Nh¬ư vậy, quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực l¬ợng sản xuất quả thật là quy luật cơ bản, quan trọng nhất không những của kinh tế mà còn của cả lịch sử xã hội. Nó chỉ rõ tính chất phụ thuộc khách quan của Quan hệ sản xuất vào sự phát triển của Lực lượng sản xuất và đến l¬ượt mình, Quan hệ sản xuất cũng có những tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất.
Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Trên thực tế bất cứ ở đâu và vào lúc nào cũng không thể có được sự phù hợp tuyệt đối giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Trong quan hệ giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất nói chung cũng có sự ràng buộc xuất phát từ chúng. Tuy nhiên chính bản thân các Quan hệ sản xuất lại có mối quan hệ chặt chẽ với Lực lượng sản xuất. Vấn đề đặt ra là ta sử dụng mối quan hệ ấy như thế nào cho phù hợp. Đặc biệt quan hệ giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất lại có nhiều lộn xộn trong việc nghiên cứu, sử dụng và phát triển các phương thức sản xuất tức là quá trình "Đa dạng hoá" cụ thể hơn là quá trình "phù hợp hoá" các loại phương thức sản xuất vào điều kiện thực tế hiện nay của nước ta. Nếu chúng ta sử dụng đúng các qui luật trên cộng với điều hoà quan hệ Lực lượng sản xuất với Quan hệ sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh cùng với các nước phát triển tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã chọn.
Việc phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần ở nư¬ớc ta hiện nay là sự vận dụng đúng đắn quy luật này. Từ khi đ¬ược khẳng định, chủ tr¬ương chiến l¬ược này đã đi vào cuộc sống, góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế nư¬ớc ta, khắc phục về căn bản khủng hoảng kinh tế xã hội,đẩy lùi lạm phát, đư¬a nền kinh tế nư¬ớc ta tăng tr¬ưởng và phát triển nhanh, cải thiện đời sống nhân dân.
Ý thức đư¬ợc sự tồn tại khách quan đặc trư¬ng của nền kinh tế quá độ ở nư¬ớc ta, chúng ta phải đư¬a ra những giải pháp, những chính sách nhằm thực hiện tốt chủ tr¬ơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta.
Qua bài viết này phần nào tôi hiểu và biết được tình hình kinh tế nước nhà. Những cái, những điều kiện mà Đảng và nhà nước ta đang làm để phát triển đất nước.
23 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1792 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong xây dựng kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
TT
Trang
Mục lục
1
A
Mở đầu
2
B
Nội dung
4
I
Sự nhận thức về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
4
1
Đôi nét về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
4
1.1
Lực lượng sản xuất
4
1.2
Quan hệ sản xuất
6
1.3
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản.
7
2
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
8
2.1
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
8
2.2
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
9
2.3
Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất
9
2.4
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
11
II
Việc vận dụng quy luật trên vào phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
13
1
Điều kiện khách quan tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Tác động của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đến toàn bộ nền kinh tế
13
2
Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN
15
3
Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN
17
3.1
Thực trạng nguồn lực của lực lượng sản xuất ở nước ta
17
3.2
Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất.
18
4
Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
19
C
Kết luận
21
D
Danh mục tài liệu tham khảo
23
A. MỞ ĐẦU
Xã hội loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất khác nhau. Tư duy nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà theo thời gian tư duy của con người càng phát triển càng hoàn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển Lực lượng sản xuất cũng như cơ sở sản xuất. Từ khi sản xuất chủ yếu bằng hái lượm săn bắt, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu thì ngày nay trình độ khoa học đạt tới mức tột đỉnh. Không ít các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đổ sức bỏ công cho các vấn đề này, trong đó có trường phái triết học, với ba trường phái trong lịch sử phát triển của mình chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và trường phái nhị nguyên luận. Nhưng họ đều thống nhất rằng thực chất của triết học đó là sự thống nhất biện chứng giữa Quan hệ sản xuất với Lực lượng sản xuất như thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất xã hội. Tác động qua lại biện chứng giữa Lực lượng sản xuất với Quan hệ sản xuất được Mác và Ănghen khái quát thành qui luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất và tác động lẫn nhau trong một phương thức sản xuất xã hội chính sự thống nhất và tác động đó đã hình thành nên quy luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Quy luật này đã vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan cuả Quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuât ,cũng như sự tác động trở lại của Quan hệ sản xuất đối với Lực lượng sản xuất trong qứa trình sản xuất và phát triển xã hội .Thực tiễn sản xuất của xã hội loài người hơn 1000 năm qua đã chứng minh được rằng quan điểm đó của nhà sáng lập chủ nghĩa Mác là hoàn toàn đúng đắn. Từ những lý luận trên đưa Mác - Ănghen vươn lên đỉnh cao trí tuệ của nhân loại. Không chỉ trên phương diện triết học mà cả kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Dưới những hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức được hay không thì nhận thức của hai ông về qui luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.
