MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1
Những vấn đề cơ bản về pháp luật chào bán chứng khoán 3
1. Khái niệm chứng khoán 3
1.1. Định nghĩa chứng khoán 3
1.2. Đặc điểm của chứng khoán 3
1.3. Phân loại chứng khoán 4
2. Chào bán chứng khoán 6
2.1. Khái niệm về chào bán chứng khoán 6
2.2. Phương thức chào bán chứng khoán 6
3. Pháp luật về chào bán chứng khoán 8
3.1. Khái niệm pháp luật về chào bán chứng khoán 8
3.2. Nội dung pháp luật về chào bán chứng khoán 9
3.2.1. Pháp luật về chào bán chứng khoán của doanh nghiệp 9
3.2.2.Pháp luật về chào bán chứng khoán của Chính phủ và chính quyền địa phương 12
CHƯƠNG 2
Thực trạng pháp luật Việt Nam về chào bán chứng khoán 13
1. Chủ thể chào bán chứng khoán 13
1.1. Chính phủ 13
1.2. Chính quyền địa phương 13
1.3. Doanh nghiệp 14
1.3.1. Chủ thể chào bán chứng khoán vốn 14
1.3.2. Chủ thể chào bán chứng khoán nợ 16
2. Các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán của doanh nghiệp 17
2.1. Các quy định của pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng 17
2.1.1. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng 17
2.1.2. Các quy định về thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng 20
2.2. Quy định về chào bán riêng lẻ 22
2.2.1. Quy định về chào bán cổ phiếu 22
2.2.2. Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu 27
3. Chào bán chứng khoán của chính phủ và chính quyền địa phương 29
3.1. Trái phiếu Chính phủ 30
3.2. Trái phiếu Chính quyền địa phương 31
4. Quản lý Nhà nước về chào bán chứng khoán ở Việt Nam 32
KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1925 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quy định của pháp luật về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
toán. Quy định này là sự kế thừa của nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003. Mức vốn tối thiểu mà pháp luật ấn định cho các tổ chức chào bán trái phiếu ra công chúng là hoàn toàn phù hợp. Mục đích là để đảm bảo chất lượng trái phiếu chào bán ra công chúng bởi vì mức vốn này đòi hỏi tổ chức chào bán phải là những doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực tài chính dồi dào. Đồng thời với mức vốn tối thiếu như vậy, doanh nghiệp vẫn có thể đảm bảo khả năng trả nợ cho người sở hữu trái phiếu.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có khoản nợ quá hạn trên một năm. Với bản chất là chứng khoán nợ, chủ thể sở hữu trái phiếu là chủ nợ của doanh nghiệp phát hành. Khả năng được hoàn trả số tiền đầu tư luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư. Vì vậy, Luật chứng khoán 2006 phần nào thắt chặt điều kiện này là hoàn toàn hợp lý.
Thứ ba, có phương án phát hành phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán được hội đồng quản trị, hoặc hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu thông qua. Quy định này góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư vào tổ chức chào bán, từ đó doanh nghiệp nhanh chóng đạt được mục đích huy động vốn.
Thứ tư, có cam kết thực hiện những nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, đảm bảo quyền và lợi ích của nhà đầu tư. Trên đây là những điều kiện để doanh nghiệp có thể chào bán trái phiếu ra công chúng. Những quy định này nhằm đảm bảo tính thanh khoản, chất lượng chứng khoán, đảm bảo tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư và khả năng thanh toán của tổ chức phát hành. So với quy định trước đây, các quy định bắt buộc phải có tổ chức bảo lãnh phát hành và việc xác định đại diện người sở hữu trái phiếu đối với việc phát hành trái phiếu ra công chúng không được đề cập trong Luật chứng khoán 2006. Việc loại bỏ các quy định bắt buộc này sẽ tạo ra một cơ chế mở thông thoáng hơn cho các chủ thể chào bán trái phiếu.
* Điều kiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng.
Chứng chỉ quỹ đầu tư là loại chứng khoán không phát hành riêng lẻ mà chỉ có hình thức phát hành ra công chúng. Việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư có những điểm khác biệt so với chào bán cổ phiếu và trái phiếu. Đó là chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư lần đầu bao giờ cũng gắn với việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán. Nói cách khác, quỹ đầu tư chứng khoán chỉ được thành lập nếu đợt chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư kết thúc thành công với số lượng, tỷ lệ theo quy định của pháp luật. Chứng chỉ quỹ đầu tư do công ty quản lý quỹ đầu tư phát hành. Việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng được quy định tại khoản 3 điều 12 Luật Chứng khoán 2006.
Thứ nhất, tổng giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán tối thiểu là 50 tỷ đồng Việt Nam. Có thể nói, đây là bước thay đổi đáng kể theo hướng cụ thể hoá của Luật, nhằm một mặt tạo ra một khung pháp lý cần thiết cho nhiều tổ chức chào bán, mặt khác đảm bảo chất lượng của chứng chỉ quỹ được chào bán.
Trước đây, tại điều 9 Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003, quy định về điều kiện phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng là:
1. Việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra công chúng lần đầu thực hiện đồng thời với thủ tục xin phép lập quỹ đầu tư chứng khoán.
2. Việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán để tăng vốn của quỹ đầu tư chứng khoán phải được uỷ ban chứng khoán chấp nhận”. Quy định chưa rõ ràng như trên gây lúng túng cho chủ thể phát hành, nhưng đồng thời lại là kẽ hở cho nhiều chủ thể khác lợi dụng.
Thứ hai, có phương án phát hành và phương án đầu tư vốn thu được từ đợt chào bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định của Luật chứng khoán 2006.
Trên đây là toàn bộ những điều kiện mà pháp luật về chứng khoán đòi hỏi một tổ chức chào bán phải có khi muốn chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy mới có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 nhưng những quy định này thực sự góp phần tạo ra một thị trường chứng khoán an toàn, có hiệu quả, thực hiện đúng chức năng đối với nền kinh tế.
2.1.2/ Các quy định về thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng.
* Hồ sơ chào bán.
Nếu như Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 chỉ dành một điều luật (điều 10) để qui định về hồ sơ chào bán thì Luật chứng khoán 2006 quy định về vấn đề này từ điều 14 đến điều 18. So với quy định trước, Luật chứng khoán đã có một số điểm mới.
