PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY VỀ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM THỂ HIỆN QUA VIỆC THAM GIA VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ TRONG CÁC TỔ CHỨC KHU VỰC, QUỐC TẾ 3
1.1. Sơ lược về sự đổi mới tư duy quan hệ đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975 – 1986 3
1.1.1. Hoàn cảnh trong nước và quốc tế 3
1.1.2. Chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước 4
1.1.3. Kết quả việc thực hiện đường lối đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1975 - 1986 5
1.2. Sự đổi mới tư duy quan hệ đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay 7
1.2.1. Tình hình trong nước và thế giới 7
1.2.2. Sự đổi mới tư duy qua đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước 8
1.3. Kết quả đối ngoại thể hiện qua việc Việt Nam tham gia và phát huy vai trò trong các tổ chức khu vực và quốc tế 10
1.3.1. Vị trí, vai trò của Việt Nam trong tổ chức ASIAN 10
1.3.2. Vị trí, vai trò của Việt Nam trong Hội nghị Á – Âu (ASEM) 11
1.3.3. Vị trí, vai trò của Việt Nam trong diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) 13
1.3.4. Vị trí và vai trò của Việt Nam trong Liên hợp quốc 14
Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI CỦA LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN 17
2.1. Phương châm mở rộng quan hệ đối ngoại trong công tác của LựC lực lượng Công an nhân dân 17
2.2. Kết quả công tác đối ngoại của lực lượng Công an nhân dân 19
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại của lực lượng Công an nhân dân 21
KẾT LUẬN 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4783 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự đổi mới tư duy về quan hệ đối ngoại của Việt Nam thể hiện qua việc tham gia và phát huy vai trò trong các tổ chức khu vực, quốc tế và thực tiễn công tác đối ngoại của ngành Công an, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, quan hệ quốc tế với xu thế tất yếu của mình là sự hội nhập, sự hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi giữa các quốc gia. Với phương châm “Việt nam sẳn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển”., Việt Nam luôn mở cửa, sẵn sàng giao lưu, mở rộng vòng tay đón bạn bè xa gần, tăng cường đối thoại và hợp tác quốc tế trên cơ sở bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau.
Với tinh thần đó, sau hơn hai thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã chủ động tham gia vào nhiều lĩnh vực hợp tác trong quan hệ song phương, đa phương và đạt được nhiều kết quả tích cực. Thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế về tình hình chính trị - xã hội ổn định, sự hợp tác liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục được tạo điều kiện để ta phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên chúng ta cũng đối mặt với nhiều thách thức: tục hậu về kinh tế; chệch hướng XHCN; tham nhũng quan liêu; diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Việt Nam vẫn tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế.
Trong những năm qua Việt Nam chủ động đàm phán và ký kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn khổ quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện cho thế kỷ 21. Nhiều hiệp định thỏa thuận quan trọng đã được ký kết như: Hiệp định thương mại song phương Việt Na – Hoa kỳ, Hiệp định về biên giới trên bộ, hiệp định về phân định vịnh bắc bộ và hiệp định nghề cá với Trung Quốc, hiệp định về phân định thềm lục địa với Inđônêxia… đến nay Việt nam đã là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới, đã hoạt động tích cựuc với vai trò ngày càng tăng tại LHQ (Ủy viên ECOSOC, ủy viên hội đồng chấp hànhUNDP, UPU…). Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả ở các tổ chức khu vực như ASEAN, diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), diễn đàn Á-ÂU (ASEM) và đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO, là thành viên thứ 150). Hiện nay một số nước đang bày tỏa sự ủng hộ Việt Nam vào chiếc ghế không thường trực của Hộiđồng bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008-2009. trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm, Việt nam đã và đang tham gia chặt chẻ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như: dịch bệnh truyền nhiểm, đói nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiểm môi trường, buôn lậu ma túy,, tội phạm khủng bố… những nổ lực này của Việt nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm với bạn bè ở khu vực và trên thế giới góp phần gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển.
Trong tiến trình mở rộng đối ngoại chung của đất nước, vấn đề hội nhập quốc tế xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng trở thành một nhiệm vụ cấp bách đối với các đơn vị vũ trang nhân dân. Trong đó, Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, trong phạm vi quyền hạn của mình, lực lượng Công an nhân cũng phải tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế nhằm đáp ứng nhiệm vụ chính chị bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Nhằm tìm hiểu lịch sử quá trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước cũng như lịch phát triển quan hệ đối ngoại của ngành Công an, chúng tôi đã mạnh dạn chọn chủ đề: “Sự đổi mới tư duy về quan hệ đối ngoại của Việt Nam thể hiện qua việc tham gia và phát huy vai trò trong các tổ chức khu vực, quốc tế và thực tiễn công tác đối ngoại của ngành Công an” làm tiểu luận môn học.