Việc nghiên cứu và áp dụng quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất, là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới CNXH mà chúng ta đang tiến hành hôm nay. Trải qua các hình thái kinh tế – xã hội từ trước đến nay điều đó đã được khẳng định rõ ràng .Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định rằng : Lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với Quan hệ sản xuất và ngược lại , Quan hệ sản xuất cũng có sự tác động trở lại có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lưc lượng sản xuất và : “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp Quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi Quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với thực trạng trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất”
Một xã hội phát triển được đánh giá từ trình độ của Lực lượng sản xuất và sự kết hợp hài hoà giữa Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất, thời đại ngày nay trình độ khoa học kỹ thuật đã phát triển mạnh mẽ, song Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của Lực lượng sản xuất vẫn là cơ sở cho sự phát triển của nó.
Nghiên cứu về sự thống nhất biện chứng Quan hệ sản xuất với Lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho sinh viên kinh tế nói chung và emi nói riêng có được một nhận thức về sản xuất xã hội. Đồng thời mở mang được nhiều lĩnh vực về kinh tế. Thấy được vị trí, ý nghĩa của nó, em đã chọn đề tài:" Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất và sự vận dụng trong xây dựng kinh tế ở Việt Nam hiện nay”
Trong quá trình làm tiểu luận, do nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong sẽ nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG
I. Sự nhận thức về Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất và qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất.
1. Đôi nét về Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất.
1.1 Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động và những người lao động với kinh ngiệm và thói quen lao động nhất định đã sử dụng những tư liệu sản xuất đó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Từ thực trạng đó lý luận về Lực lượng sản xuất của xã hội được C.Mác nêu lên và phát triển một cách sâu sắc trong các tác phẩm chuẩn bị cho bộ "Tư bản" và chính trong bộ "Tư bản" Mác đã trình bày hết sức rõ ràng quan điểm của mình về các yếu tố cấu thành Lực lượng sản xuất của xã hội trong đó bao gồm sức lao động và tư liệu sản xuất. Đối với Mác cùng với tư liệu lao động đối với lao động cũng thuộc về tư liệu sản xuất, còn trong tư liệu lao động tức là tất cả những yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động và đối tượng lao động như công cụ lao động, nhà xưởng, phương tiện lao động, cơ sở vật chất kho tàng... thì vai trò quan trọng hơn cả thuộc về công cụ lao động. Công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất của tư liệu sản xuất. Mọi thời đại muốn đánh giá trình độ sản xuất thì phải dựa vào tư liệu lao động. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất trong Lực lượng sản xuất chính là con người cho dù những tư liệu lao động được tạo ra từ trước có sức mạnh đến điều và đối tượng lao động có phong phú như thế nào thì con người vẫn là bậc nhất.
Lịch sử loài người được đánh dấu bởi các mốc quan trọng trong sự phát triển của Lực lượng sản xuất trước hết là công cụ lao động. Sau bước ngoặt sinh học, sự xuất hiện công cụ lao động đánh dấu một bước ngoặt khác trong sự chuyển từ vượn thành người. Từ kiếm sống bằng săn bắt hái lượm sang hoạt động lao động thích nghi với tự nhiên và dần dần cải tạo tự nhiên. Từ sản xuất nông nghiệp công nghệ lạc hậu chuyển lên cơ khí hoá sản xuất. Sự phát triển Lực lượng sản xuất trong giai đoạn này không chỉ giới hạn ở việc tăng một cách đáng kể số lượng thuần tuý với các công cụ đã có mà chủ yếu là ở việc tạo ra những công cụ hoàn toàn mới sử dụng cơ bắp con người. Do đó con người đã chuyển một phần công việc năng nhọc cho máy móc có điều kiện để phát huy các năng lực khác của mình.