- Thứ nhất, Luật chứng khoán 2006 đã quy định cụ thể hồ sơ chào bán áp dụng đối với từng loại chứng khoán được chào bán ra công chúng, cụ thể là: hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng, hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng, hồ sơ đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng, trong đó những quy định đối với việc chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư mới được đưa vào. Điều này chứng tỏ Nhà nước đã thấy được những lợi ích thiết thực của chứng chỉ quỹ đầu tư đối với việc huy động vốn .
- Thứ hai, nếu như trước đây, nội dung của bản cáo bạch, báo cáo tài chính chỉ được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành thì giờ đây nó đã được Luật hoá cụ thể nhằm xây dựng một thị trường chứng khoán lành mạnh công khai, đáp ứng tốt yêu cầu thông tin về từng tổ chức chào bán từ đó tạo niềm tin cho nhà đầu tư đối với từng tổ chức chào bán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Đồng thời Luật chứng khoán cũng quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan đến hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng, đảm bảo cho nhà đầu tư yên tâm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Theo Luật chứng khoán 2006, hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng được qui định tại điều 14. Điều luật này có đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với hồ sơ của từng loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ khi chào bán ra công chúng. Hồ sơ chào bán phải gồm các tài liệu sau:
-Giấy đăng ký chào bán (của từng loại chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư) ra công chúng.
-Bản cáo bạch.
-Điều lệ của tổ chức phát hành (đối với chào bán cổ phiếu và trái phiếu) hoặc dự thảo điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán (đối với chào bán chứng chỉ quỹ).
-Cam kết bảo lãnh (nếu có).
Đối với từng loại chứng khoán khác nhau thì hồ sơ chào bán cũng đòi hỏi thêm một số giấy tờ khác. Như hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu cần có quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng; hồ sơ chào bán trái phiếu cần có quyết định của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn và cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành; hồ sơ chào bán chứng chỉ quỹ cần có hợp đồng giám sát giữa ngân hàng giám sát và công ty quản lý quỹ đầu tư.
Như vậy một bộ hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng gồm rất nhiều giấy tờ, nhưng quan trọng nhất là bản cáo bạch trong đó có báo cáo tài chính.
Về bản cáo bạch, điều 15 Luật chứng khoán 2006 quy định cụ thể nội dung của bản cáo bạch. Bản cáo bạch phải đáp ứng yêu cầu là có đầy đủ thông tin cần thiết, trung thực rõ ràng như thông tin về tổ chức phát hành, về đợt chào bán, hay báo cáo tài chính nhằm giúp nhà đầu tư có thể đánh giá đúng tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh và triển vọng của tổ chức chào bán.
Có thể nói, bản cáo bạch là bức tranh hoàn chỉnh về tổ chức chào bán. Riêng đối với chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng, có ý kiến cho rằng luật quy định quá chi tiết với nội dung như loại hình, quy mô quỹ; mục tiêu đầu tư chiến lược đầu tư, phương án phát hành, dự thảo điều lệ quỹ. Đây là những nội dung mang tính chất nghiệp vụ, không phải là biện pháp quản lý hay yêu cầu của thị trường. Ưu điểm của nó là tạo ra cơ sở pháp lý an toàn cho hành vi chào bán chứng chỉ quỹ từ đó quyền và lợi ích của nhà đầu tư cũng được đảm bảo.
Tuy nhiên, chúng ta không thể không nhận thấy những bất cập của quy định này. Đó là việc đòi hỏi quá cao về những nội dung trong bản cáo bạch sẽ gây rất nhiều khó khăn cho chủ thể chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng, loại chứng khoán và phương thức đầu tư còn đang rất mới mẻ ở Việt Nam.
Về báo cáo tài chính, theo quy định của pháp luật, báo cáo tài chính gồm bảng cân đối kế toán, các báo cáo về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp nhận. Việc đưa ra yêu cầu phải có xác nhận của tổ chức kiểm toán nhằm giúp cho công chúng đầu tư có được thông tin chính xác, cập nhật về tình hình tài sản và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, đây chính là yêu cầu gây nhiều khó khăn, thậm chí cản trở việc niêm yết chứng khoán của một số doanh nghiệp. Hiện nay việc kiểm toán do các đơn vị trong nước thực hiện. Chỉ có một số ít tổ chức kiểm toán của nước ngoài được phép kiểm toán các doanh nghiệp Việt Nam. Theo quy định của Luật chứng khoán 2006, báo cáo tài chính phải được xác nhận của tổ chức kiểm toán “được chấp nhận” nên việc lựa chọn tổ chức kiểm toán phải tuân theo quyết định số 76/2004/QĐ-BTC ngày 22 tháng 9 năm 2004, theo đó, hầu hết các công ty kiểm toán Việt Nam không đủ điều kiện tham gia. Chính những quy định khắt khe này sẽ dẫn đến một tất yếu là sự độc quyền và chi phí kiểm toán vượt quá sức của tổ chức phát hành mới lần đầu bước vào thị trường chứng khoán.
* Thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng.
Theo quy định của Luật chứng khoán 2006, việc phân phối chứng khoán chỉ được thực hiện sau khi tổ chức phát hành bảo đảm người mua chứng khoán tiếp cận bản cáo bạch của hồ sơ đăng ký chào bán. Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành, tổ chức đại lý phải phân phối chứng khoán trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực.
Trong trường hợp tổ chức phát hành không thể hoàn thành việc phân phối chứng khoán trong thời hạn này, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước xem xét gia hạn nhưng tối đa không quá 30 ngày. Quy định này đã khắc phục được hạn chế của Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003. Nghị định quy định trong thời hạn 90 ngày mà tổ chức phát hành không phân phối hết chứng khoán thì có thể làm đơn đề nghị Uỷ ban chứng khoán Nhà nước gia hạn phân phối nhưng lại không giới hạn thời gian được phép phân phối tiếp vì vậy gây khó khăn cho người quản lý cũng như tổ chức phát hành.
Sau khi phân phối hết chứng khoán, tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt chào bán cho Uỷ ban chứng khoán. Tiếp đó, sau 30 ngày kết thúc đợt chào bán chứng khoán, chứng khoán hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán phải được chuyển giao cho người mua.
