Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của phương thức hoạt động kinh tế. Nếu như trong buổi sơ khai, kinh tế chỉ là phương thức hoạt động tự cung tự cấp, thì đến giai đoạn hình thành chủ nghĩa tư bản, hoạt động kinh tế chuyển sang phương thức trao đỏi và hợp tác hết sức đa dạng và phức tạp. Từ kinh tế thị trường dã man đến kinh tế thị trường văn minh là một bước tiến khổng lồ của hoạt động sống nhân loại, ở đó, một mặt, thể hiện khả năng chiến hữu thế giới sâu sắc, đạt tới một trình độ phát triển lớn lao; mặt khác, thể hiện những thủ đoạn bóc lột tinh vi và triệt tiêu lẫn nhau giữa các tập đoàn kinh tế. Từ chỗ là hoạt động kiếm sống đơn thuần của kinh tế nói chung, kinh tế thị trường trở thành chiến trường sôi động trong hoạt động mưu cầu lợi nhuận, cũng như trong mặt trận chiếm lĩnh những đỉnh cao của sự giàu có và do đó, đỉnh cao của quyền lực không chỉ trong kinh tế, mà cả trong lĩnh vực chính trị-xã hội.
Sự vận động tiến lên của xã hội loài người được quy định bởi các quy luật khách quan mà trong đó đáng chú ý nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luât này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế.
19 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong xã hội ngày nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- Lời Mở Đầu
Kinh tế là lĩnh vực hoạt động đầu tiên phục vụ sự tồn tại và phát triển của loài người, là phương thức cơ bản song song với đời sống tinh thần cùng thúc đẩy xã hội loài người tiến lên.
Tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội là những vấn đề quan trọng của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và ngày nay đang là vấn đề có tính toàn cầu. Để thực hiện những mục tiêu kinh tế đó chúng ta cần phải vận dụng tốt những quy luật của sự vận động, phát triển xã hội. Một trong những quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng của lực lượng sản xuất.
Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độ, phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc nắm vững và vận dụng quy luật này lại càng quan trọng.
Kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội không chỉ là một trong những đại vấn
đề, là điểm then chốt trong lý luận về chủ nghĩa xã hội mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Viết Nam khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . Quan điểm này là kết quả của một quá trình đổi mới tư duy, vận dụng lý luận, tổng kết thực tiễn; là quá trình tìm tòi, thử nghiệm, trăn trở, đấu tranh tư tưởng – lý luận trong Đảng và ngoài xã hội. Thực tiễn đã khẳng định và chứng minh đây là một bước đột phá có tính sáng tạo và cách mạng trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội.
Để hoàn thành bài tiểu luận này em xin cám ơn sự chỉ dẫn tận tình của thạc sỹ Nguyễn Vân Hà người trực tiếp giảng dạy bộ môn triết học đã giúp em trong quá trình làm tiểu luận.
B- Nội Dung
I.Cơ sở lý luận:
1.Lực lượng sản xuất – Quan hệ sản xuất :
* Phương thức sản xuất:
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuât vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định.Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có “ quan hệ song trùng”: Một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
* Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất biểu diễn mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm : tư liệu sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “ lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày nay với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng góp vai trò chính yếu.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra là “ sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá” nó “ nhân ” sức mạnh của con người trong quá trình lao động và sản xuất.Công cụ lao động là yếu tố đồng nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm với những phát minh và sáng chế kỹ thuật công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực manh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay khoa học đã phát triển tới mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “ lực lượng sản xuất trực tiếp”. Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời của những nghành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, trở thành một yếu tố không thể thiếu được của sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt tạo thành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao đông hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ và là tri thức khoa học.
* Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt : quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất cho con người tạo ra nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. C. Mác viết: “ trong sản xuất người ta không chỉ quan hệ với tư liệu. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoật động chung và để trao đổi hoạt đọng với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ vào quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với tự nhiên tức là việc sản xuất”. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động phát triển không ngừng cuả lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt cuă quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát quan hệ cơ bản đặc trưng cho quan hệ sản xuất tronh từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hề về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác. Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu cơ bản vè tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hưũ tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ đó quan hệ giữa người với người trong mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng hợp tác giúp đỡ lẫn nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức điều khiển quá trình sản xuất, Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đén thái độ cuả con người trong lao động sản xuất và do đó, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Bằng nhiều con đường khác nhau, lâu nay từ nước ngoài du nhập vào nước ta những ấn phẩm chứa đựng những luận điểm sai trái, Một trong những luận điểm đó là: quan hệ sản xuất mà chúng ta đanh xây dựng chỉ là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất. Họ cho rằng, vì chúng ta không làm như vậy mà chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bằng mọi giá nên lực lượng sản xuất thấp kém, trì trệ.
Luận điểm đó lâu ngày cũng dần dần “thấm” vào một số người. Gần đây, trong một số hội thảo khao học, đâu đó cũng có người trưng ra luận điểm đó. Có người tuy không trực diện nêu lên quan hệ sản xuất chỉ là phương tiện, nhưng nội dung trình bày lại không khác gì lắm so với luận điểm đó. Trong khi đó, tác động tiêu cực của luận điểm sai trái này trong xã hội chúng ta ngày càng nhiều.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ sản xuất biểu hiện ở trình dộ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liềnvới trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hoá. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao đông xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Sự phù hợp của quan hệ sản xuấtvới trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lựclượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “ tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở đẻ phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “ xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất đẻ thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết “ tới một giai đoạnnào đó phát triỉen của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có…. Trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ âý trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ của sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khyoa học và công nghệ, v v…và do đó dẫn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung , quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư sản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
3.Vận dụng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
*Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá mà ở đó tất cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất và kinh doanh đều cí thể được mua bán trên thị trường. Vì vậy trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một thị trường đồng bộ bao gồm cả thị trường đầu vào và đầu ra.
Đặc điểm của kinh tế thị trường:
Thứ nhất, trong kinh tế thị trường tính tự chủ về kinh tế của các cá nhân rất cao, do tác động của quy luật giá trị các doanh nghiệp phải tuân thủ nghiêm ngạch chế đọ hạch toán kinh doanh.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường dung lượng và những loại hàng hoá đa dạng và phong phú.
Thứ ba, giá cả của hàng hoá được xác định ngay trên thị trường là kết quả của sự tác động qua lại giửa hàng hoá và tiền tệ, giữa cung và cầu, giữa người bán và người mua đó là giá thoả thuận.
Thứ tư, cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Tác động cả trong sản xuất và lưu thông. Hình thành cạnh tranh nội bộ nghành giữa các nghành, cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Nhờ có cạnh tranh mà những biểu hiện thái quá của độc quyền và những can thiệp thô bạo của nhà nước được điều chỉnh hạn chế.
Thứ năm, nền kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở lấy trao đổi làm mục đích.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có hai đặc điểm cơ bản: Một là, đây là nền kinh tế thị trường mới bước đầu được hình thành, còn sơ khai, còn ở trình độ thấp, các loại thị trường chưa hình thành đầy đủ, đồng bộ. Và hai là, kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa, nó khác với thị trường tư bản chủ nghĩa, nó do Đảng cộng sản lãnh đạo và Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý.
*Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một trong những chủ trương lớn, rất quan trọng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Thực tế đã chứng tỏ đây là mội chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm qua, nhờ các thành phần kinh tế phát triển, đất nước đã huy động được nhiều nguồn lực trong nước và ngoài nước, tạo ra động lực phát triển kinh tế mạnh mẽ. Nhưng hiện nay, trước những yêu cầu mới phải đẩy nhanh nhịp độ phát triển đất nước, bảo đảm sự phát triển nhanhvà bền vững của nền kinh tế xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, việc phát triển kinh tế nhiều thành phần đang đặt ra nhiều vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn.
Như ta đều biết, sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đã ddược V.I.Lê-Nin đề cập từ những ngày đầu của chính quyền Xô-Viết. Vào năm 1918 Lê-Nin đã chỉ ra rằng, trong nền kinh tế của thời kỳ qúa độ có sự đan xen của những yếu tố, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội, nghĩa là những yếu tố của năm thành phần kinh tế xã hội khác nhau ở Nga lúc bấy giờ.