Ở nước ta từ trước tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ yếu, nên trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển. Hiện thời chúng ta đang ở trong tình trạng kế thừa những Lực lượng sản xuất vừa nhỏ bé, vừa lạc hậu so với trình độ chung của thế giới, hơn nữa trong một thời gian khá dài, những lực lượng ấy bị kìm hãm, phát huy tác dụng kém. Bởi vậy Đại hội lần thứ VI của Đảng đặt ra nhiệm vụ là phải "Giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có. Khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ Lực lượng sản xuất. Mặt khác chúng ta đang ở trong giai đoạn mới trong sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật đang chứng kiến những biến đổi cách mạng trong công nghệ. Chính điều này đòi hỏi chúng ta lựa chọn một mặt tận dụng cái hiện có mặt khác nhanh chóng tiếp thu cái mới do thời đại tạo ra nhằm dùng chúng để nhân nhanh các nguồn lực từ bên trong. Nếu phân tích một cách khách quan thì rõ ràng Lực lượng sản xuất của ta đang ứng với cả ba giai đoạn phát triển của Lực lượng sản xuất trong nền văn minh loài người. Thực tế hiện nay trong nhiều ngành sản xuất công cụ thủ công vẫn đang là chủ yếu, lao động nặng đang chiếm tỉ lệ cao, đến nay vẫn chưa hoàn thành cơ khí hoá và thực tế chưa biết khi nào mới xong. Cần khẳng định một vấn đề có tính quy luật là trong lịch sử bao giờ cũng có sự đan xen của trình độ phát triển khác nhau trong từng yếu tố cấu thành Lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên trên thực tế song song với tình trạng lạc hậu trong phạm vi hẹp nhất định, chúng ta đang dần dần đi lên với tự động hoá, sử dụng thành thạo máy móc vi tính... Đối tượng lao động thấp kém đang được bổ sung. Chính vì lẽ đó mà sẽ không có câu trả lời đơn thuần về việc chỉ nên phát triển loại tư liệu sản xuất nào, công cụ gì và đối tượng lao động nào là chính.
1.2 Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, trong quá trình sản xuất con người phải có những quan hệ, con người không thể tách khỏi cộng đồng. Như vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính qui luật rồi. Nhìn tổng thể Quan hệ sản xuất gồm ba mặt.
- Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động quan hệ giữa người quản lý với công nhân.
- Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động. Đóng góp ngày càng nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong cải tạo và củng cố Quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng mà đại hội VI nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt lý luận, không nghi ngờ gì rằng: chế độ sở hữu là nền tảng Quan hệ sản xuất . Nó là đặc trưng để phân biệt chẳng những các Quan hệ sản xuất khác nhau mà còn các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử như mức đã nói.
- Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều mang một mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho Lực lượng sản xuất có điều kiện tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con người cũng được cải thiện. Đó là tính lịch sử tự nhiên của các quá trình chuyển biến giữa các hình thái kinh tế - xã hội trong quá khứ và cũng là tính lịch sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội Tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
- Và xét riêng trong phạm vi một Quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định Quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các Quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng không đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế - xã hội mới.
Nếu suốt trong quá khứ, đã không có một cuộc chuyển biến nào từ hình thái kinh tế - xã hội sang hình thái kinh tế - xã hội khác, hoàn toàn là một quá trình tiến hoá êm ả, thì thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa hoặc trước tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (CSCN) trong thời đại ngày nay càng không thể là một quá trình êm ả. Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ coi hình thái kinh tế - xã hội nào đã tồn tại kể từ trước đến nay là chuẩn nhất. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội cùng với một Quan hệ sản xuất thống trị, điển hình còn tồn tại những Quan hệ sản xuất phụ thuộc, lỗi thời như là tàn dư của xã hội cũ. Ngay ở cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất cũng không chỉ có một Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các tình hình trên đều bắt nguồn từ phát triển không đều về Lực lượng sản xuất không những giữa các nước khác nhau mà còn giữa các vùng và các ngành khác nhau của một nước. Việc chuyển từ Quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như C.Mác nhận xét: "Không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi..." phải có một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều kiện vật chất trên.
1.3. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản.
Bắt nguồn từ nhận thức về qui luật phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, đồng thời xuất phát từ những điều kiện mới của thực tế lịch sử hiện nay có thể khẳng định các nước chậm phát triển cũng có khả năng tiến lên CNXH tùy theo hoàn cảnh và khả năng của mình. Khả năng quá độ lên CNXH này thường được gọi là con đường quá độ gián tiếp lên CNXH, con đường bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa. Con đường phát triển theo khả năng này còn được gọi là con đường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo kinh nghiệm thực tế của Lênin đây là một con đường khá lâu dài phải qua nhiều bước trung gian, phát triển qua đấu tranh giai cấp rất phức tạp. Sự đi lên phải có sự ủng hộ và giúp đỡ bên ngoài kể cả cơ sở sản xuất. Trước hết trong nước đó cần có một Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo, một đảng có quan hệ mật thiết "sống còn" với dân. Từ đó tổ chức áp dụng lãnh đạo trong đó có cả vận dụng qui luật sản xuất phù hợp với nước đó một cách tích cực để không ngừng tiến bước.
2. Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người: quy luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của Quan hệ sản xuất vào sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Đến lượt mình Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất.
2.1.Tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất.
Tính chất của Lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ công và tính chất của lao động là lao động riêng lẻ. Những công cụ sản xuất như búa, rìu, cày, bừa… do một người sử dụng để sản xuất ra vật dùng không cần tới lao động tập thể-Lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân. khi máy móc ra đời đòi hỏi phải có nhiều người mới sử dụng được, để làm ra một sản phẩm cần có sự hợp tác của nhiều người, mỗi người làm một bộ phận công việc mới thành được sản phẩm ấy thì Lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá.
