Tiểu luận Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay

Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay MỞ ĐẦU Đề cập tới chức năng của hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta năm 1991 đã khẳng định: Toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện từng bước nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Thực hiện quan điểm trong Cương lĩnh của Đảng, những năm qua trong khi lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, chúng ta cũng đã từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, tính tích cực chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội ngày càng được nâng cao, ý thức và quyền làm chủ của nhân dân tham gia vào côg việc quản lý nhà nước ngày càng phát triển và mở rộng. Nhờ vậy, nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh, chính trị ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện từng bước. Trong khi khẳng định những bước tiến đó, chúng ta cũng thấy rằng so với yêu cầu thực tiễn, sự lãnh đạo của Đảng chưa được nâng cao đúng mức; tổ chức và hoạt động của Nhà nước còn quan liêu, cồng kềnh, kém hiệu quả; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn kém năng động, đội ngũ cán bộ đoàn thể vẫn chưa khắc phục được tình trạng "công chức hóa". Nghiêm trọng hơn là một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính trị thoái hóa về phẩm chất đạo đức cách mạng; một bộ phận đuối về năng lực, trong khi cả thời cơ lẫn thách thức lớn đang đặt ra trước hệ thống chính trị nước ta những vấn đề cấp bách cần giải quyết. Những yếu kém trên đây đã dẫn tới tình trạng quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm nghiêm trọng. Chỉ bằng cách tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị mới có thể nâng cao quyền làm chủ của nhân dân, với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình đổi mới theo định hướng XHCN. Xuất phát từ lý do trên, tiểu luận đi sâu tìm hiểu vấn đề quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay. MỞ ĐẦU I. Một số vấn đề chung về quyền lực, quyền lực chính trị, hệ thống chính trị 1.1.Quyền lực và quyền lực chính trị 1.2. Hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa II. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay 2.1. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là gì? 2.2. Nội dung quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta 2.3. Hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta III. Những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm và tăng cường quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay 3.1. Tiếp tục đổi mới, tăng cường hệ thống chính trị 3.2. Phát triển và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa 3.3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị của nhân dân 3.4. Giáo dục văn hóa pháp luật cho nhân dân KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc32 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 3031 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n nay Nguyễn Thị Lan Anh Cao học khóa VII HÀ NỘI, THÁNG 3-2002 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 I. Một số vấn đề chung về quyền lực, quyền lực chính trị, hệ thống chính trị 2 1.1. Quyền lực và quyền lực chính trị 2 1.2. Hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa 4 II. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay 6 2.1. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là gì? 6 2.2. Nội dung quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta 7 2.3. Hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta 9 III. Những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm và tăng cường quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay 15 3.1. Tiếp tục đổi mới, tăng cường hệ thống chính trị 15 3.2. Phát triển và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa 21 3.3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị của nhân dân 22 3.4. Giáo dục văn hóa pháp luật cho nhân dân 24 KẾT LUẬN 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO 28 MỞ ĐẦU Đề cập tới chức năng của hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta năm 1991 đã khẳng định: Toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện từng bước nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Thực hiện quan điểm trong Cương lĩnh của Đảng, những năm qua trong khi lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, chúng ta cũng đã từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, tính tích cực chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội ngày càng được nâng cao, ý thức và quyền làm chủ của nhân dân tham gia vào côg việc quản lý nhà nước ngày càng phát triển và mở rộng. Nhờ vậy, nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh, chính trị ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện từng bước. Trong khi khẳng định những bước tiến đó, chúng ta cũng thấy rằng so với yêu cầu thực tiễn, sự lãnh đạo của Đảng chưa được nâng cao đúng mức; tổ chức và hoạt động của Nhà nước còn quan liêu, cồng kềnh, kém hiệu quả; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn kém năng động, đội ngũ cán bộ đoàn thể vẫn chưa khắc phục được tình trạng "công chức hóa". Nghiêm trọng hơn là một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính trị thoái hóa về phẩm chất đạo đức cách mạng; một bộ phận đuối về năng lực, trong khi cả thời cơ lẫn thách thức lớn đang đặt ra trước hệ thống chính trị nước ta những vấn đề cấp bách cần giải quyết. Những yếu kém trên đây đã dẫn tới tình trạng quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm nghiêm trọng. Chỉ bằng cách tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị mới có thể nâng cao quyền làm chủ của nhân dân, với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình đổi mới theo định hướng XHCN. Xuất phát từ lý do trên, tiểu luận đi sâu tìm hiểu vấn đề quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay. I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN LỰC, QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ, HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ 1.1. Quyền lực và quyền lực chính trị 1.1.1. Quyền lực Quyền lực có trong nhiều quan hệ của tự nhiên và xã hội. Nhưng nhận thức về nó như một vấn đề thực tế lại chỉ được đặt ra trong chính trị học. Trong lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại, ngay từ thời cổ đại, ở cả phương Đông và phương Tây, "quyền lực" đã được lưu ý đề cập. Trong tác phẩm "Chính trị Aten", Aristốt đã nghiên cứu vấn đề quyền lực và xem xét những đặc điểm của nó. Theo ông, quyền lực không chỉ là cái vốn có của mọi sự vật biết cảm giác mà của cả tự nhiên và giới vô cơ. Thời kỳ Trung cổ, các nhà thần học đưa "quyền lực thượng đế" lên vị trí hàng đầu. Họ xem loài người chỉ là cái phát sinh từ quyền lực thượng đế. Song bên trong cái vỏ thần thánh đó, Ô guýt xtanh khẳng định: Con người chỉ cần một xã hội, mà xã hội thì cần một quyền uy. Thời Phục hưng và khai sáng, các nhà không tưởng và các nhà Bách khoa toàn thư chủ trương đánh đổ quyền lực phong kiến để xác lập quyền tư sản, nhưng chỉ nhấn mạnh Nhà nước là "Vương quốc của lý trí". Thời hiện đại, nhà chính trị học Mỹ K.