CHƯƠNG I
SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY VỀ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM
THỂ HIỆN QUA VIỆC THAM GIA VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ
TRONG CÁC TỔ CHỨC KHU VỰC, QUỐC TẾ
1.1. Sơ lược về sự đổi mới tư duy quan hệ đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975 – 1986
1.1.1. Hoàn cảnh trong nước và quốc tế
Năm 1975 nước ta hoàn toàn giải phóng, tổ quốc hòa bình, thống nhất cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Nhưng ngoài những mặt thuận lợi trên thì nước ta cũng đã gặp vô vàn khó khăn, chiến tranh vừa kết thúc để lại hậu quả nặng nề của hơn 30 năm, chiến tranh biên giới Tây Nam và cuộc chiến biên giới phía Bắc xảy ra làm suy giảm tiềm lực của đất nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những âm mưu thâm độc phá hoại nước ta. Đại hội Đảng lần V (3/1982) nhận định “Nước ta đang ở trong tình thế vừa có hòa bình vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”.
Mặt khác do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế xã hội: “chúng ta đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế. Các giải pháp cụ thể về định mức giá và quản lý giá, về đổi tiền và bước đi trong việc điều chỉnh giá - lương - tiền được tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo, không phù hợp với tình hình thực tế” (Bài phát biểu của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh: nhận định sai lầm của nhà nước giai đoạn 1975 – 1985, năm 1986).
Trong khi đó trên thế giới, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh mẽ; Nhật Bản và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa hoãn của các nước lớn. Với thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh.
Tuy nhiên, đến giữa thập kỉ 70, tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định. Trong các nước xã hội chủ nghĩa cũng xuất hiện những mâu thuẫn bất đồng. Tình hình Đông Nam Á cũng đã có những chuyển biến mới. Sau năm 1975, Mỹ đã rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa: khối quân sự SEATO tan rã; ngày 24/2/1976, các nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là hiệp ước Bali), mở ra cục diện hòa bình hợp tác trong khu vực.
1.1.2. Chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976), Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại là “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ, phát triển mối quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Từ giữa năm 1978, Đảng và Nhà nước đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách đối ngoại như chú trọng củng cố tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô, coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình tự do, trung lập ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982), về quan hệ với các nước, Đảng tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại giữa hai bên, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình và ổn định; chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị xã hội trên cơ sở tôn trọng, độc lập chủ quyền , bình đẳng và cùng có lợi.
1.1.3. Kết quả việc thực hiện đường lối đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1975 - 1986
Trong 10 năm trước đổi mới, quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa được tăng cường, trong đó đặc biệt là với Liên Xô. Ngày 29/6/1978, Việt Nam gia nhập hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối SEV đều tăng (riêng ngoại thương chiếm 70 đến 80% kim ngạch buôn bán của Việt Nam). Ngày 31/11/1978, Việt Nam ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô.
Thực hiện chủ trương mở rộng quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, từ năm 1975 đến năm 1977, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày 15/9/1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); ngày 21/9/1976 tiếp nhận ghế thành viên chính thức ngân hàng thế giới (WB); ngày 23/9/1976 gia nhập ngân hàng châu Á (ADB); ngày 20/9/1977 tiếp nhận ghế thành viên Liên hợp quốc và từ năm 1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.
Với các nước khác thuộc khu vực Đông Nam Á, cuối năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (tuy nhiên, từ năm 1979, lấy cớ sự kiện Campuchia, các nước ASEAN tham gia liên minh thực hiện bao vây cô lập Việt Nam). Những kết quả đối ngoại trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế kể cả với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể góp phần vào việc khôi phục đất nước sau chiến tranh; Việc trở thành thành viên chính thức của quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển Châu Á và trở thành thành viên chính thức của Liên Hợp Quốc, tham gia tích cực vào các hoạt động của phong trào không liên kết, đã tranh thủ được sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời phát huy được vai trò của nước ta trên trường quốc tế.
Về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước còn lại trong tổ chức ASEAN đã tạo thuân lợi cho việc triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình hữu nghị và hợp tác.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986, quan hệ quốc tế của Việt Nam cũng gặp những trở ngại lớn. Từ những năm cuối của thập kỉ 70, nước ta bị bao vây, cấm vận vế kinh tế, cô lập về chính trị, vừa phải đương đầu với “một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của các thế lực thù địch. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn này, chúng ta chưa nắm bắt được xu thế quốc tế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và chạy đua kinh tế. Do đó đã không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh; không kịp thời đổi mới quan hệ đối ngoại cho phù hợp với tình hình.