Trình độ của Lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng lao động của người lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động-xã hội. Trình độ Lực lượng sản xuất càng cao thì sự phân công lao động càng tỉ mỉ. Trình độ phát triển của phân công lao động thể hiện rõ ràng trình độ của các Lực lượng sản xuất.
2.2.Lực lượng sản xuất quyết định Quan hệ sản xuất.
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển, sự biến đổi bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của Lực lượng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi, phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất, còn Quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung, là phương thức, còn Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, thì nội quyết định hình thức; hình thức phụ thuộc vào nội dung; nội dung thay đổi trước sau đó hình thức thay đổi theo, tất nhiên trong quan hệ với nội dung và hình thức không phải là mặt thụ động, nó tác động trở lại đối với sự phát triển của nội dung.
Cùng với sự phát triển của Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất, sự phù hợp đó là động lực làm cho Lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nhưng Lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh, còn Quan hệ sản xuất có xu hướng ổn định khi Lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới, Quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến xoá bỏ Quan hệ sản xuất cũ, thay bằng Quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất, mở đường cho Lực lượng sản xuất phát triển
. 2.3.Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất.
Sự hình thành, biến đổi và phát triển của Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất, nhưng Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà Lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Nếu Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất nó thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh. Nếu nó không phù hợp, nó kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất, song tác dụng kìm hãm đó chỉ tạm thời theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất.
Sở dĩ Quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với Lực lượng sản xuất (thúc đẩy hoặc kìm hãm) vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ quảng đại quần chúng lao động- Lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội; nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân phối lao động.
Tuy nhiên, không được hiểu một cách đơn giản tính tích cực của Quan hệ sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu, mỗi kiểu Quan hệ sản xuất là một hệ thống, một chỉnh thể hưu cơ gồm ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, Quan hệ sản xuất mới trở thành động lực, thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội, sự tác động của quy luật này, đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất: Công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ đầu trong lịch sử là xã hội cộng sản nguyên thuỷ, với Lực lượng sản xuất thấp kém, Quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thuỷ, đời sống của họ phụ thuộc vào săn bắt, hái lượm.
Trong quá trình sinh sống, họ đã không ngừng cải tiến và thay đổi công cụ (Lực lượng sản xuất). Đến sau một thời kỳ Lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ cộng động bị phá vỡ, dần dần xuất hiện quan hệ tư nhân; nhường chỗ cho nó là một xã hội chiếm hữu nô lệ, với Quan hệ sản xuất chạy theo sản phẩm thặng dư, chủ nô muốn có nhiều sản phẩm, dẫn đến bóc lột, đưa ra công cụ lao động tốt, tinh xảo vào sản xuất, những người lao động trong thời kỳ này bị đối xử hết sức man rợn. Họ là những món hàng trao đi đổi lại, họ lầm tưởng do những công cụ lao động dẫn đến cuộc sống khổ cực của mình, nên họ phá hoại Lực lượng sản xuất, những cuộc khởi nghĩa nô lệ diễn ra khắp nơi.
Chấm dứt chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến ra đời, xã hội mới ra đời, giai cấp thời kỳ này là dịa chủ, thời kỳ đầu giai cấp địa chủ nới nỏng hơn chế độ trước, người nông dân có ruộng đất, tư do thân thể.
Cuối thời kỳ phong kiến, xuất hiện những công trường thủ công và dẫn tới Lực lượng sản xuất mẫu thuẫn với Quan hệ sản xuất. Cuộc cách mạng tư sản ra đời, chế độ tư bản thời kỳ này chạy theo giá trị thặng dư và lợi nhuận. Họ đưa ra những kỹ thuật mới, những công cụ sản xuất hiện đại áp dụng vào sản xuất. Thời kỳ này Quan hệ sản xuất là Quan hệ sản xuất tư nhân về tư liệu sản xuất nên dẫn tới cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư sản và vô sản, xuất hiện một số nước CNXH. CNXH ra đời quan tâm đến xã hội hoá công hữu, nhưng trên thực tế CNXH ra đời ở các nước chưa qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, chỉ có Liên Xô là qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, nhưng chỉ là chủ nghĩa tư bản trung bình.
Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất là quy luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay thế kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức sản xuất.
2.4.Mối quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất.
Khi trình độ Lực lượng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là tính chất cá nhân. Nó thể hiện ở chỗ chỉ một người có thể sử dụng được nhiều công cụ khác nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Như vậy, tất yếu dẫn đến Quan hệ sản xuất sở hữu tư nhân (nhiều hình thức) về tư liệu sản xuất.