Những tư tưởng ấy của V.I.Lê-Ninđã được triển khai trong công cuộc xây dựng đất nước Xô Viết và đã đem lại những thành tựu quan trọng, nhất là ở thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới.
Ngay sau khi giành được độc lập dân tộc, nhà nước non trẻ của chúng ta vừa phải kháng chiến chống thù trong giặc ngoài, vừa tiến hành kiến quốc, nhưng ngay từ năm 1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến sự tồn tại của năm loại kinh tế khác nhau trong chế độ mới:
A-Kinh tế quốc doanh ( thuộc chủ nghia xã hội vì nó là của chung, của nhân dân)
B-Các Hợp tác xã ( nó là nửa Chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến Chủ nghĩa xã hội)
C-Kinh tế cá nhân, nông dân và thủ công nghệ ( có thể tiến dần vào Hợp tác xã, tức là nửa Chủ nghĩa xã hội )
D-Tư bản tư nhân
E-Tư bản của nhà nước (như nhà nước hùm vốn với Tư bản để kinh doanh)
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên, kinh tế ta phát triển theo hướng Chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng Chủ nghĩa tư bản.
II. Thực Trạng Và Giải Pháp:
1. Một số thành tựu và khó khăn:
Sau đại thắng màu xuân năm 1975, miền nam được giải phóng, đất nước thống nhất, chúng ta chưa quán triệt được tư tưởng Hồ Chí Minh do mắc phải bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý trí trong cải tạo Xã hội chủ nghĩa, nên đã muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế “phi Xã hội chủ nghĩa”, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh, muốn hoàn thành trong thời gian ngắn cỉa tạo Xã hội chủ nghĩa. Kết quả là những thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cơ bản đã bị triệt tiêu, kinh tế phát triển chậm dần, từ đầu những năm 80 thế kỉ XX đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Đúng như văn hiệu Đại hội VI của Đảng khẳng định: “ Trong nhận thức cũng như trong hoạt động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lưc lượng sản xuất.
Khắc phục sai lầm trên, từ Đại hội VI của Đảng - Đại hội khởi đầu sự nghiệp đổi mới – chủ chương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được nhận thức lại và thực hiện nhất quán. Đảng ta đã xây dựng nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kì qua độ, phát triển kinh tế nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược, lâu dài trong suốt thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Từ đó các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, tiểu chủ, kinh tế hộ gia đình mới có điều kiện hoàn thành và phát triển trở lại một cách công khai, hợp pháp. Một trong những nội dung quan trọng của tư duy kinh tế mới (lúc đó) là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức kinh tế gắn liền với các hình thức sở hữu đó do lịch sử để lại, chừng nào chúng còn phát huy tác dụng đối với tiến bộ xã hội, tức là chừng nào chưa là một hình thức kinh tế có năng suất và hiệu quả cao hơn hẳn thay thế chúng trong nền kinh tế xã hội.
Qua thực tiễn những năm đổi mới, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế nhiều thành phần đã từng bước được tổng kết và làm rõ.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế, là phương thức giải phóng sức sản xuất và huy động tối đa sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần là phương thức thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần cũng là con đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong suốt thời kì qua độ.
Chúng ta đã tiến hành nhiều biện pháp về cải cách hành chính, điều chỉnh chính sách thuế và nhằm giảm thiểu những phiền hà, rườm rà trong các thủ tục hành chính, khắc phục tệ quan liêu, từng bước cải thiện môi trường kinh doanh, góp phần hoàn thiện hệ thống và xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nươc ta.
Đến nay, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tăng lên với tốc độ nhanh chưa từng có. Tính đến hết tháng 9 năm 2003 cả nước có khoảng trên 12,4 triệu bộ kinh doanh cá thể, hơn 117 nghàn doanh nghiệp tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân đã chiếm tỷ trọng áp đảo trong việc tạo chỗ làm mới. Không những thế, lượng vốn huy động cho đầu tư phát triển khá lớn, lớn hơn cả lượng vốn đầu tư nước ngoài, chưa kể số việc làm mới tạo ra, khu vực kinh tế tư nhân cũng đang chiếm vị trí hàng đầu. Thực tế đã chứng tỏ mấy năm vừa qua là một thời kì “ nở rộ “ của khu vực kinh tế tư nhân.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tuy bối cảnh quốc tế còn nhiều phức tạp nhưng trong thời gian qua cũng đã có tốc độ tăng trưởng khá, có đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế chung, nhất là trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ kỹ thuật quản lý kinh doanh hiện đại và tạo việc làm. Nếu tính sự tham gia vào cơ cấu GDP của cả nước thì khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 6,0% (1995) lên 13,3% (2000) và đạt trên 14% (2003).