Đan tra cho rằng: Quyền lực là buộc người khác phải phục tùng. Bertrand Russell trong tác phẩm "Quyền lực" nổi tiếng của mình rút ra nhận xét: Lòng đam mê quyền lực và danh vọng là những ước muốn vô hạn của chính con người. Như vậy, ý thức về vai trò, chức năng quyết định của quyền lực là điều đã được suy ngẫm và nêu lên trong suốt chiều dài tư tưởng chính trị nhân loại. Nhưng để trả lời được câu hỏi quyền lực là gì lại là vấn đề không giản đơn. Ở Việt Nam gần đây, cùng với sự ra đời của môn chính trị học, phạm trù quyền lực, quyền lực chính trị đã được đặt ra và có những lý giải bước đầu. Với ý nghĩa chung nhất, quyền lực là cái mà nhờ đó người khác phải phục tùng. Trong ý nghĩa như vậy, quyền lực ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của con người. Bởi vì, hoạt động phối hợp, hoạt động chung mang tính cộng đồng là cái vốn có trong hoạt động của con người. Bất kỳ hoạt động chung nào cũng cần có người tổ chức, người chỉ huy và kẻ phục tùng - Cái vốn tạo thành nội dung sơ khai cũng như nội dung hiện đại của phạm trù quyền lực. 1.1.2. Quyền lực chính trị Trong xã hội, có vô vàn quyền lực khác nhau, trong đó quyền lực chính trị chỉ ra đời khi xã hội xuất hiện giai cấp và nhà nước. Xã hội ngày càng phát triển, quyền lực chính trị ngày càng phong phú, phức tạp và tác động sâu sắc đến đời sống của mỗi con người và cộng đồng người. Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay của liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội (hoặc của nhân dân - trong điều kiện CNXH), nó nói lên khả năng của một giai cấp thực hiện lợi ích của mình. Mác - Ăngghen đã chỉ ra rằng: "Quyền lực chính trị theo nguyên nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác"(1) Mác - Ăngghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 628. . Là một bộ phận quyền lực trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị bao giờ cũng mang tính giai cấp. Nó luôn mang tính thống nhất về cơ bản trong sự biểu hiện ra bên ngoài của mình: Trong quan hệ nội bộ của giai cấp hay liên minh giai cấp, quyền lực chính trị có thể chứa đựng những mâu thuẫn, thậm chí cả những đối kháng. Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà nước. Do vậy xét về bản chất, quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị. Nó được thực hiện bằng cả một hệ thống chuyên chính do giai cấp đó lập ra. Cho nên quyền lực nhà nước được thực hiện bằng nhiều công cụ khác nhau. Là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị, sự thay đổi căn bản của quyền lực Nhà nước bằng việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp này sang giai cấp khác sẽ trực tiếp dẫn tới thay đổi căn bản tính chất chế độ chính trị. Bất kỳ quyền lực nhà nước nào cũng mang tính chính trị, nhưng không phải mọi quyền lực chính trị đều mang tính nhà nước. So với quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị rộng hơn về dung lượng, đa dạng hơn về phương pháp và hình thức biểu hiện. Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta và phù hợp với yêu cầu cơ bản của nền dân chủ XHCN: "Mọi quyền lực thuộc về nhân dân", Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua và Hiến pháp 1992 đã khẳng định sự thống nhất của quyền lực nhà nước đối với sự phân công và phối hợp chặt chẽ các cơ quan nhà nước khác nhau để thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 1.2. Hệ thống chính trị, hệ thống chính trị XHCN Trước đây, trong các tác phẩm của mình, Mác - Ăngghen - Lênin không dùng khái niệm hệ thống chính trị. Các ông có nhiều cách nói như: hình thức chính trị, thiết chế chính trị, thể chế chính trị và xã hội, cơ cấu chính trị... Theo các tác giả đề tài KX.05-01, có thể xem khái niệm cơ cấu chính trị mà các ông dùng tương đương với khái niệm hệ thống chính trị mà chúng ta sử dụng ngày nay. Ở Việt Nam, lần đầu tiên, khái niệm hệ thống chính trị được sử dụng trong Văn kiện Hội nghị Trung ương 7, khóa VI (1990), tiếp đó là Văn kiện Đại hội Đảng khóa VII. Đến nay khái niệm này đang được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên hiện nay, có một số quan niệm khác nhau về "hệ thống chính trị". Quan niệm thứ nhất: Xem hệ thống chính trị chỉ bao gồm những tổ chức chính trị - xã hội mang bản chất của giai cấp cầm quyền, hoặc là phục vụ cho quyền lực chính trị của giai cấp đó. Với cách hiểu như vậy, "hệ thống chính trị" chỉ là cách gọi khác của phạm trù "hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền". Đó là những phạm trù đồng nhất - xét về ngoại diên và nội hàm của chúng. Hệ thống chính trị trong CNTB chính là hệ thống chuyên chính tư sản. Hệ thống chính trị trong CNXH là hệ thống chuyên chính vô sản. Quan niệm thứ hai: Xem hệ thống chính trị là một phạm trù có ngoại diên rộng hơn so với phạm trù hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền. Trong hệ thống chính trị, ngoài hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền với tư cách là bộ phận cơ bản, quan trọng nhất, quy định bản chất và chức năng cơ bản của toàn bộ hệ thống, còn có các tổ chức, các thiết chế chính trị hợp pháp khác. Phù hợp với quan điểm này, hệ thống chính trị được hiểu là một phạm trù dùng để chỉ một chỉnh thể bao gồm nhà nước, các đảng phái chính trị hợp pháp, những ưu thế cơ bản và vai trò chủ đạo thuộc về các thiết chế của giai cấp cầm quyền để tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời. Như vậy, ta có thể hiểu: - Hệ thống chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế hợp pháp, có mục đích và chức năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị. - Hệ thống chính trị XHCN là một chỉnh thể bao gồm Nhà nước chuyên chính vô sản, Đảng cộng sản cùng các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân. - Hệ thống chính trị Việt Nam được xác định bao gồm: Nhà nước Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng là Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân... Hiệu quả của việc thực hiện quyền lực của nhân dân phụ thuộc vào sự hoàn thiện của các nhân tố nêu trên, phụ thuộc vào tính đúng đắn trong mối quan hệ qua lai giữa các nhân tố đó. Bởi vậy, trong các Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX đã khẳng định sự cần thiết phải đổi mới hệ thống chính trị như là một trong những điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. II. QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 2.1. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH là gì? Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân dân là cội nguồn của quyền lực chính trị. Tuy nhiên trên thực tế, để quyền lực ấy thuộc về nhân dân lao động, phải trải qua một quá trình lâu dài, gian khổ. Lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã có quan niệm đúng đắn về nhân dân: Quần chúng nhân dân là số đông bị trị so với thiểu số là giai cấp thống trị. Tất cả các giai cấp thống trị trước đây đều là những nhóm thiểu số nhỏ bé so với quần chúng nhân dân bị thống trị. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra vai trò to lớn của quần chúng nhân dân: Họ là người sản xuất ra của cải vật chất, sáng tạo ra những giá trị tinh thần, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Xuất phát từ lý luận trên, tổng kết kinh nghiệm cách mạng nước ta, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ: "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc". "Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng"(1) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 29. . Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, quyền lực chính trị của nhân dân lao động là khả năng nhân dân lao động nhằm thực hiện lợi ích khách quan của mình, đồng thời đem lại lợi ích cần thiết cho các giai cấp và tầng lớp khác. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động là một dạng quyền lực đặc biệt chỉ được xác lập trong CNXH, khẳng định vai trò quyết định của nhân dân lao động trong quản lý xã hội, khẳng định nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước và tất cả các quyền lực khác thuộc về nhân dân. Nhân dân là người tổ chức và trực tiếp quản lý nhà nước. Nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực, cũng có nghĩa nhân dân là người thực hiện quyền lực. Nhưng trên thực tế, quyền lực chính trị của nhân dân lao động rất rộng, nên chính bản thân họ không thể thường xuyên và trực tiếp thực hiện quyền lực của mình. Do vậy quyền lực chính trị của nhân dân lao động phải có hình thức thực hiện đa dạng, thích hợp, phải có những cơ quan nhất định hoạt động thường xuyên, đại diện để nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền lực của mình. 2.2. Nội dung quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta Ở nước ta hiện nay, quyền lực chính trị của nhân dân cũng phải từng bước được xác lập trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền lực chính trị của nhân dân trên lĩnh vực chính trị trước hết là quyền có được một nhà nước thực sự dân chủ. Nhà nước đó do nhân dân bầu ra qua phổ thông đầu phiếu và phiếu kín. Nhà nước đó phải thực sự là công cụ để thực thi những quyền lực chính đáng của nhân dân. Nhà nước đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp và thông qua các tổ chức đại diện của nhân dân. Nhân dân có quyền tín nhiệm hay không tín nhiệm với một bộ phận cơ quan nhà nước. Quyền của nhân dân trên lĩnh vực chính trị còn là việc mở rộng phạm vi của người dân tham gia vào công việc Nhà nước. Nhân dân có quyền được thảo luận mọi vấn đề lớn nhỏ có liên quan trực tiếp tới lợi ích chính đáng của mình. Với ý nghĩa đó, quyền của người dân không chỉ được thực hiện thông qua thiết chế đại diện, nó còn được thực hiện qua thiết chế dân chủ trực tiếp, mà xu hướng chung, dân chủ trực tiếp sẽ ngày càng tăng. Đó là mức độ biểu hiện trình độ nâng cao trong việc nhân dân thực thi quyền lực chính trị của mình. Quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực chính trị còn có nghĩa trong giới hạn của chế độ nhất nguyên về chính trị, bảo đảm giữ vững định hướng XHCN, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, bảo đảm cho mọi người dân quyền tự do suy nghĩ, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ pháp luật. Đó còn là quyền giám sát các hoạt động của Nhà nước và hệ thống chính trị. Quyền lực chính trị của nhân dân trên lĩnh vực kinh tế đòi hỏi: Một là, phải hoàn thiện thể chế kinh tế, đặt nền kinh tế dưới sự kiểm soát của nhân dân, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân. Hai là, hình thành cơ chế kinh tế sao cho mọi người lao động đều được tham gia vào sở hữu, quản lý dưới nhiều hình thức khác nhau. Ba là, kết hợp kế hoạch nghiêm ngặt của Nhà nước với việc phát huy sáng kiến của doanh nghiệp, của người lao động. Bốn là, thị trường phải là nơi cạnh tranh trên nguyên tắc giá trị, trên cơ sở chất lượng để đảm bảo lợi ích người tiêu dùng. Quyền lực chính trị trên lĩnh vực xã hội: Thể hiện ở việc bảo đảm quyền công dân, quyền con người, quyền được bảo vệ về mặt xã hội của công dân, khắc phục dần sự khác biệt giữa các tầng lớp xã hội, giữa các vùng đất nước; từng bước giải phóng con người khỏi những quan hệ phi nhân tính. Quyền lực chính trị của nhân dân trên lĩnh vực tinh thần: Đòi hỏi sự đa dạng hóa về ý kiến, về thế giới quan trong xã hội - Trên cơ sở giữ vững định hướng XHCN, bảo đảm thế giới quan Mác - Lênin giữ vai trò chủ đạo. Tùy theo những bước tiến đạt được trong quá trình đổi mới, nội dung và mức độ quyền lực chính trị của nhân dân không ngừng được mở rộng và ngày càng sâu sắc. Quyền lực chính trị tự nó chỉ là một khả năng. Muốn có hiệu lực trên thực tế phải qua bộ máy vận hành, hệ thống thiết chế, các mối quan hệ, các nguyên tắc thể chế, các điều kiện... Gọi chung là cơ chế thực thi. 2.3. Hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta Do điều kiện lịch sử ra đời và tồn tại phát triển của mình, hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có một số đặc điểm chi phối vai trò của hệ thống đó. Cụ thể là: - Hệ thống chính trị ấy lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. - Nhất nguyên về chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Được tổ chức vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ. - Bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính dân tộc, tính nhân dân rộng rãi. Với tư cách là cơ chế bảo đảm quyền lực của nhân dân nói chung, là cơ chế thực thi quyền lực chính trị của nhân dân nói riêng, hệ thống chính trị nước ta hiện nay vận hành theo nguyên tắc: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ". 