Khi sản xuất bằng máy móc ra đời, trình độ sản xuất công nghiệp thì một người không thể sử dụng được nhiều mà chỉ một công cụ, hoặc một bộ phận chức năng. Như vậy, quá trình sản xuất phải nhiều người tham gia sản phẩm lao động là thành quả của nhiều người, ở đây, Lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội hoá, tất yếu một Quan hệ sản xuất sản xuất thích hợp phải là Quan hệ sản xuất sở hữu về tư liệu sản xuất. Ănghen viết: “Giai cấp tư sản không thể biến tư liệu sản xuất có tính chất hạn chế ấy, thành Lực lượng sản xuất mạnh mẽ được, nếu không biến những tư liệu sản xuất của cá nhân, thành những tư liệu sản xuất có tính chất xã hội, mà chỉ một số người cùng làm mới có thể sử dụng được”.
Quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ:
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi, phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của Lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ. Công cụ phát triển đến mâu thuẫn gay gắt với Quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ Quan hệ sản xuất cũ thay bằng Quan hệ sản xuất mới. Như vậy, Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của Lực lượng sản xuất (ổn định tương đối), Quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất (không phù hợp). Phù hợp và không phù hợp là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng của Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất, tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn là bao hàm mâu thuẫn.
Khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với Lực lượng sản xuất, thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất.
Sự tác động trở lại nói trên của Quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế cơ bản.
Phù hợp và không phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất là khách quan và phổ biến của mọi phương thức sản xuất. Sẽ không đúng nếu quan niệm trong CNTB luôn luôn diễn ra “không phù hợp”, còn dưới CNXH “phù hợp” giữa Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất.
II. Việc vận dụng quy luật trên vào phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Vấn đề Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất trong công nghiệp hoá và hiện đại hoá được đảng ta đặc biệt quan tâm . Điều đó không chỉ thể hiện sự quán triệt lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội mà còn thể hiện sự quan tâm trực tiếp đến lợi ích của cả dân tộc ta
Điều kiện khách quan tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta . Tác động của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đến toàn bộ nền kinh tế
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất thì Lực lượng sản xuất phát triển thuận lợi, đồng thời kéo theo Quan hệ sản xuất cũng phát triển. Con người có vai trò trong việc tác động đối với Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất, nhưng con người không thể tự sáng tạo, định hướng bất cứ hình thức nào của Quan hệ sản xuất mà mình muốn vì rằng cái tất yếu phát triển của Quan hệ sản xuất luôn luôn bị quy định bởi trạng thái của Lực lượng sản xuất.
Do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất trong công cuộc cải tạo Quan hệ sản xuất cũ và xây dựng Quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ Lực lượng sản xuất đang còn thời kì quá thấp kém chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn và ngộ nhận là đã có “Quan hệ sản xuất XHCN” và còn nói rằng: mỗi bước cải tạo Quan hệ sản xuất cũ, xây dựng Quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của Lực lượng sản xuất mới, Quan hệ sản xuất XHCN có khả năng “vượt trước” “mở đường” cho sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Thực tế nhiều năn qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm. Sai lầm chủ yếu không phù hợp với tính chất và trình độ ở chỗ chúng ta duy trì Quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của Lực lượng sản xuất như người ta thường nói mà chủ yếu có những mặt của Quan hệ sản xuất bị thúc đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình độ thấp kém của Lực lượng sản xuất. Bởi vậy, nhận định trong đại hội lần thứ VI là có căn cứ đã làm phong phú thêm lý luận biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp Quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi Quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất”.
Để chứng minh cho “quan niệm sản xuất đi trước” hoặc nói theo cách thời bấy giờ là giải quyết mâu thuẫn giữa Quan hệ sản xuất tiên tiến với Lực lượng sản xuất lạc hậu, chúng ta đã ra sức xây dựng Lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cách đưa ra khá nhiều máy móc vào các cơ sở sản xuất nông nghiệp mới hình thành còn non yếu, què quặt nhằm xây dựng mô hình lâu dài công-nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đến khả năng quản lý trình độ, tổ chức sử dụng của nông dân.
Thực trạng kinh tế ở nước ta với nền nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu phù hợp với tính chất và trình độ cải tạo xã hội chủ nghĩa phát triển công nghiệp quốc doanh, công nghiệp nặng chỉ nên coi như mục đích lâu dài phù hợp với tính chất và trình độ cải tiến tới chứ không coi như một tất yếu trực tiếp phù hợp với tính chất và trình độ cải tạo ngay. Song chúng ta đã bất chấp thực tế khách quan mà chỉ nhìn vào vai trò tích cực của nhân tố chính trị tưởng rằng nhà nước chuyên chính vô sản, bằng những đường lối chính sách và những hoạt động tích cực có thể tìm cách giải quyết tốt nhất trong sản xuất và đời sống xã hội có khả năng chủ động tạo ra Quan hệ sản xuất mới mở đường cho Lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng thực tế chúng ta đã không thể rút ngắn được “những cơn đau của thời sinh đẻ” nỗi đau đó cứ kéo dài, dẫu sao cũng “không thể nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ những giai đoạn đó”.
