bà mẹ cũng đậm chất dị hợm. Qua năm lần đò và vô vàn những cuộc phiêu lưu tình ái, tất cả đều diễn ra trước mắt đứa con gái, … Con bé phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ... Sau năm lần ly dị, bà mẹ được năm cái nhà…Người chồng thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư chất lượng cao. Người đọc phải bật cười khi cô con gái kết luận: Mẹ ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén được. Một cặp nhân vật rất dị biệt nữa là cặp giáo sư Một tên Xí và Hai tên Khỏa. Ông Khỏa vốn là chồng thứ năm của Bà mẹ. Ông mắc chứng chỉ bật lên tiếng cười thôi thì cứ thế cười mãi. Không sao hãm lại được. Hơ hơ hơ. Mãi. Chập dây thần kinh cười. Có lần hướng dẫn luận văn cho một nữ sinh, ông cứ nắm lấy đùi cô. Cô xin phép về. Thầy vẫn nắm đùi cô. Thầy cười, chuỗi cười bất tận. Cô nữ sinh hoảng quá, Đúng lúc nàng (nhân vật Bà mẹ) về. Nàng chồm lên tát vào mặt chồng một cái. Tịt. Nàng hắt chân con kia ra khỏi tay chồng. Dứt… Chuyện về những con người như thế, đôi tình nhân kể cho nhau nghe trong thời gian họ “bị nhốt” trong một căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Trong Mười lẻ một đêm, lần lượt diễn ra biết bao chuyện. Từ chuyện của đôi tình nhân, chuyện về các nhân vật dị hợm, đến chuyện về các quan ông, cả chuyện các quan bà. Hội các phu nhân thứ trưởng, các phu nhân bộ trưởng. Đúng là chuyện mua quan, bán tước, mua đất bán lời lớn, gian ngoan có thừa. Có chuyện vợ một ông to ăn cắp cái đĩa sứ trong một bữa tiệc ngoại giao sang trọng, lột tả cái thô lậu không sao gột sạch được trong căn tính các mệnh phụ…
Theo dòng kí ức của “anh” và ‘chị”, bao nhiêu mảnh đời, số phận cũng như những mặt xấu của xã hội được Hồ Anh Thái phác họa một cách đầy tinh tế nhưng cũng rất châm biếm sâu cay. Vì theo hồi ức nên dường như thời gian có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Từ những kỉ niệm đẹp trong khoảng thời gian anh chị còn bên nhau cho đến nỗi niềm thầm kín, đau khổ của cả hai người. Đây là một thủ pháp rất đặc biệt làm cho điểm nhìn của tác phẩm trở nên đa dạng, đa chiều hơn.
3.4.2.2. Thời gian hồi cố
Thời gian hiện lên khá rõ ràng cụ thể, lần lượt những hồi ức được kể lại trong khoảng thời gian là mười một ngày đêm. Chỉ trong khoảng thời gian như vậy mà bao nhiêu câu chuyện được lần lượt ùa về theo trí nhớ của ‘anh” và “chị”. Hai con người này đã đưa chúng ta quay về với quá khứ nơi mà họ đã từng có những kỉ niệm vui buồn lẫn lộn. Từ câu chuyện của chính bản thân họ cho đến những việc hằng ngày mà họ trải qua. Đó là những việc mà trước đây họ cho là bình thường, nhạt nhẽo nhưng bây giờ nó lại trở nên vô cùng quan trọng, quý giá với họ.