Như vậy, về cơ bản Luật chứng khoán 2006 đã quy định tương đối đầy đủ về trình tự thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên trong mười bốn điều luật của chương “chào bán chứng khoán ra công chúng” hoàn toàn không có quy định về phương thức phát hành trong đó có một nội dung rất quan trọng là hoạt động bảo lãnh phát hành. Đối với chào bán chứng khoán ra công chúng, sự thành bại của đợt chào bán có ý nghĩa rất quan trọng. Để đảm bảo sự thành công cho một đợt chào bán, đòi hỏi tổ chức chào bán phải lựa chọn phương thức phát hành tối ưu nhất. Trong các phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng thì bảo lãnh phát hành được xem là phương thức an toàn nhất. Hơn thế nữa một số trường hợp bắt buộc phải có tổ chức bảo lãnh phát hành thì luật lại không quy định.
2.2/ Quy định về chào bán riêng lẻ.
2.2.1/ Quy định về chào bán cổ phiếu.
* Chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần.
Chào bán cổ phiếu là quyền cơ bản của công ty cổ phần. Hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp 2005. Cũng theo quy định của Luật, việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần được thực hiện nhằm mục đích tạo lập vốn điều lệ hoặc để tăng vốn điều lệ. Thực chất của việc chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần là việc công ty bán cổ phần để huy động vốn, kết quả của việc bán cổ phần sẽ làm tăng vốn điều lệ và tỷ lệ sở hữu cổ đông.
Mặt khác, việc chào bán cổ phần có nghĩa là bán một phần quyền sở hữu công ty cho người mua cổ phần. Điều này cũng đồng nghĩa với việc thay đổi cơ cấu quản lý và kiểm soát của công ty. Vì vậy, việc quyết định số lượng cổ phần, giá trị cổ phần, loại cổ phần trong mỗi đợt chào bán cần được cân nhắc kỹ lưỡng.
Hiện nay, việc chào bán cổ phần của công ty cổ phần được quy định tại điều 87-Luật doanh nghiệp 2005.
- Về quyền quyết định chào bán, Luật doanh nghiệp 2005 quy định Hội đồng quản trị quyết định thời điểm, phương thức và giá chào bán. Theo quy định này, Hội đồng quản trị được trao thêm quyền năng mới. Nếu Luật doanh nghiệp 1999 chỉ quy định Hội đồng quản trị có quyền quyết định giá cổ phần được đưa ra chào bán thì theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, Hội đồng quản trị được quyết định cả phương thức chào bán và thời điểm chào bán. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại không có quy định về quyền quyết định của cổ phần được đưa ra chào bán. Có thể nói, đây là một nội dung rất quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với các nhà đầu tư. Nó cho thấy khả năng về vốn của doanh nghiệp cũng như tiềm năng của các nhà đầu tư.
- Về giá cổ phần, giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá trị được ghi trong sổ sách tại thời điểm gần nhất. Luật doanh nghiệp 1999 cũng đưa ra qui định này, tuy nhiên về các trường hợp ngoại lệ, Luật doanh nghiệp 2005 bổ sung một số điểm mới sau:
Thứ nhất, cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập. Đây là quy định khá hợp lý vì đây là cổ phần được chào “lần đầu tiên”, đây cũng là lần đầu tiên nhà đầu tư tiếp cận với cổ phần của công ty nên chưa xác định được giá thị trường của cổ phần. Như vậy, Hội đồng quản trị có quyền quyết định giá chào bán thất hơn giá thị trường. Điều này sẽ đảm bảo sự thành công của đợt chào bán cổ phần lần đầu, thu hút rộng rãi nhà đầu tư .
Thứ hai, cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty. Theo quy định này, các cổ đông đã nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp sẽ được quyền mua cổ phần theo tỷ lệ tương ứng, với giá bán không tham chiếu giá thị trường tại thời điểm chào bán. Khi đó, giá cổ phần áp dụng cho các cổ đông cũ có thể sẽ thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán.
Tuy nhiên có một vấn đề đặt ra. Theo quy định của pháp luật, công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần khác nhau. Tuỳ thuộc vào loại cổ phần mà họ nắm giữ, các cổ đông có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Ví dụ cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông sẽ được hưởng mức cổ tức thấp hơn cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức nhưng thay vào đó, những cổ đông này lại có quyền dự đại hội đồng cổ đông, có quyền đề cử người vào hội đồng quản trị và biểu quyết về những quyết định của công ty. Vì thế để đảm bảo sự công bằng giữa các cổ đông, quy định này cần điều chỉnh theo hướng cụ thể hơn “cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần của từng loại hiện có của họ ở công ty” sẽ chính xác, đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Thứ ba, cổ phần chào bán cho người môi giới và người bảo lãnh. Qui định này là sự kế thừa của Luật doanh nghiệp 1999 tuy nhiên Luật doanh nghiệp 2005 lại bổ sung một nội dung quan trọng khắc phục thiếu sót của văn bản trước đó. “Số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết”. Như vậy, sự ưu tiên về giá cho các đối tượng này không phải là không có giới hạn. Tuy nhiên, khi bổ sung quy định về quyền biểu quyết của đại hội đồng cổ đông trong trường hợp này, Luật doanh nghiệp 2005 lại bỏ qua cách tính giá chào bán cổ phần- một nội dung rất quan trọng được quy định khá cụ thể và chi tiết tại điểm c khoản 1 điều 61 Luật doanh nghiệp 1999.
- Về chào bán thêm cổ phần phổ thông, đây là một nội dung khá quan trọng của Luật doanh nghiệp 2005 và là một quy định hoàn toàn mới so với Luật doanh nghiệp 1999. Khoản 2- điều 87 quy định “ trường hợp công ty phát hành thêm cổ phần phổ thông và chào bán số cổ phần đó cho tất cả các cổ đông phổ thông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty”. Điều luật cũng đã cũng đã cụ thể hoá thủ tục, trình tự chào bán cổ phần phổ thông cho các cổ đông hiện có của doanh nghiệp. Đó là quy định về thông báo chào bán thêm cổ phần cho các cổ đông; các nội dung cụ thể của thông báo trong đó có tổng số cổ phần dự kiến phát hành, số cổ phần cổ đông được quyền mua, giá chào bán cổ phần, thời hạn đăng ký mua. Chính những quy định về việc gửi thông báo đến từng cổ đông đã khẳng định hình thức chào bán cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2005 là chào bán riêng lẻ. Ngoài ra còn có quy định về chuyển quyền ưu tiên mua cổ phần của cổ đông cho người khác, về xử lý số cổ phần còn lại sau đợt phát hành.
Tóm lại, hoạt động chào bán riêng lẻ cổ phiếu của công ty cổ phần chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp 2005. Như vậy có sự phân biệt giữa hai hình thức chào bán cổ phiếu của công ty cổ phần là chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng. Hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán 2006.