Quan điểm về Quan hệ sản xuất đi trước là không đúng và nói đến Quan hệ sản xuất XHCN là nhấn mạnh việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và cơ chế thực hiện chế độ đó là phiến diện. Đành rằng yếu tố này cơ bản nhưng không thể xem xét nhẹ Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ. Phải thấy rằng Quan hệ sở hữu được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực sản xuất trao đổi phù hợp với tính chất, trình độ và tiêu dùng của người lao động. Ngay cả việc xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập công hữu về tư liệu sản xuất không phải chỉ thời gian ngắn là xong. Nhưng dẫu có làm được thì cũng không phải là mục tiêu trước mắt của nước ta mà chế độ công hữu này chưa thể phù hợp với Lực lượng sản xuất hiện có. Hơn nữa những thành phần kinh tế khác có khả năng góp phần làm cho nền sản xuất phát triển. Một trong sai lầm cơ bản mà chúng ta vấp phải là xoá bỏ quá sớm Quan hệ sản xuất TBCN, khi nền kinh tế XHCN của chúng ta chưa còn đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của Lực lượng sản xuất và đã làm mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. Cũng vậy, chúng ta xoá sạch tiểu thương khi hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán của ta chưa làm nổi vai trò “người nội trợ cho xã hội” gây ra nhiều khó khăn ách tắc cho lưu thông hàng hoá và không đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho nhân dân.
2. Đường lối phát triển Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN.
Qua quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đi lên CNXH, Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng: một trong những nguyên nhân làm cho sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là “không nắm vững Quan hệ sản xuất phù hợp với tích chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất”. Từ đó đảng rút ra cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cách mạng Quan hệ sản xuất với cách mạng khoa học- kỹ thuật, chú trọng việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội để xác định những hình thức và bước đi thích hợp.
Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất không bao giờ tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi, sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với Lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ cũng tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với với những đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của Lực lượng sản xuất. Trong thời kì đi lên của XHCN, nền kinh tế không còn là nền kinh tế tư bản, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo XHCN phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Trong cải tạo của nền Quan hệ sản xuất cũ và xây dựng Quan hệ sản xuất mới, Đại hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối, không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ kia. Không nên quá đề cao chế độ công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng Quan hệ sản xuất mới. Thực tế chỉ rõ, nếu chế độ quản lý và phân phối không được xác lập theo những nguyên tắc của CNXH và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà còn cản trở Lực lượng sản xuất phát triển.
Đối với chế độ quản lý, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất có những quy định gì? Trước tiên, nó qui định tính chất mục tiêu, phương pháp của quản lý, đó là quyền làm chủ của nhân dân lao động đối với việc tổ chức, quản lý nền kinh tế. Làm sao cho mọi người lao động trong xã hội cùng là chủ tư liệu sản xuất, có quyền bình đẳng, hợp tác trong lao động sản xuất và trong lợi ích kinh tế. Thứ hai là, cơ chế quản ký kinh tế dựa trên chế độ công hữu là phải có tính kế hoạch, tính tập trung thống nhất. Văn kiện Đại hội VI cũng đã khẳng định điều này: tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ.
Trong công cuộc đổi mới đất nước phải tuân thủ quy luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất hiện có, để xác định bước đi và những hình thức thích hợp. Quy luật đó luôn được coi là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải tạo Quan hệ sản xuất cũ, xây dựng Quan hệ sản xuất mới trên những điều kiện phát triển của Lực lượng sản xuất. Đại hội VI chỉ rõ “đảm bảo sự phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất, luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo Quan hệ sản xuất với tổ chức và phát triển sản xuất”, không nên nóng vội duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đi, cũng như việc lựa chọn các hình thức kinh tế, cần phải tạo nền sản xuất nhỏ, cá thể để đưa nền sản xuất từng bước tiến lên sản xuất lớn. Trên cơ sở sản xuất nhỏ xây dựng những hình thức của Quan hệ sản xuất phù hợp, từng bước và đồng bộ. Rà soát lại quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua, Đảng ta đã đưa ra kết luận: “Theo quy luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất, quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa phải có bước đi và hình thức thích hợp” “phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật tạo ra Lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa Quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô thích hợp để thúc đẩy Lực lượng sản xuất phát triển”.
Tóm lại, việc xây dựng và hoàn thiện Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải đảm bảo sự thích ứng đồng bộ giữa ba yếu tố của Quan hệ sản xuất, cũng như mối liên hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất.