Những hạn chế của đối ngoại Việt Nam giai đoạn này suy cho cùng đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản được Đại hội Đảng lần thứ VI chỉ ra “là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản; nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”.
1.2. Sự đổi mới tư duy quan hệ đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay
1.2.1. Tình hình trong nước và thế giới
Từ giữa thập kỷ 80, cuộc cách mạng khoa học (đặc biệt là công nghệ thông tin) phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống xã hội. Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đầu thập kỷ 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối độc lập do Liên Xô và Hoa kỳ đứng đầu tan rã, hình thành một trật tự thế giới mới. Trong thời kỳ này, những cuộc chiến tranh cục bộ xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế của thế giới là hòa bình hợp tác và phát triển.
Trước diễn biến mới của tình hình thế giới, các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với nhu cầu nhiệm vụ bên trong và xu hướng phát triển của thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghê, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.
Dưới góc độ kinh tế, toàn cầu hóa là quá trình lực lượng sản suất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu. Tuy vậy, toàn cầu hóa cũng mang lại những tác động tiêu cực cho sự phát triển của đất nước. Xuất phát từ việc các nước công nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình toàn cầu hóa tạo nên sự bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm tăng sự phân cực giữa nước giàu và nước nghèo. Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”.
Ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, từ thập kỷ 90, tình hình khu vực có những chuyển biến mới. Châu Á – Thái Bình Dương vẫn được đánh giá là khu vực ổn định, có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế.
Tại Việt Nam, sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam từ nữa cuối thập kỷ 70 tạo nên tình trạng căng thẳng và gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển của các mạng Việt Nam. Vì vậy, vấn đề giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta.
Ở trong nước, do hậu quả nặng nề của chiến tranh và các khuyết điểm chủ quan khác, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là một trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước; sự tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
1.2.2. Sự đổi mới tư duy qua đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước
Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI) tháng 5/1988 đề ra nhiệm vụ ra sức tranh thủ các nước anh em, bè bạn và dư luận thế giới, làm thất bại âm mưu cô lập ta về kinh tế và chính trị; chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang hợp tác hòa bình; ra sức lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa cao của kinh tế thế giới, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế.
Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6/1992) đã ra Nghị quyết chuyên đề về công tác đối ngoại và xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) và Đại hội VIII (tháng 6/1996) của Đảng ta đã chính thức khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ hơn và một tâm thế chủ động hơn bằng tuyên bố “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Hội nghị Trung ương 8, khóa IX đã khẳng định một lần nữa: “trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, làm cơ sở mở rộng và phát triển các mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh với các chủ thể quan hệ quốc tế”.
Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.
1.3. Kết quả đối ngoại thể hiện qua việc Việt Nam tham gia và phát huy vai trò trong các tổ chức khu vực và quốc tế
Sự đổi mới tư duy đường lối đối ngoại từ 1986 đến nay của Việt Nam đã mang lại sự phát triển to lớn về mọi mặt, bên cạnh những giá trị về kinh tế xã hội, vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế cũng ngày càng được khẳng định và mở rộng. Trong đó, nội bật là trong một số tổ chức sau:
1.3.1. Vị trí, vai trò của Việt Nam trong tổ chức ASIAN
Ngày 28.7.1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Sự kiện chính trị quan trọng này đã thể hiện rõ nét chính sách chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam, mở ra một thời kỳ hội nhập sâu vào khu vực của Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị-an ninh, kinh tế và chuyên ngành.Vị trí vai trò của Việt Nam trong tổ chức ASIAN được thể hiện:
Việt Nam không những tham gia tích cực vào chương trình hợp tác sẵn có, mà còn đóng góp to lớn cho sự hình thành các sáng kiến, cơ chế hợp tác mới của ASEAN. Ngay cả khi chưa gia nhập ASEAN, Việt Nam đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC, 1992), tham gia ngay từ đầu vào ARF (1994).
Ngay sau khi trở thành thành viên chính thức, Việt Nam cam kết tiến hành thực hiện tương đối tốt các chương trình cũng như cơ chế hợp tác của ASEAN, từ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) cho đến Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN (Framework Agreement on Services - AFSA), Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - AIA), Hiệp định khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN (ASEAN Industrial Cooperation - AICO), Sáng kiến hội nhập (IAI)...
Điều quan trọng hơn là Việt Nam cùng với các nước ASEAN đề ra nhiều sáng kiến mới, nhằm khắc phục những mặt yếu kém, trì trệ trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác khu vực phát triển. Cụ thể là Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị ASEAN lần thứ VI (tại Hà Nội, tháng 12.1998), với một “Chương trình hành động Hà Nội” (HPA) được thông qua, vừa mang tính định hướng vừa đưa ra giải pháp cho việc hiện thực hóa “Tầm nhìn 2020” - nền tảng tư tưởng cho sự thiết lập Cộng đồng ASEAN sau đó (10.2003).