Trong nông nghiệp, việc thừa nhận vai trò độc lập, dân chủ của kinh tế hộ cũng với quá trình thực hiện cơ sở quản lý mới trong nông nghiệp đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt và khá bền vững. Điều đó đã cho phép nước ta chuyển từ tình trạng nhập khẩu lương thực hàng năm để cứu đói sang tình hình mới, chẳng những biến đổi được lương thực quốc gia, và còn đưa nước ta lên hàng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo, nhiều mặt hàng nông sản đứng vị trí nhất, nhì thế giới cả về số lượng và chất lượng.
Và nhiều thành tựu khác, có thể kể đến, trong mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và văn hoá, xã hội đã chứng tỏ chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần do Đảng ta đề ra là hoàn toàn đúng đắn, mang lại sức sống cho nền kinh tế. Chính sách đúng, trước hết, được thể hiện rõ trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân, làm cho bộ mặt nông thôn cũng như thành thị trên cả nước có nhiều khởi sắc, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao.
Tuy vậy, thực tiẽn phát triển nền kinh tế nhiều thành phần cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả kinh tế-xã hội nhìn chung còn thấp so với yêu cầu đề ra; năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện so với lịch trình hội nhập kinh tế quốc tế mà chúng ta đã cam kết với khu vực và thế giới. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về kiểm điểm nửa đầu nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: Việc thực hiện chính sách phát triểncác thành phần kinh tế tuy đã tiến bộ nhưng vẫn còn thiếu nhất quán, chưa khai thác tốt nguồn nội lực trong dân. Việc sắp xếp, đổi mới, nhất là việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, thực hiện chậm so với mục tiêu đề ra. Có xu hướng bao cấp việc trở lại bảo trợ dưới nhiều hình thức cho doanh nghiệp nhà nước. Nhiều doanh nghiệp nhà nước ở những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm làm ăn thua lỗ kéo dài, đã làm hạn chế vai trò chư đạo của kinh tế Nhà nước, đang là gánh nặng cho ngân sách và các ngân hàng. Một ssó chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chậm được áp dụng. Trên thực tế vẫn còn nhiều biểu hiện phân biệt đối xử, chưa thực sự bình đẳng, cởi mở đối với kinh tế tư nhân. Kinh tế tập thể phát triển chậm; các hợp tách xã chậm đổi mới, vị trí, vai trò còn thấp. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn do môi trường đầu tư chưa đủ thông thoáng, thuận lợi, nhất quán và ổn định. Chưa thực hiện tốt quản lý nhà nước đối với các thành phần kinh tế.
2. Giải pháp:
Tiếp tục làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của việc xác định thành phần
kinh tế và vị trí, vai trò các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay. Về mặt quan điểm của đảng và trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định rõ là thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vừa qua, chúng ta đã tập trung ưu tiên đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước tương đối lớn ( chiếm 80% vốn đầu tư nhà nước), nhưng kết qủa đem lại không tương xứng ( đóng góp 40% ngân sách). Tuy được ưu đãi nhiều hơn cả trong nhiều lĩnh vực, như : sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất, tín dụng ưu đãi, tiếp cận vốn vay ngân hàng…Vậy sắp tới cần tháo gỡ những chính sách để khu vực kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo và phát triển có hiệu quả.
Thực hiện chủ chương cổ phần hoá cho phù hợp.
Trong một số khu vực kinh tế , động lực phát triển đã có dấu hiệu chững
lại. Thực tế đang cần “cú huých” mới để tiếp tục tốc độ tăng trưởng nhanh. Ví dụ, trong nôngnghiệp, nếu không có sự tích tụ về ruộng đất và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn một cách hợp lý, thì trong một vài thập niên tới khó có thể giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của sản phẩm và hội nhập thành công, chưa nói đến việc tiếp tục đi lên sản xuất hàng hoá lớn.