3. Phát triển Lực lượng sản xuất và xây dựng Quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của Lực lượng sản xuất quyết định. Do vậy trong quá trình xây dựng CNXH, việc phát triển Lực lượng sản xuất, xây dựng Quan hệ sản xuất mới là nhiệm vụ cần thiết khách quan
3.1.Thực trạng nguồn lực của Lực lượng sản xuất ở nước ta.
Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều kiện nền kinh tế còn mang nặng tính nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn chiếm tỉ trọng nhỏ, tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thua quá xa so với các nước trong khu vực.
Theo số liệu thống kê của Việt Nam lao động hoạt động chiếm gần 45% dân số, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 75%, công nghiệp chiếm 11%, còn lại là ở trong các hoạt động dịch vụ khác.
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 đã đưa ra các thông tin dự báo về nguồn lực lao động: “bước vào thập kỷ 90 nước ta có 66 triệu dân, với 33 triệu người trong độ tuổi lao động. Đến năm 2000 có khoảng 80 triệu dân với hơn 40 triệu lao động. Tình hình giáo dục cũng có những biểu hiện đáng ngại, học sinh bỏ học hàng năm có xu hướng tăng lên, chất lượng giáo dục không đảm bảo. Nếu như giáo dục đại học một số nước Đông Nam á đạt tỉ lệ 60-80 sinh viên/10000 dân thì nước ta tỷ lệ đó chỉ có 22 sinh viên/10000 dân.
3.2.Một số giải pháp phát triển Lực lượng sản xuất.
Nước ta một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH trong điều kiện tiền vốn ít, khả năng khoa học còn hạn chế và còn nhiều yếu tố khác quy định thì chưa thể đổi mới ngay Lực lượng sản xuất cũ bằng một Lực lượng sản xuất tiên tiến. Do đó những yếu tố Lực lượng sản xuất truyền thống vẫn phải được duy trì và khai thác. Trong hoàn cảnh hiện nay Lực lượng sản xuất bổ sung quan trọng là Lực lượng sản xuất chuyển tiếp, cần phải sàng lọc trong Lực lượng sản xuất truyền thống những yếu tố nào có giá trị để bổ sung cho việc xây dựng Lực lượng sản xuất hiện đại cần phải kết hợp các yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại, đảm bảo tính phủ định có kế thừa, tiế thu có chọn lọc cho phép tạo nên một sự phát triển ổn định, bình thường của Lực lượng sản xuất, tránh được sự “gãy gục” trong tiến trình phát triển đó.
Những tiến bộ to lớn của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật ngày nay cho phép nước ta có thể tranh thủ vận dụng trực tiếp những thành tựu Khoa học-kỹ thuật, nhập khẩu tư liệu sản xuất hiện đại, chuyển giao công nghệ qua liên kết kinh tế và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Từ đó chúng ta có thể tạo nên sự kết hợp những tiến bộ về Lực lượng sản xuất do đó tiếp thu có chọn lọc từ bên ngoài với những cơ sở vật chất và Lực lượng sản xuất vốn có trong nước, để đẩy nhanh và rút ngắn thời hạn phát triển lịch sử tự nhiên của Lực lượng sản xuất, vươn lên kịp trình độ của thế giới.
Con người tham gia vào quá trình sản xuất vừa với tư cách là sức lao động, vừa với tư cách là con người có ý thức chủ thể của những quan hệ kinh tế. Trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật chuyên môn, ý thức và thái độ của người lao động đói với sản xuất và sản phẩm là những yếu tố quan trọng để sử dụng và khai thác kỹ thuật và tư liệu sản xuất vốn có, để sáng tạo trong quá trình sản xuất. Angghen đã nhấn mạnh “muốn nâng cao sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đến mức độ cao, mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học phù hợp thì vẫn chưa đủ. Còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người, sử dụng những phương tiện đó nữa” nghĩa là phải có sự phối hợp phát triển hài hoà các nhân tố khách quan của Lực lượng sản xuất hiện đại.
Để tạo điều kiện cho con người chủ động,nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất, điều chỉnh và hoàn thiện Quan hệ sản xuất để thông qua đó phát triển Lực lượng sản xuất, đồng thời muốn tạo ra những động lực tích cực kích thích năng lực sáng tạo của người lao động thì đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý phù hợp-cơ chế quản lý theo nguyên tắc hạch toán kinh tế. Muốn giải phóng và phát huy triệt để nhân tố con người trong sản xuất, trước hết phải có chiến lược về con người nhằm tạo ra những biến đổi tích cực về cơ cấu và chất lượng công nhân. Việc cải cách giáo dục, bồi dưỡng chuyên môn, kỹ thuật và năng lực quản lý, việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội, xây dựng môi trường xã hội có bầu không khí dân chủ phù hợp với yêu cầu của cuộc sống hiện đại và hướng tiến lên của xã hội, là những phương tiện đa dạng trong thống nhất để đi đến chỗ phát triển Lực lượng sản xuất.