Thời gian chủ yếu trong mười lẻ một đêm chính là thời gian hồi cố, khoảng thời gian thường xảy ra vào ban đêm. Đây là thời gian thích hợp để người ta ngồi nghĩ lại những chuyên đã qua. Vì vậy tràn ngập cả căn phòng là một khoảng không đầy huyền ảo. Và cứ thế trong không gian tưởng chừng tù túng này tất cả những suy tư, bộc bạch cũng như những hiện thực của cuộc sống được khơi gợi trong tâm thức của hai con người đã từng có một thời yêu nhau say đắm này. Đầu tiên là sự hồi cố về mối tình đã qua, một tình yêu đầy éo le, trắc trở. Những cuộc du lịch, tham quan là những kỉ niệm khó quên trong tâm thức của cả hai. Không những thế, những điều thầm kín chôn dấu tận đáy lòng giờ đây lại được bộc bạch theo từng dòng hồi ức của cả hai con người có số phận thăng trầm, lận đận. Tiếp theo đó là hồi ức về người mẹ trăng hoa đã gây cho chị bao nỗi khổ nhục hay là cuộc gặp gỡ định mệnh của chị và ông Vip cho đến công việc hằng ngày với những bề bộn của cuộc sống lại một lần nữa hiện diện trong tâm trí chị. Không chỉ riêng chị mà tâm trạng anh cũng rối bời và không khỏi xúc động khi anh lại hồi tưởng về quá khứ. Chuyện tình của anh với chị cũng là một kỉ niệm không thể nào quên, nó luôn ngự trị ở một nơi nào đó trong trái tim anh. Rồi đến những lo taon của cuộc sống thường nhật, những trắc trở, khó khăn trong công việc cũng là dấu ấn không bao giờ phai nhòa trong anh. Tất cả như vẫn còn đâu đây và hòa quyện vào nhau không tách rời.
C KẾT LUẬN
Quá trình sáng tác của Hồ Anh Thái gần như trùng khít với hành trình đổi mới của văn học Việt Nam những năm sau chiến tranh. Sau gần 30 năm sáng tác, Hồ Anh Thái đã có những đóng góp đáng kể cho tiến trình đổi mới không mấy dễ dàng của văn học Việt Nam sau 1975. Nhà văn đã bền bỉ tạo nên một dòng chảy riêng giữa nguồn chung văn chương đương đại. Hồ Anh Thái là người có nhiều tìm tòi, có ý thức cách tân trong nghệ thuật nhằm tạo sự phù hợp, hiệu quả trong cách thể hiện con người theo quan điểm riêng của mình. Vì thế sáng tác của ông đã để lại những ấn tượng khó phai trong lòng người đọc. Xét từ quan niệm nghệ thuật về con người, chúng tôi nhận thấy trong các sáng tác của Hồ Anh Thái nói chung và trong tiểu thuyết Mười lẻ một đêm nói riêng có một số điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất quan trọng của thi pháp học là điểm tựa của sáng tác văn học và tiếp nhận văn học, xét từ góc độ người sáng tạo và người thưởng thức. Quan niệm nghệ thuật về con người là hướng tiếp cận hợp lí để tìm hiểu, đánh giá giá trị nhân văn của tác phẩm văn học, là cơ sở cho người tiếp nhận có những lí giải đúng đắn về sáng tạo nghệ thuật của nhà văn trong sáng tạo văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi sau 1975 đã có những biến đổi quan trọng theo hướng dân chủ hóa. Văn xuôi Việt Nam giai đoạn này hướng về cá nhân con người với những số phận cụ thể. Những tư tưởng riêng của con người mới là mục đích của sự phản ánh. Các nhà văn hướng ngòi bút của mình vào thế giới tâm hồn, khám phá chiều sâu tâm linh để nắm bắt những trạng thái tinh thần, tình cảm tự nhiên, những cảm xúc khó lý giải của con người.
Thứ hai, tìm hiểu sáng tác của Hồ Anh Thái từ góc độ quan niệm nghệ thuật về con người cho thấy Hồ Anh Thái là nhà văn có cái nhìn bao quát, tinh tế và nhạy cảm về con người và đời sống xã hội. Trong đó hiện thực cuộc sống không hiện lên xuôi chiều đơn giản mà là một thế giới đa chiều đầy biến ảo. Hồ Anh Thái quan niệm cuộc đời như những mảnh vỡ, như một nhà cười khổng lồ. Từ cái nhìn đa chiều về cuộc đời Hồ Anh Thái đã có những cảm nhận riêng sâu sắc về con người và số phận con người. Trong tác phẩm của ông hiện ra nhiều kiếp người, nhiều cảnh đời ở nhiều thời điểm, nhiều tình huống khác nhau. Ở đó thể hiện những cảm nhận sâu sắc về nhân sinh của nhà văn.