Trong khu vực kinh tế tư nhân, sự tăng lên về số lượng doanh nghiệp và
huy động vốn đầu tư đã bắt gặp những rào cản. Điều đó thể hiện không những trong việc chưa ban hành kịp thới các văn bản dưới luật, mà ngay cả một số chủ trương, chính sách đã được ban hành vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc hoặc chưa thể thực hiện đựơc chậm đi vào cuộc sống. Chẳng hạn xoá bỏ những thành kiến cũ đoíi với khu vực kinh tế tư nhân, việc thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng đói với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Còn có những phân biệt vế chính sách thuế mặt hàng sản xuất … đang tạo ra nhiều khác biệt, chưa bình đẳng chưa tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Hiện nay tiềm lực bên trong của nền kinh tế quốc dân vẫn còn rất lớn. Nguồn vốn tiềm tàng trong dân còn rất lớn. Hàng năm, có khoảng từ 15- 20% vốn tiết kiệm nội địa chưa được huy động vào đầu tư. Những bước phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả từ khi có luật doanh nghiệp đến nay, phải chăng, mới chỉ tháo gỡ bước đầu. Vậy cần tháo gỡ tiếp như thế nào để tạo động lực phát triển mạnh mẽ tiếp theo hơn nữa.
Về mặt quản lý nhà nước đối với các thành phần kinh tế cũng còn nhiều
tranh cãi. Có ý kiến cho rằng, “ quản được đến đâu thì mở ra đến đấy”. Nếu vậy có cản trở sự phát triển không? Vấn đề là ở chỗ là nhà nước phải làm sao vừa quản lý, kiểm soát được nhưng không làm hạn chế sự phát triển và phải tạo điều kiện cho phát triển các thành phần kinh tế. Nói cách khác, quản lý phải theo kịp sự phát triển và vì sự phát triển. Tiếc rằng hiện nay chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức còn thấp, hệ thông pháp luật kinh tế chưa đồng bộ, tình trạng, quan liêu, tham nhũng chậm bị ngăn chặn và khắc phục có hiệu quả…đang là cản trở lớn cho sự phát triển cho nền kinh tế. Chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển các thành phần kinh tế với năng lực quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế đối với các thành phần kinh tế. Nhu cầu bức xúc và thực tiễn và bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nhất là đất nước đang đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, đòi hỏi phải có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn về mặt quản lý nhà nước.
-Việc hình thành “ Sân Chơi ” bình đẳng về môi trường cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền kinh doanh của doanh nghiệp cũng đanh là nổi cộm, gây nhiều ý kiến tranh luận rất khác nhau. Mỗi thành phần kinh tế gần như đã được điều tiết bởi một luận riêng. Nhưng nhu cầu hội nhập và tăng trưởng nhanh không cho phép kéo dài tình trạng nhiều “Sân chơi” , với sự cạnh tranh không lành mạnh ( đó là chưa nói đến những phân biệt đối xử trong hành động cụ thể thi hành pháp luận đối với khu vực tư nhân). Chính điều đó đã hạn chế quá trình nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế, cũng như năng lực cạnh tranh quốc gia và không phù hợp với thông lệ quốc tế trong tiến trình chủ đông hội nhập kinh tế quốc tế.