4. Xây dựng Quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất luôn là yêu cầu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội. Đối với nước ta đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: “Nếu công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo nên Lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống Quan hệ sản xuất phù hợp”
Đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng. Bởi vì, nó biểu hiện sự lựa chọn những hình thức, bước đi, giải pháp thích hợp với trạng thái kinh tế hiện nay.
Đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của Lực lượng sản xuất nước ta hiện nay vừa thấp, vừa không đồng đều nên không thể nóng vội nhất loạt xây dựng Quan hệ sản xuất một thành phần, dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như trước Đại hội VI. Làm như vậy là đẩy Quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ Lực lượng sản xuất. Mở ra nền kinh tế nhiều thành phần đã khơi đậy tiềm năng của sản xuất, xây dựng năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất, kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thực tiễn mấy năm qua cho thấy, chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần giải phóng và phát triển Lực lượng sản xuất, đưa đến những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, Đại hội VIII khẳng định: “Tiếp tục thực hiện nhất quán lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp và cá nhân trong nước khai thác tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển...trong khi thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, một mặt cần phải thoát ra khỏi sự trói buộc của tư duy cũ, những nhận thức không đúng trước đây đối với các thành phần kinh tế, không thấy hết vai trò tác động tích cực của các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước trong quá trình xây dựng CNXH, từ đó không chủ động tháo gỡ những vướng mắc hoặc thiếu sự quản lý, hướng dẫn các thành phần kinh tế này phát triển đúng hướng.
C. KẾT LUẬN
Như vậy, quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất quả thật là quy luật cơ bản, quan trọng nhất không những của kinh tế mà còn của cả lịch sử xã hội. Nó chỉ rõ tính chất phụ thuộc khách quan của Quan hệ sản xuất vào sự phát triển của Lực lượng sản xuất và đến lượt mình, Quan hệ sản xuất cũng có những tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất.
Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Trên thực tế bất cứ ở đâu và vào lúc nào cũng không thể có được sự phù hợp tuyệt đối giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải pháp phù hợp. Trong quan hệ giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất nói chung cũng có sự ràng buộc xuất phát từ chúng. Tuy nhiên chính bản thân các Quan hệ sản xuất lại có mối quan hệ chặt chẽ với Lực lượng sản xuất. Vấn đề đặt ra là ta sử dụng mối quan hệ ấy như thế nào cho phù hợp. Đặc biệt quan hệ giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất lại có nhiều lộn xộn trong việc nghiên cứu, sử dụng và phát triển các phương thức sản xuất tức là quá trình "Đa dạng hoá" cụ thể hơn là quá trình "phù hợp hoá" các loại phương thức sản xuất vào điều kiện thực tế hiện nay của nước ta. Nếu chúng ta sử dụng đúng các qui luật trên cộng với điều hoà quan hệ Lực lượng sản xuất với Quan hệ sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh cùng với các nước phát triển tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã chọn.
Việc phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sự vận dụng đúng đắn quy luật này. Từ khi được khẳng định, chủ trương chiến lược này đã đi vào cuộc sống, góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế nước ta, khắc phục về căn bản khủng hoảng kinh tế xã hội,đẩy lùi lạm phát, đưa nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển nhanh, cải thiện đời sống nhân dân.
Ý thức được sự tồn tại khách quan đặc trưng của nền kinh tế quá độ ở nước ta, chúng ta phải đưa ra những giải pháp, những chính sách nhằm thực hiện tốt chủ trơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta.
Qua bài viết này phần nào tôi hiểu và biết được tình hình kinh tế nước nhà. Những cái, những điều kiện mà Đảng và nhà nước ta đang làm để phát triển đất nước.
D. Danh mục tài liệu tham khảo
Mác-Tư bản tập I NXB Sự thật Hà Nội 1999.
Mác-Ăngghen tuyển tập II NXB Sự thật Hà Nội 1999.
Tạp chí triết học số 1–1993, 3-1994, 4-1994, 6-1994, số 3–1997, 4-1997, 6-1997, 2-1998, 1-1999.
Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội VI của Đảng, NXB sự thật Hà nội 1998.
Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội VIII của Đảng, NXB Chính trị Quốc gia 1996.
Triết học Mác-LêNin tập II NXB Giáo dục 2000
Văn kiện Đại hội IX của Đảng, NXB chính trị quốc gia 2001
Tạp chí kinh tế vàphát triển tháng: 1-2000, 4-2000, 12-2000, 1-2001, 8-2001, 9-2001.10 - 2002
9. Tạp chí cộng sản tháng: 2-1999, 6-1999, 1-2000, 3-2000, 12-2000,1-2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21372.doc