* Chào bán cổ phiếu của công ty Nhà nước cổ phần hoá.
Hiện nay ở Việt Nam việc chào bán cổ phiếu để chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần được quy định tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần thay thế Nghị định 64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
- Về đối tượng cổ phần hoá, như ta đã biết đó là những công ty Nhà nước không thuộc diện Nhà nước phải nắm giữ 100% vốn điều lệ.
- Về đối tượng và điều kiện được mua cổ phần của công ty Nhà nước cổ phần hoá: tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội hoạt động theo luật pháp Việt Nam và cá nhân người Việt Nam định cư ở trong nước được quyền mua cổ phần với số lượng không hạn chế; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hoá theo quy định pháp Việt Nam.
Có thể nói, những quy định về đối tượng và điều kiện được mua cổ phần tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 là rất thông thoáng, nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá công ty Nhà nước ở nước ta.
- Về cơ cấu cổ phần lần đầu, pháp luật quy định cơ cấu cổ phần lần đầu trong doanh nghiệp cổ phần hoá theo cơ cấu ưu tiên nhất định:
- Cổ phần Nhà nước nắm giữ.
- Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định cổ phần hoá được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm làm việc.
- Nhà đầu tư chiến lược được mua tối đa 20%số cổ phần bán theo giá ưu đãi.
- Cổ phần bán đấu giá công khai cho các nhà đầu tư không thấp hơn 20% vốn điều lệ
Việc sắp xếp thứ tự mua cổ phần cho những đối tượng như vậy vừa đảm bảo vai trò của Nhà nước đối với doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần, vừa đảm bảo quyền lợi cho người lao động, giúp họ yên tâm sản xuất. Bên cạnh đó, việc dành tối thiểu 20% vốn điều lệ để chào bán đấu giá cổ phần công khai giúp doanh nghiệp có thêm điều kiện để thu hút vốn đầu tư và có thêm nhiều cổ đông ngoài doanh nghiệp- là điều kiện để doanh nghiệp có thể niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung.
Về giá bán cổ phần lần đầu, so với Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 thì quy định về giá chào bán cổ phần lần đầu tại điều 8 Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 là một quy định mới. Quy định này góp phần cụ thể hoá, tạo ra một khung pháp lý về giá bán cổ phần cho các đối tượng. Theo đó, điều luật đã đưa ra ba mức giá bán với ba đối tượng khác nhau. Đối với người lao động giá bán cổ phần được giảm 40% so với giá đấu bình quân; đối với nhà đầu tư chiến lược giá bán cổ phần được giảm 20% so với giá đấu bình quân; còn giá bán cho các đối tượng khác được thực hiện theo giá đấu bình quân. Như vậy, giá đấu bình quân là tiêu chuẩn xác định giá bán cổ phần cho người lao động và nhà đầu tư chiến lược.
Về phương thức bán cổ phần, nếu như Nghị định 64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 trước đây chỉ đơn thuần qui định phương thức bán cổ phần tại chính doanh nghiệp hoặc thông qua tổ chức trung gian tài chính thì đến Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004, đấu giá cổ phần là phương thức bắt buộc để chào bán cổ phần của công ty Nhà nước. Mục đích của việc áp dụng phương thức này là đảm bảo sự công bằng cho các nhà đầu tư. Theo quy định tại điều 30 của Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 tuỳ thuộc vào khối lượng cổ phần mà việc bán đấu giá cổ phần có thể diễn ra ở nhiều nơi khác nhau như tại chính công ty Nhà nước, tại tổ chức tài chính trung gian.
Tuy nhiên nếu khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ thì bắt buộc phải bán đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Với phương thức bán đấu giá này, pháp luật quy định cụ thể trình thủ tục thực hiện.
Theo đó, doanh nghiệp, tổ chức tài chính trung gian và trung tâm giao dịch chứng khoán thông báo công khai tại nơi tiến hành bán đấu giá hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng những vấn đề liên quan đến việc bán đấu giá cổ phần. Sau khi thực hiện bán đấu giá, cơ quan thực hiện bán đấu giá phải xác định giá đấu bình quân để tính giá ưu đãi cho các nhà đầu tư chiến lược và người lao động. Cuối cùng doanh nghiệp sẽ tiến hành phân phối cổ phần. Khoảng thời gian để doanh nghiệp hoàn thành việc bán cổ phần là 4 tháng kể từ ngày quyết định phê duyệt phương án cổ phần hoá.
Có thể nói, Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 ra đời thay thế Nghị định 64/2000/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình cổ phần hoá diễn ra. Chính sách này đã giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước từ 12000 đơn vị xuống còn 2663 đơn vị vào đầu 2006, vốn bình quân của doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ /2001 lên 63,6 tỷ /2005 doanh nghiệp huy động được thêm 21000 tỷ đồng . Các cơ quan thực hiện bán đấu giá còn thiếu kinh nghiệm lúng túng. Phương thức đấu giá đã bộc lộ một số hạn chế như gần đây có tình trạng nhiều cuộc đấu giá sức cầu bị đẩy lên quá cao so với cầu thực, do việc nhà đầu tư sử dụng dịch vụ uỷ thác đầu tư. Để tăng khả năng mua được cổ phần, nhà đầu tư thường uỷ thác số lượng mua lớn hơn nhiều lượng cầu thực. Ngoài ra nhiều nhà đầu tư vừa sử dụng dịch vụ uỷ thác, vừa tham gia đấu giá nên đã đẩy giá lên cao một cách bất hợp lý. Đồng thời việc pháp luật chỉ quy định một phương thức bán cổ phần trong khi trên thực tế còn có rất nhiều phương thức chào bán khác đã hạn chế các khả năng của doanh nghiệp lựa chọn các phương thức chào bán phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp.
Thêm nữa hoạt động cổ phần hoá diễn ra trên khắp cả nước nhưng hoạt động đấu giá mới chỉ dừng lại ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nhà đầu tư hiện nay rất phân vân về tính bảo mật thông tin của hoạt động này, việc đấu giá chưa thực sự tuân thủ đúng quy luật của thị trường. Một số chuyên gia nhận định “việc cổ phần hoá công ty Nhà nước bằng phương thức bán đấu giá cổ phần lần đầu mới chỉ thành công về mặt hình thức”. Vì vậy cần có những quy định pháp luật phù hợp hơn nữa, tạo động lực mạnh mẽ cho việc chào bán cổ phiếu, cổ phần hoá công ty Nhà nước.
* Phát hành cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần.