-Dự báo chiến lược như thế nào về xu thế phát triển của kinh tế nhiều thành phần để từ đó có chính sách phù hợp thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhất là trong vấn dề hoàn thiện quan hệ sản xuất trong suốt thời kỳ quá độ? Có ý kiến cho rằng, ngoại trừ một số sản phẩm đặc biệt, nhà nước tự đứng rabố trí sản xuất và những lĩnh vực sản xuất đó thường không theo quy luật củathị trường phi lợi nhuận hoặc tuân thủ các mục tiêu về chính trị, an ninh quốc gia và có cả tính chất từ thiện, xã hội và nhân đạo…cũng phải do các chủ thể là doanh nghiệp của nhà nước thực hiện. Nhưng thực tế lại cho thấy, ngay lĩnh vực công,nhiều quốc gia trên thế giới cũng giao cho cả khu vực tư nhân. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp đó phải đấu thầu nhận phần việc này, chính phủ dựa vào môi trường cạnh tranh thầu để chọn đối tượng sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nhà nước. Tất cả các lĩnh vực còn lại hễ là sản xuất, kinh doanh thì đều phải cạnh tranh bình đẳng. Nghĩa là phải cùng có cơ hôi như nhau, mới có thể phát hiện những người tài, sản xuất được những sản phẩm tốt cho đất nước. Lúc đó đồi hỏi kinh tế nhà nước phải có tiến bộ vược bậc về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thì mới thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình ( chủ đạo ở đây không có nghĩa là độc quyền).
Bên cạnh đó, có thể khẳng định rằng, không có sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân thì không thể nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng không có nền kinh tế tư nhân thì không có nền kinh tế thị trường. Vởy giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa tư hữu với công hữu trong chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như thế nào cho thoả đáng và hợp quy luật phát triển khách quan, phù hợp với thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiểu như thế nào cho đúng về sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân? lấy chế độ công hữu là gì? gắn kết chế độ công hữu với sở hữu cá nhân của người lao động là như thế nào?
ở đây, có thể nhắc lại một luận điểm rất quan trọng của Đảng ta mà đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự nóng hổi được nêu ra trong nghị quyết đại hội VI, cách đây 18 năm là : “Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố. Mọi chủ trương chính sách gây tác động ngược lại biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ”.
Vởy việc đánh giá đúng thực trạng nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta nói chung, của từng thành phần kinh tế nói chung hiện bnay, phát hiện kịp thời những vấn đề đang đặt ra để dự báo phát triển trong thời gian tới là việc làm rất cần thiết. Qua đó mới có thể tổng kết những vấn đề thực tiễn một cách sát hợp và có ý nghĩa, một mặt giúp cho các nhà hoặch định chính sách tìm giải pháp hữu hiệu vai trò tích cực của các thành phần kinh tế trong phát triển đất nước, hạn chế những mặt tiêu cực làm cản trở quá trình phát triển chung của cả nước, cũng như giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác những kết quả đó sẽ đóng góp rất quý báu nhằm góp phần vào quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới toàn diện đất nước chủ trương của Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư trung Ương Đảng
C - Kết Thúc Vấn Đề
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của phương thức hoạt động kinh tế. Nếu như trong buổi sơ khai, kinh tế chỉ là phương thức hoạt động tự cung tự cấp, thì đến giai đoạn hình thành chủ nghĩa tư bản, hoạt động kinh tế chuyển sang phương thức trao đỏi và hợp tác hết sức đa dạng và phức tạp. Từ kinh tế thị trường dã man đến kinh tế thị trường văn minh là một bước tiến khổng lồ của hoạt động sống nhân loại, ở đó, một mặt, thể hiện khả năng chiến hữu thế giới sâu sắc, đạt tới một trình độ phát triển lớn lao; mặt khác, thể hiện những thủ đoạn bóc lột tinh vi và triệt tiêu lẫn nhau giữa các tập đoàn kinh tế. Từ chỗ là hoạt động kiếm sống đơn thuần của kinh tế nói chung, kinh tế thị trường trở thành chiến trường sôi động trong hoạt động mưu cầu lợi nhuận, cũng như trong mặt trận chiếm lĩnh những đỉnh cao của sự giàu có và do đó, đỉnh cao của quyền lực không chỉ trong kinh tế, mà cả trong lĩnh vực chính trị-xã hội.
Sự vận động tiến lên của xã hội loài người được quy định bởi các quy luật khách quan mà trong đó đáng chú ý nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luât này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế.
Tài liệu tham khảo
{1} Giáo trình triết học Mác – Lênin.
{2} Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin.
{3} Tạp chí triết học số 7 ( Tháng 7/2002).
{4} Tạp chí cộng sản số 6 ( Tháng 3/2004).
{5} Tạp chí cộng sản số 25 ( Tháng 9/2003).
{6} Tạp chí cộng sản số 31 ( Tháng 11/2003).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35578.doc