2.3.1. Đảng lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng nước ta. Từ ngày có chính quyền, Đảng mặc nhiên là lực lượng lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội, Đảng phải chịu trách nhiệm toàn diện và cao nhất trước nhân dân về cả sự phát triển xã hội, quyền và đời sống của nhân dân, năng lực phẩm chất của bộ máy nhà nước. Như vậy, một mặt Đảng phải lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp đối với nhà nước và cả hệ thống chính trị; mặt khác Đảng bằng mọi cách phát huy cao nhất vai trò của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Hai mặt đó thống nhất, ràng buộc và không mâu thuẫn nhau. Để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của mình nhằm phát huy mạnh mẽ quyền lực chính trị của nhân dân, Đảng ta ý thức rõ rằng trước hết phải tự đổi mới về cả nội dung lãnh đạo, cả về công tác cán bộ, cả về tổ chức, phương thức hoạt động, phong cách lãnh đạo. Để giữ vững nguyên tắc: toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, Đảng ta ý thức rõ rằng phải giữ vững định hướng XHCN, xem đó là trọng tâm trong công tác lãnh đạo của Đảng. Muốn giữ định hướng XHCN, trước hết cần có đường lối đúng. Sau khi đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước tại Đại hội VI của mình, Đảng ta đã kịp thời sửa soạn và thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH" và "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000". Tiếp đó, các đại hội VII, VIII, IX đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... Đó là những định hướng lớn về chính trị cho việc xây dựng, hoạch định chủ trương chính sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở những định hướng lớn Đảng đã đề ra những chủ trương cụ thể, chỉ rõ hướng đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng còn kịp thời để ra những nghị quyết, những chính sách... để giải quyết những khâu quan trọng của từng lĩnh vực như: Các nghị quyết về phát triển nông nghiệp, công nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; các nghị quyết về văn hóa - giáo dục, về an ninh - quốc phòng, về "chống diễn biến hòa bình". Đặc biệt, Đảng đã ra những nghị quyết, chủ trương tăng cường đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; định hướng việc xây dựng và hoạt động của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân như: Nghị quyết 8B (khóa VI) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; Nghị quyết Trung ương ba khóa VII về đổi mới chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Trung ương tám khóa VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước; Nghị quyết Trung ương ba khóa VIII về xây dựng bộ máy nhà nước và công tác cán bộ... Trên cơ sở những định hướng chính trị đúng đắn, Đảng ta đã có những chủ trương, biện pháp giải quyết khéo léo các vụ tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải với Trung Quốc; từng bước bình thường hóa quan hệ với Mỹ, mở rộng quan hệ đối ngoại, giải quyết êm thấm những vụ việc phức tạp về chính trị... tạo điều kiện thuận lợi đưa công cuộc đổi mới tiến lên vững chắc. Qua đó cho thấy mặc dù những năm gần đây, trong hoàn cảnh quốc tế và trong nước rất phức tạp, Đảng ta vẫn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng; giữ vững bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo; kiên định mục tiêu, con đường XHCN đã lựa chọn. Đảng đã phê phán kịp thời những luận điệu gieo rắc hoài nghi về con đường đi lên CNXH, ngăn chặn những luận điệu đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Để việc lãnh đạo của Đảng có tác động tích cực tới việc phát huy quyền lực chính trị của nhân dân, trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã coi trọng việc kiện toàn đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Đảng cũng đã đề ra các biện pháp để cán bộ của hệ thống chính trị thực sự là chỗ dựa tin cậy của Đảng; là người đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào quần chúng; là người trực tiếp uốn nắn những lệch lạc của quần chúng, của các cơ quan nhà nước, đoàn thể; định hướng mọi hoạt động của quần chúng theo đường lối, quan điểm của Đảng. Qua thực tiễn, Đảng đã có biện pháp khắc phục từng bước sự lẫn lộn chức năng nhiệm vụ giữa người đứng đầu tổ chức Đảng và người đứng đầu cơ quan nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội của nhân dân. Những nỗ lực toàn diện đó đã góp phần hình thành đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị có: "- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân lựa chọn; năng động sáng tạo, hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. - Trình độ kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội ngày càng được nâng cao. - Số đông cán bộ giữ được đạo đức, phẩm chất cách mạng, lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân"(1) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1996, tr. 67. . Để nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân, Đảng tăng cường công tác giáo dục, thuyết phục và chú ý phát huy vai trò gương mẫu của Đảng viên trong việc thực hiện quyền lực đó của nhân dân. Trên cơ sở nhận thức rằng năng lực thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân ngay trong chủ thể của quyền lực đó không tự nhiên mà có (về cơ bản, nó được hình thành qua công tác giáo dục chính trị tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng), thời gian qua, thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, những cuộc trao đổi thảo luận tập thể, dân chủ, thẳng thắn, những cuộc tiếp xúc giữa đảng viên với quần chúng... mà nhận thức của quần chúng về vấn đề này ngày càng được sáng tỏ. Nhờ vậy, quần chúng đã đóng góp cho Đảng và Nhà nước nhiều ý kiến quý báu góp phần làm cho chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ngày càng hoàn thiện. Đối với một số người có ý kiến trái với quan điểm của Đảng, có xu hướng đi ngược lại quyền lực chính trị của nhân dân, các tổ chức Đảng đã phát hiện kịp thời, bình tĩnh, kiên trì thuyết phục và cảm hóa họ. Đối với những người có luận điệu xuyên tạc, bôi đen chế độ, truyền bá quan điểm sai trái, các tổ chức Đảng đấu tranh kiên quyết và khi cần, xử lý kỷ luật thích đáng. Chính bằng cách đó, quyền lực chính trị của nhân dân mới được giữ vững và củng cố. Để phát huy quyền lực chính trị của nhân dân trong việc tham gia xây dựng nhà nước, Đảng còn có chủ trương thu hút nhân dân tham gia vào công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hội nghị Trung ương ba khóa VIII đã chỉ ra: phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và các bộ công chức nhà nước. 2.3.2. Nhà nước quản lý Trong