Theo quy định của pháp luật về tổ chức tín dụng ngoài việc huy động vốn từ tiền gửi của tổ chức cá nhân, các ngân hàng thương mại cổ phần có thể chào bán cổ phiếu để huy động vốn. Lý do xuất phát từ hình thức tổ chức của ngân hàng thương mại cổ phần. Ngân hàng thương mại cổ phần thực chất là công ty cổ phần.
Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại cổ phần có quyền chào bán cổ phiếu để huy động vốn. Đây chính là điểm đặc thù và ưu việt của ngân hàng thương mại cổ phần.
Hiện nay, hoạt động chào bán cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần chịu sự điều chỉnh của quyết định số 1122/2001/QĐ-NHHH ngày 4 tháng 9 năm 2001 về việc ban hành quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần của Nhà nước và nhân dân. Văn bản pháp luật đã tạo ta cơ sở pháp lý cho việc huy động vốn của ngân hàng từ cổ phiếu nhất là khi các cơ quan này đang bị quá tải do nhu cầu về vốn vay của doanh nghiệp. Theo quyết định này, ngân hàng thương mại cổ phần được tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành thêm cổ phiếu.
Như vậy nếu như công ty cổ phần có thể huy động vốn để thành lập hoặc mở rộng vốn bằng hình thức chào bán riêng lẻ cổ phiếu (cổ phần), thì pháp luật chỉ quy định hình thức chào bán cổ phiếu này cho ngân hàng thương mại để tăng vốn điều lệ và pháp luật chỉ giới hạn một bộ phận cổ đông được mua. Theo quyết định 1122/2001/QĐ-NHNN ngày 4 tháng 9 năm 2001 ngân hàng thương mại cổ phần được tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, ngân hàng sẽ gửi một bộ hồ sơ đề nghị chấp nhận tăng vốn cho Ngân hàng Nhà nước bao gồm:
- Tờ trình của Hội đồng quản trị,
- Biên bản Đại hội cổ đông về việc thay đổi vốn điều lệ,
- Phương án thay đổi mức vốn điều lệ,
- Danh sách và tỷ lệ vốn cổ phần của cổ đông trước và sau khi thay đổi vốn,
- Đơn xin mua cổ phần của những cổ đông lớn,
- Các văn bản khác có liên quan theo quy định của pháp luật.
Việc pháp luật không đưa ra các điều kiện để tăng vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần là một quy định phù hợp với thực tiễn, góp phần khuyến khích các ngân hàng phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Tuy nhiên thủ tục xin phát hành còn rườm rà, mang nặng tính hành chính, quá chặt chẽ về hồ sơ. Điều này sẽ hạn chế khả năng huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần. Từ năm 2004 trở về trước đã có một số ngân hàng huy động thêm vốn bằng cách phát hành cổ phiếu riêng lẻ như ngân hàng cổ phần Đông á, ngân hàng Sài gòn thương tín (STB).
Tuy nhiên hiện nay, với ưu thế của việc chào bán cổ phiếu ra công chúng, các ngân hàng thường lựa chọn hình thức này để tăng vốn điều lệ. Vì vậy, các quy định về chào bán cổ phiếu riêng lẻ của ngân hàng thương mại cổ phần như trên sẽ không còn phù hợp nữa và cần thay đổi.
2.2.2/ Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu.
* Quy định về chào bán riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp.
Trước đây, hầu như pháp luật không có qui định về việc chào bán riêng lẻ trái phiếu của doanh nghiệp nói chung ngoài Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 17 tháng 9 năm 1994 ban hành quy chế tạm thời về việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy việc phát hành trái phiếu của công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn không có cơ sở pháp lý, từ đó hạn chế khả năng huy động vốn của chủ thể này. Điều này đã được khắc phục cùng với sự ra đời của Nghị định 52/2006/ NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Về đối tượng được quyền phát hành riêng lẻ trái phiếu để huy động vốn bao gồm công ty cổ phần, công ty Nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tổ chức tín dụng thuộc sở hữu Nhà nước. Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 đã có những quy định về hình thức trái phiếu nguyên tắc phát hành trái phiếu; điều kiện và thẩm quyền quyết định phát hành trái phiếu các loại trái phiếu doanh nghiệp; phương thức phát hành trái phiếu và về việc công bố thông tin.
Về nguyên tắc phát hành trái phiếu, Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 đã đưa ra ba nguyên tắc tại điều 3. Những quy định này đều hướng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đồng thời đảm bảo một nguyên tắc rất quan trọng hiện nay là công khai minh bạch.
Về điều kiện phát hành trái phiếu, được quy định tại điều 17 của Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006. Theo đó doanh nghiệp chỉ được phát hành trái phiếu khi có đủ các điều kiện sau:
- Là doanh nghiệp thuộc đối tượng phát hành trái phiếu riêng lẻ
- Có thời gian hoạt động tối thiểu trong 1 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động. Quy định này là hoàn toàn hợp lý để đảm bảo quyền của nhà đầu tư. Với bản chất là chứng khoán nợ, khi nhà đầu tư sở hữu trái phiếu trong tay họ phải được đảm bảo về khả năng trả nợ. Việc quy định thời gian hoạt động tối thiểu như trên vừa thúc đẩy nhà đầu tư mua trái phiếu tăng khả năng về vốn cho doanh nghiệp vừa phù hợp với nguyên tắc phát hành trái phiếu doanh nghiệp “Tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay”.
- Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán. Tuy nhiên để đảm bảo báo cáo tài chính của doanh nghiệp là một văn bản có tính trung thực cao cần có những quy định về tiêu chuẩn kiểm toán và tổ chức kiểm toán
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi.
- Có phương án phát hành trái phiếu được các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua.
Mục đích của những quy định này nhằm đảm bảo tính thanh khoản cũng như chất lượng của trái phiếu. Nếu so sánh với quy định về chào bán trái phiếu ra công chúng tại Luật chứng khoán 2006 thì điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ có một điểm khác cơ bản: không quy định mức vốn tối thiểu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu.
Đây là một điểm khá phù hợp với thực tế ở Việt Nam: chủ yếu các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn điều lệ thấp. Nếu quy định điều kiện trên thì các chủ thể này khó có khả năng huy động nguồn vốn thông qua trái phiếu. Điều này sẽ ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh. Về việc thông qua phương án phát hành trái phiếu, trước đây chỉ có một văn bản điều chỉnh vấn đề phát hành trái phiếu của doanh nghiệp Nhà nước.