Thứ ba, quan niệm nghệ thuật về con người đã chi phối đến nghệ thuật sáng tác văn học của Hồ Anh Thái. Bên cạnh việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật truyền thống, nhà văn đã khai thác hiệu quả yếu tố tâm linh để sáng tạo nên một thế giới nhân vật đa dạng với cách nhìn độc đáo. Với mỗi loại nhân vật, Hồ Anh Thái luôn có cách thức xây dựng sao cho phù hợp nhất. Hầu hết qua các tình huống, các chi tiết, người đọc đều có thể cảm nhận được những suy nghĩ, đánh giá của Hồ Anh Thái về con người.
Nghệ thuật tổ chức cốt truyện cũng là một cách thức quan trọng để Hồ Anh Thái thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của mình trong tác phẩm. Trong các sáng tác của ông vừa có kiểu cốt truyện đầy đủ, chặt chẽ vừa có những truyện không có cốt truyện hay kiểu cốt truyện lắp ghép, thay đổi vị trí sự kiện. Với cách tổ chức cốt truyện linh hoạt Hồ Anh Thái vừa diễn tả được khả năng vươn tới sự hoàn thiện, vừa thể hiện được bi kịch của những thân phận và cả những thói xấu của con người.
Đa giọng điệu là điểm đặc sắc trong sáng tác của Hồ Anh Thái. Ông là nhà văn làm chủ được nhiều giọng điệu trong sáng tác. Dưới ngòi bút của nhà văn các giọng điệu không tồn tại riêng lẻ mà đan cài, biến đổi qua từng tác phẩm, từng thời kì sáng tác. Đa dạng hóa giọng điệu vừa thể hiện nỗ lực, sáng tạo không ngừng để khám phá đời sống con người, làm mới văn chương, vừa giúp tác giả bộc lộ rõ hơn tư tưởng, quan niêm nghệ thuật về con người của nhà văn. Giọng điệu của Hồ Anh Thái biến đổi qua từng tác phẩm, từng thời kì sáng tác, vừa thể hiện sự phong phú và nỗ lực không ngừng để khám phá đời sống con người và sáng tạo, làm mới văn chương, vừa giúp tác giả bộc lộ rõ hơn tư tưởng, quan niệm nghệ thuật về con người của mình.
Trên đây là những đánh giá bước đầu về sáng tác của Hồ Anh Thái từ quan niệm nghệ thuật về con người của chính nhà văn. Mà đăc biệt trong đó là tiểu thuyết Mười lẻ một đêm nói đến một câu chuyện rộng lớn về cuộc sống thể hiện một cái nhìn bao quát, khả năng phản ánh và phân tích những tồn tại trong xã hội, một tài bút hài hước kiểu mới của tác giả. Tác phẩm một lần nữa khẳng định vị trí của Hồ Anh Thái, thể hiện những bước tiến dài của ông trong nghệ thuật tiểu thuyết.
Từ những nghên cứu trên đã cho chúng tôi thấy được những giá trị thẩm mĩ đậm chất nhân văn cũng như những nét độc đáo trong nghệ thuật văn chương của một nhà văn đang độ sung sức và là Người con đi dài với văn chương. Chúng tôi hi vọng ngày càng có nhiều độc giả yêu mến văn chương của Hồ Anh Thái, có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định giá trị đích thực trong sáng tác của một nhà văn có nhiều đóng góp cho văn xuôi đương đại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Thị Hường (1994), Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay, Tạp chí văn học số 4.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội.
Hồ Anh Thái (2004), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Đà Nẵng.
Hồ Anh Thái (2006), Mười lẻ một đêm, Nxb Đà Nẵng và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội.
Hồ Anh Thái (2005), Người đàn bà trên đảo, Nxb Đà Nẵng.
Hồ Anh Thái (2005), Tự sự 265 ngày, Nxb Hội nhà văn Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn ( đồng chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục Hà Nội.
PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp – TS. Nguyễn Văn Tùng (2011), Thi pháp học ở Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam.
Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kì đổi mới, Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và Đào tạo – Vụ Giáo viên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- De cuong so luoc.doc