điều kiện đổi mới toàn diện hiện nay, chức năng quản lý của nhà nước có thể khái quát như sau: - Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể. - Xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và cụ thể hóa chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. - Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội, xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng. - Xây dựng và phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm và tạo điều kiện thuận lợi cho công dân tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội, bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân theo luật định; nghiêm trị những hành vi tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của công dân. Như vậy thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động thông qua nhà nước là khâu hết sức quan trọng. Xét đến cùng, quyền lực chính trị của nhân dân lao động nước ta được hợp pháp hóa bằng nhà nước, và nhà nước là công cụ hữu hiệu để thực hiện quyền lực của nhân dân. Với đặc điểm về cơ cấu tổ chức, nhà nước có tác động rất lớn trên mọi phạm vi của đời sống xã hội và các chủ thể quản lý. Nhà nước có sức mạnh tổ chức vật chất, sức mạnh cưỡng chế, có đầy đủ phương tiện vật chất cần thiết để bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân. Do đó, phát huy đến mức cao nhất tác dụng của cơ chế tổ chức và phương pháp, biện pháp tác động riêng của Nhà nước, chủ yếu thông qua cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) do dân bầu ra là vấn đề cơ bản bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân. Nhà nước ta là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân. Trong nhà nước đó, nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực. Các quyền mà nhà nước có được đều do dân ủy quyền. Song do "bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng"(1) Văn kiện Hội nghị TW - khoá VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1997 tr 38. , nên trong một số trường hợp đã diễn ra tình trạng dân ủy quyền rồi mất quyền. Từ chỗ bộ máy nhà nước là công cụ của dân, viên chức là "công bộc", là "đầy tớ" của dân, thì ở nơi này hay nơi khác đã biến thành gánh nặng của dân, cán bộ nhà nước trở thành "ông quan" cách mạng nhũng nhiễu quần chúng. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động được thực hiện thông qua nhà nước, bằng nhà nước. Nhưng cũng chính nhà nước lại có những yếu tố có thể hạn chế quyền lực của nhân dân. Vì vậy, để quản lý nhà nước một cách có hiệu quả, trước hết phải có hình thức tô chức thích hợp với bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. 2.3.3. Nhân dân làm chủ Nhân dân làm chủ có nghĩa là nhân dân có điều kiện đảm bảo được tham gia vào các công việc quản lý nhà nước. Cụ thể là nhân dân làm chủ trên hai phương diện: Thứ nhất: Nhân dân có điều kiện tham gia vào lĩnh vực chính trị mà chủ yếu là tham gia vào các hoạt động của hệ thống chính trị. Thứ hai: Hệ thống chính trị phải thể hiện là tổ chức của dân do dân, vì dân. Bên cạnh đó, nhân dân còn làm chủ thông qua các tổ chức xã hội do mình lập ra. Thông qua các tổ chức chính trị xã hội, lợi ích chung của toàn xã hội, công đồng, cá nhân và tập thể được kết hợp hài hòa, làm tiền đề cho việc mở rộng khối đoàn kết dân tộc, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng thu hút ngày càng đông đảo nhân dân tham gia vào việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Có thể coi việc các tổ chức chính trị - xã hội tham gia quản lý nhà nước và xã hội đã làm đa dạng thêm các biện pháp thực hiện quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện cho họ làm quen với những sinh hoạt dân chủ nhằm phát huy cao độ sức sáng tạo, sức đoàn kết của cộng đồng. Nhìn chung, qua 15 năm đổi mới, bộ máy tổ chức và cán bộ của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể đã có nhiều đổi mới theo hướng gọn nhẹ, giảm bớt tầng nấc trung gian, giảm nhẹ biên chế, mở rộng đội ngũ kiêm chức và cộng tác viên, gắn với đoàn viên, hội viên, hướng về cơ sở. Do vậy, các tổ chức đó đã ngày càng có nhiều đóng góp quý giá vào việc phát huy quyền lực chính trị của nhân dân ở mọi ngành, mọi cấp. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng Mặt rận, các đoàn thể chính trị - xã hội của nhân dân còn không ít khuyết điểm. Tổ chức bộ máy của Mặt trận, của các đoàn thể vẫn còn cồng kềnh, một bộ phận vẫn nằm trong tình trạng "nhà nước hóa", "hành chính hóa" nên hiệu quả hoạt động chưa thật cao. Chính vì vậy, để đảm bảo cho "nhân dân làm chủ" nhất thiết phải tăng cường và đổi mới hệ thống chính trị. III. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM BẢO ĐẢM VÀ TĂNG CƯỜNG QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 3.1. Tiếp tục đổi mới, tăng cường hệ thống chính trị 3.1.1. Một số nguyên tắc cơ bản trong đổi mới hệ thống chính trị Đổi mới hệ thống chính trị là giải pháp có tác động trực tiếp tới việc nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay. Đó là quá trình phát huy kết quả, khắc phục nhược điểm, từng bước xác lập một tổng thể các quan hệ hợp lý giữa các yếu tố cấu thành hệ thóng chính trị nhằm thực hiện tốt hơn chức năng là cơ chế thực thi quyền làm chủ của nhân dân (trong đó có làm chủ về chính trị) Khi đổi mới hệ thống chính trị, cần quán triệt những nguyên tắc sau: - Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị - nguyên tắc quan trọng hàng đầu: Là kết quả hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, quyền lực chính trị của nhân dân chỉ có được với điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng Mác xít Lê nin nít. Bởi vì, nhờ nắm vững hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin và đưa nó vào quần chúng, đảng đó mang lại cho phong trào quần chúng tính tự giác cao trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN; thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của mình mà đảng góp phần quyết định nhất trong việc nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, trình độ văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật của nhân dân để họ có khả năng thực thi hữu hiệu những yêu cầu dân chủ, phản ánh đúng quy luật phát triển của xã hội. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả chống lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ để đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Với ý nghĩa như vậy, dân chủ XHCN và nhất nguyên về chính trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng không bài trừ nhau. Trái lại, chính trị sẽ tạo điều kiện cho dân chủ XHCN ra đời, quyền lực chính trị của nhân dân được củng cố và phát triển. - Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cần giữ vững ổn định chính trị để tăng trưởng kinh tế và bảo đảm định hướng XHCN của sự phát triển xã hội nói chung. Nghĩa là: + Không diễn ra những xáo trộn lớn trong đời sống chính trị + Hệ tư tưởng chính trị, định hướng chính trị trong sự phát triển của đất nước được đại đa số công nhân chấp nhận một cách tự nguyện và biến thành định hướng cơ bản trong việc thực hiện quyền lực chính trị của mọi cá nhân, tổ chức mà họ là thành viên. + Mọi cá nhân công dân và các tổ chức mà họ là thành viên có tính tích cực, chủ động trong việc thực hiện những định hướng chính trị chung của đất nước; sẵn sàng bảo vệ những định hướng đó trước sự vi phạm từ phía những thế lực khác. + Quan hệ qua lại giữa quyền lực chính trị của các gia cấp, các tầng lớp dân cư, giữa các vùng khác nhau của đất nước, giữa các dân tộc, tôn giáo có sự hài hòa trong tính đa dạng của nhu cầu và lợi ích theo một quan niệm nhất định được xã hội thừa nhận. Tổng hợp các yếu tố vừa nêu đó là một xã hội ổn định và trật tự. Bảo đảm ổn định về chính trị là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. - Đảm bảo nguyên tắc nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Chế độ XHCN là chế độ nhân dân lao động làm chủ nhà nước và xã hội, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân đã trở thành nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị. Trong điều kiện đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, nhân dân có quyền làm chủ nhà nước và xã hội thông qua dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Những hình thức dân chủ ấy được thể chế bằng luật pháp nhà nước và được thực thi bằng hệ thống chính trị, gọi là chế độ dân chủ. 3.1.2. Nội dung phương hướng đổi mới hệ thống chính trị nhằm mở rộng và phát huy quyền lực chính trị của nhân dân Để mở rộng và tăng cường khả năng thực thi quyền lực chính trị của nhân dân, việc đổi mới hệ thống chính trị được thực hiện đồng thời trên cả hai phương diện: đổi mới các yếu tố cấu thành; đổi mới các mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đo. * Trước hết là đổi mới các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị - Việc giữ vững và tăng cường quyền lực chính trị đòi hỏi phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói riêng, đối với toàn xã hội nói chung. Trong điều kiện nước ta hiện nay, cần "tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng"(1) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX. Nxb Chính trị quốc gia - Hà Nội 2001, Tr. 44. . Từ kinh nghiệm lịch sử cho thấy quyền lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và đối với toàn xã hội không tự nhiên mà có. Phải bằng sự tiên phong gương mẫu của Đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng trong sự nghiệp phấn đấu vì lợi ích của nhân dân mà Đảng được nhân dân tín nhiệm, giao phó quyền lãnh đạo. Muốn giữ vững được vai trò lãnh đạo chính trị, khâu then chốt là tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, chăm lo đời sống của người dân, thực sự phát huy quyền làm chủ của họ. Bên cạnh đó cần phải tiếp tục xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết trung ương VI (lần II) khóa VII về việc xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao phẩm chất năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, tổ chức Đảng. Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng củng cố các tổ chức cơ sở Đảng. - Việc tăng cường quyền lực chính trị của nhân dân cũng đòi hỏi nhà nước của chúng ta phải được xây dựng theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Muốn hoàn thành nhiệm vụ là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền lực (trong đó có quyền lực chính trị) của mình, Đảng ta cho rằng: nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phải được xây dựng theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền theo quan điểm chỉ đạo là: + Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của dân, do dân, vì dân; lấy liên minh công nông trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc và nhân dân. + Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phối hợp và phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. + Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; coi trọng tính tối cao của pháp luật, đồng thời coi trọng việc giáo dục đạo đức trong quản lý xã hội. Thể hiện và thực hiện đầy đủ những nội dung trên đây, nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân sẽ thực sự là thiết chế chính trị có vai trò tích cực trong quá trình thực thi quyền lực chính trị của nhân dân. Yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước và mở rộng quyền lực chính trị của nhân dân trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải xem cải cách một bước nền hành chính quốc gia là một nhiệm vụ trọng điểm. Trong cải cách nền hành chính nhà nước, phải tiến hành đồng bộ - từ cải cách thể chế hành chính đến cải cách tổ chức bộ máy và công tác cán bộ, công chức hành chính. Đề cập tới vấn đề này, Hội nghị lần thứ 3 BCH TW khóa VIII đã chỉ rõ: Một là, Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng; hai là, phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền; ba là, Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra; bốn là, Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực. - Để phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong việc bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân ở giai đoạn hiện nay, cùng với việc đổi mới Đảng và nhà nước như đã nêu trên, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác của nhân dân cũng được đổi mới theo phương hướng. + Đoàn kết tất cả mọi người thuộc các giai cấp các tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo, người Việt ở trong nước và nước ngoài tán thành mục tiêu "Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". + Có chủ trương chính sách pháp luật đúng đắn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm đáp ứng nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các giai tầng xã hội. + Mặt trận vận động, tổ chức nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền, thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc ngay trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Để Mặt trận có tác dụng tích cực nhằm thực hiện tốt việc bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố khối liên minh công - nông, trí thức, làm cho nó thực sự là nền tảng của Mặt trận. * Đổi mới quan hệ qua lại giữa các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước nói riêng và toàn bộ hệ thống chính trị nói chung là vấn đề có tính nguyên tắc để giữ vững bản chất XHCN của hệ thống đó. Song lãnh đạo không có nghĩa là làm thay. Cho nên trong khi giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của mình, tổ chức đảng các cấp đồng thời phát huy vai trò của nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội theo chức năng của từng tổ chức đó. Để phát huy quyền lực chính trị của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Song bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng không có nghĩa là đẩy các tổ chức này vào thế bị động. Trái lại, việc phát huy quyền lực chính trị của nhân dân thông qua tổ chức đại diện này cũng đòi hỏi thấy rõ tác động tích cực trở lại của tổ chức đó đối với việc củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong việc đổi mới mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, điều quan trọng hiện nay là thể chế hóa đầy đủ hơn nữa chức năng của các tổ chức đó và các cơ quan nhà nước có trách nhiệm để những điều đã thể chế hóa được thực thi có hiệu quả. Mặt khác, nhanh chóng khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Về lâu dài, cần ban hành luật về tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức đối với Đảng và quần chúng ở các cấp. Đó là cơ sở pháp lý về quyền và nhiệm vụ của các tổ chức chính trị xã hội trong việc sử dụng sức mạnh của nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích khách quan của mình và của hội viên. Từ đó, các tổ chức này trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân, phát triển nền dân chủ XHCN. Tóm lại: Để phát triển, hoàn thiện nền dân chủ XHCN, các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị phải vừa xác định đúng vị trí, chức năng nhiệm vụ của mình, vừa thường xuyên đổi mới mối quan hệ qua lại giữa các tổ chức cấu thành hệ thống chính trị, gắn liền với đổi mới kinh tế, xã hội. Chỉ trên cơ sở đó, hệ thống chính trị mới vận hành thông suốt, có hiệu lực, nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân. 3.2. Hoàn thiện và phát huy dân chủ XHCN Dân chủ có nghĩa là: Dân là chủ, dân làm chủ mọi quyền lực xã hội Dân chủ được thực hiện dưới hai hình thức cơ bản là: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân mà nhân dân trực tiếp bày tỏ chính kiến của mình, trực tiếp tham gia quyết định những vấn đề chung của cộng đồng xã hội. Dân chủ đại diện là nhân dân thông qua các đại biểu của mình để bày tỏ chính kiến, để tham gia quyết định những vấn đề chung của cộng đồng xã hội. Ở nước ta, trong 15 năm đổi mới, quá trình dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Bầu không khí dân chủ đã bước đầu được khởi sắc. Tuy nhiên xét về nhiều mặt, nền dân chủ XHCN ở nước ta vẫn còn trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm. Trong thực tế quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm, thậm chí bị vi phạm nghiêm trọng, kéo dài và chậm được khắc phục; các hiện tượng mất dân chủ, vi phạm pháp luật diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN là một trong những giải pháp thiết thực nhằm đảm bảo và tăng cường quyền lực của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay. Phương hướng để hoàn thiện dân chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực của nhân dân là: Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan đại diện trên các mặt chủ yếu. - Xây dựng cơ chế tuyển chọn và bãi miễn đại biểu. - Đổi mới phương pháp hoạt động của cơ quan đại diện qua các phương pháp: Công khai chất vấn; đối thoại; kịp thời giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân. Như vậy: trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, để phát triển và hoàn thiện dân chủ XHCN không thể không gắn với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. 3.3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị của nhân dân Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, do kinh tế quy định. Điều này có nghĩa xác lập quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực kinh tế (quyền lực kinh tế) là cốt vật chất để phát huy quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực chính trị (quyền lực chính trị). Trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay, vấn đề này được thực hiện thông qua việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trong thời gian trước mắt, để giải quyết mối quan hệ này, cần phải sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp luật điều chỉnh các mảng quan hệ xã hội sau: - Về quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Sở hữu đố với tư liệu sản xuất là tiền đề của quyền lực kinh tế, làm cho quyền lực kinh tế đóng vai trò là cơ sở vật chất của quyền lực chính trị của nhân dân. Từ cách hiểu như vậy, trong hệ thống các văn bản pháp luật về sở hữu cần quán triệt nguyên tắc: mọi hình thức sở hữu cần được bảo vệ, không cho phép các cơ quan quản lý nhà nước dùng biện pháp hành chính làm cản trở quyền sở hữu. Trong trường hợp đặc biệt cần sự can thiệp của nhà nước thì điều đó phải được quy định rõ trong luật; quy định rõ hệ thống chế tài bảo vệ quyền sở hữu; đối xử bình đẳng với các hình thức sở hữu... Có như vậy mới tạo ra môi trường pháp lý cho sự tồn tại của các hình thức sở hữu. Đó cũng chính là tiền đề kinh tế bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân. - Về hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao động. Nguyên tắc cơ bản của quan hệ hợp đồng là tự nguyện, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi. Với nguyên tắc đó, bản hợp đồng giải quyết mối quan hệ quyền lực của nhân dân ở hình thức phi nhà nước, trên cơ sở đó các chủ thể trao đổi sản phẩm hàng hóa (trong đó có sức lao động). Quyền lợi mà mỗi bên đạt được trong hợp đồng là động lực trực tiếp thôi thúc các bên thực hiện hợp đồng. Vì vậy cần bô sung, ban hành văn bản luật về hệ thống hợp đồng nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị. - Thiết lập một hệ thống cơ quan tư pháp với những thủ tục pháp lý đầy đủ, dân chủ và tiến bộ để giải quyết những tranh chấp xảy ra trong hoạt động kinh doanh; Xây dựng một hệ thống pháp luật bảo vệ mặt xã hội cho con người. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị của nhân dân là nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Do vậy cần ban hành một hệ thống văn bản pháp luật giải quyết một cách hài hòa giữ lợi ích kinh tế và xã hội, chống sự bóc lột, bảo đảm mức sống tối thiểu... Đồng thời, bằng pháp luật bảo đảm cho các tổ chức chính trị xã hội, nghề nghiệp, có đủ sức mạnh bảo vệ lợi ích của người lao động. Có như vậy, quyền lực chính trị mới được bảo đảm bởi quyền lực kinh tế, tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường nước ta mới được giữ vững. 3.4. Giáo dục văn hóa pháp luật cho nhân dân Đây là giải pháp có tác động trực tiếp tới việc nâng cao khả năng của nhân dân trong việc tự mình thực thi có hiệu quả nội dung quyền lực chính trị của nhân dân. Nói đến văn hóa pháp luật là nói đến khả năng, năng lực của con người trong việc nhận thức, vận dụng những quy định pháp luật ở trình độ nhuần nhuyễn, biến thành thói quen trong việc xử lý mối quan hệ pháp lý giữa người với người, giữa công dân với nhà nước và trình độ cao trong sự thể hiện tính người của những giá trị pháp luật do xã hội đó đưa ra cũng tính tinh tế của phương thức thực hiện những quy định pháp luật đó. Trình độ văn hóa pháp luật trong một xã hội biểu hiện sự quan tâm của công dân tới pháp luật; trình độ thông tin về pháp luật; ở sự cần thiết của việc công dân tuân thủ pháp luật; ở trình độ nắm vững tri thức pháp luật; ở trình độ tham gia của công dân vào việc bảo vệ pháp luật tiến bộ. Sự hình thành và hoàn thiện của mỗi công dân ở các nhân tố nêu trên sẽ làm cho họ ý thức rõ vị thế pháp lý của mình, quyền và nghĩa vụ công dân trong quan hệ giữa nhà nước và chế độ chính trị nói chung... Nhờ vậy, họ phân biệt rõ đâu là những yêu cầu chính đáng về quyền lực chính trị; đâu là phương thức có hiệu quả nhất để thực hiện yêu cầu đó. Quyền lực chính trị của họ sẽ được mở rộng, khả năng tự mình thực hiện có hiệu quả những quyền lực chính trị đã được pháp luật ghi nhận sẽ không ngừng tăng lên. Để đóng góp tích cực vào việc phát triển văn hóa pháp luật trong nhân dân, việc giáo dục văn hóa pháp luật cần hướng đến mục tiêu. - Cung cấp, bồi dưỡng và nâng cao tri thức pháp luật. - Hình thành niềm tin vào pháp luật - Hình thành thói quen vững chắc xử sự theo đòi hỏi của pháp luật. Để hình thành văn hóa pháp luật trong nhân dân, cần có những giải pháp cơ bản sau đây: - Thu hút rộng rãi nhân dân vào các hoạt động xây dựng pháp luật. Việc thu hút nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật có tác dụng biến ý thức pháp luật, năng lực pháp luật cũng như khả năng giúp người khác tuân theo pháp luật được thấm sâu vào từng con người, khiến cho việc sống và làm việc theo pháp luật trở thành phong tục, tập quán, thói quen. - Tuyên truyền giải thích pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. - Dạy và học pháp luật trong các trường học là hình thức và phương tiện quan trọng trong việc giáo dục văn hóa pháp luật. Tóm lại: Chúng ta bỏ qua chế độ TBCN để tiến lên CHXH cũng có nghĩa là bỏ qua ý thức pháp luật tư sản. Cho nên việc hình thành văn hóa pháp luật XHCN trong nhân dân chắc chắn là một quá trình lâu dài. Do vậy, việc giáo dục văn hóa pháp luật cần được các ngành, các cấp coi trọng. KẾT LUẬN Từ những nội dung đã trình bày, cho thấy: Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trước hết là quyền có một nhà nước bảo đảm cho nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực chính trị nhằm thực hiện lợi ích khách quan của mình, đồng thời, nó cũng được xem như là một giá trị xã hội mang tính chất nhân văn; nó là thành quả đấu tranh của con người cho sự hoàn thiện của chính bản thân và cho sự tiến bộ xã hội. Để quyền lực chính trị trở thành hiện thực, cần có cơ chế thực thi. Cơ chế này bao gồm những nguyên tắc, phương thức tổ chức biện pháp quản lý và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội nhằm bảo đảm trình tự, mối liên hệ và cách thiết lập mối liên hệ giữa các tổ chức đó trong quá trình đưa các giá trị quyền lực chính trị của nhân dân vào cuộc sống theo quan điểm của chủ thể cầm quyền. Ở nước ta, hệ thống chính trị tồn tại với tư cách là cơ chế thực thi quyền lực chính trị của nhân dân. Từ thực tiễn thực thi quyền lực chính trị của nhân dân sau những năm đổi mới cho thấy: nhờ đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị mà hiệu quả hiện thực hóa các giá trị quyền lực chính trị của nhân dân ngày càng được nâng cao. Hiệu quả đó đã trở thành động lực tích cực trong đổi mới kinh tế, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội theo định hướng XHCN. Bên cạnh đó, những thiếu sót do chậm đổi mới cả hệ thống cũng như từng bộ phận hợp thành hệ thống chính trị đã và đang tác động tiêu cực đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, trực tiếp là việc thực thi quyền lực chính trị của nhân dân ở hình thức nhà nước. Tình trạng quan liêu, mệnh lệnh trong hệ thống chính trị, sự tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ các cấp chưa được ngăn chặn kịp thời... đang trở thành lực cản việc thực thi quyền lực chính trị của nhân dân. Hiệu quả thấp kém nêu trên trong quá trình thực thi quyền lực của nhân dân là do những hạn chế, thiếu sót về kinh nghiệm và lý luận trong tổ chức lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị; trình độ văn hóa pháp luật của nhân dân và của cán bộ trong hệ thống chính trị còn thấp. Do vậy, đổi mới hệ thống chính trị, từng bước hoàn thiện dân chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực tiếp; giáo dục văn hóa pháp luật cho nhân dân; giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị là những giải pháp cơ bản có tính chỉnh thể nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO AlvinToffler, Thăng trầm quyền lực, Nxb Thông tin lý luận, Ban khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh, 1992. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Chính trị - Những quan điểm cơ bản, Viện khoa học Chính trị - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí minh, 1998. Đổi mới, tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Mác - Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Lê Hữu Nghĩa (chủ biên), 55 năm xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Nguyễn Văn Niên, Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Nguyễn Trọng Phúc, Một số kinh nghiệm của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 Bertrad Russell, Quyền lực, Nxb Hiện đại, Sài Gòn, 1972. Tạp chí Cộng sản, tháng 3/1995. Tập bài giảng Chính trị học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Thông tin chính trị học, số 1/2001. Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva - Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986. Đào Trí Úc, Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới. Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội, 1997. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60.doc
Tài liệu liên quan