Theo văn bản này, Bộ Tài chính là cơ quan ra quyết định phát hành trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay, theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 quyền thông qua phương án phát hành trái phiếu thuộc nội bộ của doanh nghiệp.
Cụ thể là:
-Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành trái phiếu chuyển đổi.
-Hội đồng quản trị
-Hội đồng thành viên hoặc đại diện chủ sở hữu thông qua phương án phát hành trái phiếu không có khả năng chuyển đổi (Điều 19).
Đây là quy định khá hợp lý bởi trên thực tế những người nắm quyền quản lý điều hành chính là những người hiểu nhất nhu cầu về vốn của doanh nghiệp để phát hành trái phiếu còn Bộ Tài chính chỉ là cơ quan quản lý ở tầm vĩ mô.
Một điểm tiến bộ của Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 là đã quy định cho các tổ chức tín dụng Nhà nước được phát hành trái phiếu chuyển đổi. Loại trái phiếu này sẽ chuyển thành cổ phần khi các tổ chức tín dụng Nhà nước chuyển sang hình thức tổ chức tín dụng cổ phần. Điều này nào giải quyết được nhu cầu về vốn đồng thời thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các tổ chức tín dụng Nhà nước, cùng với lộ trình cổ phần hoá các công ty Nhà nước.
Về phương thức phát hành trái phiếu, Nghị định đã quy định 3 phương thức: bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành và đấu thầu. Có thể nói đây là lần đầu tiên pháp luật quy định các phương thức chào bán riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp. Đây cũng là những quy định rất mở, tạo cho doanh nghiệp cơ hội để lựa chọn các phương thức phát hành trái phiếu riêng lẻ phù hợp với điều kiện của mình.
Với những quy định rất thông thoáng của Nghị định 52/2006/ NĐ-CP ngày 19 thánh 5 năm 2006 Chính phủ đã tạo ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp tham gia vào thị trường trái phiếu không chỉ với tư cách là nhà đầu tư mà còn là nhà phát hành. Văn bản này đã mở đường cho các doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, giảm thiểu sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn từ tổ chức tín dụng.
* Quy định về chào bán trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng.
Ngoài việc phát hành cổ phiếu của một số ngân hàng thương mại cổ phần, thì việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu cũng là một trong những hình thức huy động vốn phổ biến của các tổ chức tín dụng hiện nay.
Hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng được quy định tại Quyết định 02/2004/QĐ- NHNN ngày 4 tháng 1 năm 2004 của Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước. Giấy tờ có giá bao gồm kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi dài hạn trong đó, nhưng chỉ có trái phiếu là chứng khoán. Theo quy định của pháp luật phạm vi chủ thể được phép phát hành trái phiếu là khá rộng. Ngoài Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng thương mại Nhà nước còn có quỹ tín dụng Nhân dân trung ương, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Về điều kiện phát hành trái phiếu, Pháp luật quy định khá mở, chỉ yêu cầu tổ chức tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn và hoạt động theo quy định của Pháp luật về tổ chức tín dụng và của Ngân hàng nhà nước
- Có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra Ngân hàng. Những điều kiện này đã mở rộng khả năng cho các tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu để huy động vốn, giảm bớt áp lực về vốn cho các tổ chức tín dụng.
Về hình thức phát hành, tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu theo hình thức chứng chỉ ghi danh, chứng chỉ vô danh và ghi sổ.
Về phương thức phát hành, tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu theo hai phương thức là:trực tiếp phát hành trái phiếu; phát hành thông qua tổ chức tín dụng làm đại lý hoặc uỷ thác phát hành trái phiếu.
Trên thực tế, phát hành trái phiếu thông qua đại lý là phương thức thông dụng vì trái phiếu được bán cho khách hàng một cách nhanh gọn có khả năng tổ chức tín dụng huy động được vốn như dự kiến là rất cao.
Về thủ tục phát hành, tổ chức tín dụng muốn phát hành trái phiếu phải được sự đồng ý của thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Tổ chức tín dụng phải gửi hồ sơ đề nghị phát hành trái phiếu cho thống đốc Ngân hàng Nhà nước, bao gồm các tài liệu:
- Đề nghị phát hành.
- Giấy tờ có giá.
- Phương án phát hành.
- Báo cáo tài chính của 2 năm liên tục gần nhất.
- Điều lệ và giấy phép hoạt động.
Trên cơ sở xem xét hồ sơ đề nghị và điều kiện phát hành, thống đốc Ngân hàng nhà nước sẽ ra quyết định về việc phát hành trái phiếu. Trước thời điểm phát hành ít nhất 20 ngày, tổ chức tín dụng phải gửi thông báo kế hoạch đợt phát hành trái phiếu cho Ngân hàng nhà nước. Tổ chức tín dụng chủ động phát hành trái phiếu trong phạm vi kế hoạch năm tài chính.
Như vậy, những quy định của quyết định 02/2004/ QĐ- NHNN ngày 4 ngày 1 năm 2004 về phát hành trái phiếu của tổ chức tín dụng là tương đối chặt chẽ và phù hợp, từ điều kiện, phương thức và trình tự thủ tục phát hành. Quyết định đã tạo điều kiện tốt nhất cho các tổ chức tín dụng huy động vốn.
3./ Chào bán chứng khoán của chính phủ và chính quyền địa phương.
Trong thời gian vừa qua, thị trường trái phiếu nói chung và thị trường trái phiếu Chính phủ nói riêng không có những hoạt động sôi nổi như thị trường cổ phiếu, nhưng trái phiếu Chính Phủ và trái phiếu chính quyền địa phương luôn là công cụ hữu hiệu để Chính phủ và chính quyền địa phương huy động vốn trong dân chúng; nhằm bù đắp sự thiếu hụt ngân sách cũng như để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển.
So với các loại chứng khoán khác, trái phiếu Chính phủ có lẽ loại chứng khoán tiếp cận sớm nhất với người dân ( Năm 1994 Chính phủ ban hành nghị định số 72/CP ngày 26 tháng 7 năm 1994 về quy chế phát hành các loại trái phiếu Chính phủ). Cho đến nay, trái phiếu Chính phủ vẫn giữ vai trò chủ đạo trên thị trường trái phiếu Việt Nam với hơn 90% tổng khối lượng trái phiếu.
Hiện nay, hoạt động chào bán trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương chịu sự điều chỉnh của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương.
Theo Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 và pháp luật về chứng khoán: chứng khoán là công cụ huy động vốn trung và dài hạn ( có thời hạn trên 1 năm), chứng khoán do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành bao gồm trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương, trái phiếu đầu tư, trái phiếu ngoại tệ và trái phiếu chính quyền trung ương.
3.1/ Trái phiếu Chính phủ.
Về tổ chức phát hành. Theo quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003, chủ thể phát hành các loại trái phiếu Chính phủ là Chính phủ. Tuy nhiên trên thực tế, Chính phủ không trực tiếp thực hiện các hoạt động và tiến hành các phương thức phát hành mà uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước (đối với trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương), Bộ Tài Chính (đối với trái phiếu ngoại tệ), các tổ chức tài chính nhà nước, tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính được Chính phủ chỉ định (đối với trái phiếu đầu tư) trực tiếp phát hành.
Về mục đích phát hành. Cũng giống như việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, Chính phủ phát hành các loại chứng khoán này nhằm mục đích huy động vốn trong dân chúng. Tuy nhiên nếu như doanh nghiệp phát hành trái phiếu để mở rộng sản xuất kinh doanh thì Chính phủ phát hành trái phiếu để bù đắp thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước, cho các dự án thuộc vốn đầu tư của ngân sách trung ương đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm, để đầu tư phát triển kinh tế của quốc gia; tức là thực hiện các nhiệm vụ ở tầm vĩ mô.
Về phương thức phát hành. Phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc sử dụng hợp lý phương thức phát hành sẽ đem lại hiệu quả cao cho đợt phát hành đó. Như chúng ta đã biết phát hành trái phiếu Chính phủ không phải là hoạt động được thực hiện một cách thường xuyên. Nó chỉ được thực hiện khi Nhà nước cho nhu cầu bù đắp bội chi ngân sách hoặc chi cho đầu tư phát triển.
Vì vậy nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút nhanh chóng nguồn vốn trong dân chúng, giải quyết được những nhu cầu cấp bách và cần thiết về vốn của quốc gia, Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 đã quy định nhiều phương thức phát hành cho từng loại trái phiếu. Theo đó, đấu thầu và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước là hai phương thức được áp dụng cho cả bốn loại chứng khoán của Chính phủ. Đối với phương thức bán lẻ qua hệ thống kho bạc Nhà nước, ưu điểm là chứng khoán được bán trực tiếp đến tay nhà đầu tư.
Đối với trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, trái phiếu đầu tư; Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 còn quy định phương thức bảo lãnh phát hành. Đây là phương thức phát hành mới được bổ sung vào Nghị định này so với Nghị định 72/CP ngày 26 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ trước kia. Ở nhiều nước trên thế giới, bảo lãnh phát hành là phương thức được sử dụng rất phổ biến vì nó đảm bảo được tính an toàn cho cả đợt phát hành. Đây cũng là phương thức có khả năng đem lại kết quả cao nhất cho đợt phát hành. Việc bổ sung “bảo lãnh” vào các phương thức phát hành trái phiếu của Chính phủ cũng sẽ làm cho thị trường trái phiếu nước ta bớt đơn điệu khi mà trên thị trường xuất hiện trên thị trường một chủ thể mới: công ty bảo lãnh phát hành.
Về điều kiện phát hành. Pháp luật chỉ quy định điều kiện phát hành đối với trái phiếu công trình trung ương. Theo đó, điều kiện phát hành loại chứng khoán này được quy định tại điều 29 của Nghị định :
- Công trình nằm trong danh mục đầu tư trọng điểm hàng năm của Chính phủ. Điều kiện này là phù hợp với mục đích của việc phát hành trái phiếu công trình Trung ương. Mục đích của việc phát hành trái phiếu công trình Trung ương là nhằm huy động vốn cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách trung ương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Đây chính là điều kiện cần và là điều kiện tiên quyết để phát hành loại chứng khoán này. Bởi vì, nếu không có “công trình nằm trong danh mục đầu tư” thì Chính phủ không phải huy động vốn và từ đó không phải phát hành trái phiếu công trình trung ương.
- Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn trả nợ vay khi đến hạn được thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở đề án do Bộ Tài chính chủ trì xây dựng.
Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 ra đời đã thực sự tạo cơ hội thông thoáng cho việc phát hành chứng khoán của Chính phủ. So với Nghị định 72/CP ngày 26 tháng 7 năm 1994 trước đây, Nghị định đã hoàn thiện một số nội dung như: đa dạng hoá các loại trái phiếu chính phủ (bổ sung hai loại trái phiếu ngoại tệ và trái phiếu đầu tư) từ đó tạo sự phong phú cho nguồn hàng của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Đồng thời Nghị định cũng bổ sung phương thức bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ, xoá bỏ điều kiện để phát hành trái phiếu Kho bạc.
Vốn trái phiếu Chính phủ đã phát huy được vai trò quan trọng trong việc đầu tư các công trình, dự án lớn của Chính phủ. Với các quy định rất thông thoáng, trái phiếu Chính phủ trong thời gian tới sẽ thực sự trở thành công cụ nợ trên thị trường tài chính, trở thành hàng hoá được giao dịch thực sự sôi động trên thị trường chứng khoán sơ cấp.
3.2/ Trái phiếu Chính quyền địa phương.
Trái phiếu chính quyền địa phương đang ngày càng trở thành một công cụ huy động vốn hiệu quả cho địa phương, phát huy tiềm lực về vốn của nhà đầu tư tại địa phương mình. Trái phiếu Chính quyền địa phương là loại trái phiếu có kỳ hạn trên 1 năm nên nó cũng được coi là một loại chứng khoán- hàng hoá của thị trường chứng khoán.
Về tổ chức phát hành. Theo quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là chủ thể phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Tuy nhiên cũng giống như Chính phủ, Uỷ ban nhân dân không trực tiếp thực hiện các hoạt động phát hành mà uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trên địa bàn phát hành.
Về phương thức phát hành. Trái phiếu chính quyền địa phương được phát hành theo phương thức đấu thầu, bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành.
Về điều kiện phát hành. Trái phiếu chính quyền địa phương không phải là loại trái phiếu được phát hành một cách thường xuyên. Mục đích của việc phát hành loại chứng khoán này là nhằm huy động vốn cho các dự án công trình thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách địa phương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. Vì vậy, việc phát hành phải tuân thủ các điều kiện sau:
- Dự án, công trình thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch đầu tư 05 năm đã được Hội đồng nhận dân cấp tỉnh quyết định.
- Phương án phát hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng vốn vay và phương án hoàn trả nợ vốn vay khi đến hạn được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng trình Hội đồng nhân dân thông qua và được Bộ trưởng Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản.
- Có quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn chịu trách nhiệm phát hành, thanh toán trái phiếu.
Những điều kiện này một mặt đảm bảo cho chất lượng và tính thanh khoản của trái phiếu được phát hành một mặt hạn chế sự phát hành một cách bừa bãi loại chứng khoán này để huy động vốn trong dân chúng của chính quyền địa phương.
Những quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 đã tạo ra một cơ sở pháp lý cho Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành trái phiếu, huy động vốn nhàn rỗi trong dân chúng vào những chương trình kinh tế của mình, qua đó cung cấp và tạo sự đa dạng về hàng hoá cho thị trường chứng khoán.
4./ Quản lý Nhà nước về chào bán chứng khoán ở Việt Nam.
Việc chào bán chứng khoán có sự khác nhau từ điều kiện, phương thức và trình tự thủ tục chào bán giữa các chủ thể. Việc quản lý Nhà nước đối với các hoạt động này cũng rất phức tạp, đòi hỏi phải áp dụng đồng thời nhiều biện pháp khác nhau.
Đối với hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Luật chứng khoán 2006 đã thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc quản lý chứng khoán và thị trường chứng khoán trong đó có hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng.
Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan thuộc Bộ Tài chính xem xét và cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng. Cụ thể là tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng phải đăng ký với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Bên cạnh việc cấp giấy chứng nhận trên, Uỷ ban chứng khoán còn có quyền đình chỉ và huỷ bỏ việc chào bán chứng khoán ra công chúng.
Như vậy, khắc phục hạn chế của Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003, Luật chứng khoán 2006 đã quy định rõ Uỷ ban chứng khoán là cơ quan thuộc Bộ Tài chính nhưng thực hiện một số chức năng và thẩm quyền nhất định liên quan đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng nhằm đảm bảo tính độc lập cần thiết và thực quyền của Uỷ ban chứng khoán trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ chứng khoán.
Với chào bán riêng lẻ chứng khoán, hiện tại chưa có một cơ quan nào thống nhất quản lý Nhà nước đối với hoạt động này.
- Đối với hoạt động chào bán cổ phiếu để thành lập công ty cổ phần hoặc chào bán thêm để huy động vốn, hiện tại không có quy định nào về quản lý Nhà nước đối với hoạt động này. Đây chính là lỗ hổng của Luật doanh nghiệp, và sẽ dẫn đến hệ quả như các công ty cổ phần coi việc chào bán cổ phiếu là tự do, họ có thể tự quyết định mà không chịu một ràng buộc nào.
- Đối với việc chào bán cổ phần của công ty Nhà nước theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 do Bộ Tài chính quản lý. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện công tác cổ phần hoá theo quy định pháp luật của các công ty Nhà nước.
Hoạt động chào bán chứng khoán của các tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước quản lý và giám sát theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật ngân hàng Nhà nước, Quyết định 02/2004/QĐ-NHNN này 04 tháng 01 năm 2004, Quyết định 1122/2001/QĐ-NHNN ngày 4 tháng 9 năm 2001. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hoặc người được thống đốc uỷ quyền sẽ xem xét và chấp thuận phương án phát hành cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần và trái phiếu để huy động vốn trong nước của các tổ chức tín dụng, đồng thời giám sát và kiểm tra các báo cáo tài chính của tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại cổ phần trước và sau khi phát hành.
- Đối với hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ, theo quy định của Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006, Bộ Tài chính là cơ quan thống nhất quản lý hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp, xem xét có ý kiến chấp nhận phương án phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp.
- Đối với chào bán trái phiếu của Chính phủ và chính quyền địa phương, theo quy định của Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003, quản lý Nhà nước đối với hoạt động này thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau. Tuỳ thuộc vào loại chứng khoán được phát hành mà hoạt động chào bán chịu sự quản lý của Bộ tài chính, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước hay Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương.
KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên ta thấy được các quy định của nhà nước ta trong việc phát hành chứng khoán. Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, cũng là điểm tựa để Nhà nước phát huy được tiềm năng kinh tế của các thành phần kinh tế tham gia hoạt động chứng khoán.
Luật chứng khoán 2006 đã thể hiện được vai trò của Nhà nước trong việc quản lý chứng khoán và thị trường chứng khoán trong đó có hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Các quy định của pháp luật nước ta nhìn chung cũng chưa hoàn chỉnh, vẫn còn tồn tại một vài kẻ hở, hay một vài điểm qua khắt khe so với tình chung của thực trạng kinh tế xã hội nước ta hiện nay. Tuy nhiên Luật chứng khoán của nước ta không quy định phương thức phát hành chứng khoán ra công chúng. Có thể nói, việc quy định phương thức chào bán chứng khoán là rất cần thiết để đảm bảo cho sự ổn định của thị trường và giảm bớt các chi phí phát hành cho các nhà phát chứng khoán. Cần nới lỏng một vài quy định để khuyến khích các nhà phát hành tham gia phát hành cổ phiếu để huy động vốn, không ngừng mở rộng vốn điều lệ, thúc đẩy phát triển kinh tế cho xã hội.
Tóm lại, pháp luật về chào bán chứng khoán là cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp, Chính phủ và chính quyền địa phương chào bán chứng khoán để huy động vốn vì vậy việc xây dựng cũng như hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động này là một việc làm hết sức quan trọng với nền kinh tế nước nhà. Nhất là thời điểm hiện nay, khi Nhà nước đẩy mạnh phát triển kinh tế cùng với các hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, việc xây dựng một thị trường vốn ổn định và có hiệu quả là một vấn đề đặc biệt quan trọng vì đây là biểu hiện sức sống của nền kinh tế đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X- Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2006.
2. Các văn bản pháp luật.
- Luật chứng khoán 2006.
- Luật doanh nghiệp 2005.
- Luật doanh nghiệp 1999 ( đã hết hiệu lực).
- Luật Ngân sách Nhà nước.
- Luật các tổ chức tín dụng 1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng 2001.
3. Các văn bản dưới Luật.
- Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
- Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 11 năm 2003 về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính Phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương.
- Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần.
- Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
- Quyết định 1297/2002/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 11 năm 2003 về việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước.
- Quyết định 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04 tháng 01 năm 2004 về việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước.
- Quyết định 1122/20010QĐ-NHNN ngày 04 tháng 09 năm 2001 về việc ban hành quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại cổ phần của Nhà nước.
4. Và các tài liệu sưu tầm từ mạng Internet.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_tieu_luan_chinh__005.doc