Việt Nam cũng có nhiều đóng góp về mặt ý tưởng và đề ra biện pháp nhằm thu hẹp khoảng cách và phát triển tiểu vùng. Điều này được thể hiện trong “Tuyên bố Hà Nội” năm 1998, “Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển, nhằm tăng cường liên kết ASEAN” năm 2001...
Việt Nam còn có sáng kiến trong việc tạo dựng ý tưởng và xây dựng cộng đồng ASEAN trên 3 trụ cột chính, trong đó Cộng đồng Văn hóa - Xã hội là do Việt Nam đề xuất. Việt Nam đã và đang đóng vai trò tích cực trong việc duy trì hòa bình, ổn định và hòa giải khu vực, góp phần củng cố vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Đây là một trong những đóng góp nổi bật của Việt Nam. Ngoải ra, cùng với sự lớn mạnh của ASEAN, Việt Nam đã và đóng vai trò không nhỏ trong cân bằng chiến lược và ảnh hưởng giữa các nước lớn, đặc biệt là trong cân bằng chiến lược Mỹ - Trung. Đây là vấn đề lớn, có ý nghĩa trong việc duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam Á.
Trong bối cảnh gián đoạn các mối quan hệ truyền thống, bị cấm vận, cô lập bởi hậu qủa của chiến tranh để lại, thì sự tham gia của Việt Nam vào ASEAN không chỉ để góp phần thực hiện chính sách đổi mới toàn diện, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế do Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991 đề ra, mà quan trọng hơn là tạo ra bước phát triển mới trong quan hệ khu vực và quốc tế. Cụ thể, sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành nước sáng lập viên ASEM (1996), thành viên chính thức của APEC (1998), mở rộng không gian hợp tác với các nước Đông Nam Á (qua cơ chế ASEAN+1 và ASEAN+3).
1.3.2. Vị trí, vai trò của Việt Nam trong Hội nghị Á – Âu (ASEM)
Hội nghị Á – Âu (ASEM) là diễn đàn đối thoại và hợp tác không chính thức, được sáng lập vào năm 1996. Việt Nam là một trong những nước thành viên sáng lập của ASEM và sự hợp tác giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEM trong nhiều lĩnh vực luôn có những bước phát triển tích cực. Việt Nam đã tích cực tham gia ngay từ đầu vào các nỗ lực thành lập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), đặc biệt, Việt Nam đã đảm nhiệm tốt vai trò điều phối viên châu Á kể từ Hội nghị Cấp cao ASEM 3 đến nay.
Về lĩnh vực chính trị: Việt Nam đã tham gia đầy đủ và có hiệu quả vào các sinh hoạt chính trị của ASEM. Sự tham dự của các vị lãnh đạo Việt Nam tại các kỳ Hội nghị Cấp cao, đã chứng tỏ sự coi trọng của Việt Nam đối với ASEM. Tại các hội nghị, Việt Nam tham gia tích cực vào quá trình thảo luận, xây dựng các văn kiện như Khuôn khổ hợp tác Á - Âu, các Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị nhằm xác định mục tiêu, nguyên tắc, cơ chế, ưu tiên, định hướng cho hợp tác ASEM, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển và làm phong phú thêm nội dung hợp tác giữa hai châu lục. Đề xuất của Việt Nam đưa hợp tác ASEM, nhất là hợp tác kinh tế đi vào thực chất tại Hội nghị Cấp cao ASEM 5 đã được các thành viên hoan nghênh, chứng tỏ khả năng góp tiếng nói tích cực điều hòa lợi ích giữa các thành viên ASEM của Việt Nam.
Trong đối thoại chính trị, Việt Nam đã tích cực đóng góp vào nỗ lực chung bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang, trên nguyên tắc tôn trọng luật pháp quốc tế, chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, vì hợp tác bình đẳng và có lợi, vì hòa bình, ổn định, thịnh vượng ở khu vực và trên thế giới, xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ công bằng.
Trong các vấn đề khác như môi trường, quản lý luồng di cư, tăng cường phúc lợi cho phụ nữ và trẻ em, phát triển nguồn nhân lực, cải thiện chăm sóc sức khỏe cộng đồng, an ninh lương thực...,Việt Nam đã góp tiếng nói tích cực vào nỗ lực của hai châu lục trong đối phó với những vấn đề phức tạp này.
Không chỉ tích cực tham gia, Việt Nam còn đăng cai nhiều hội thảo trao đổi quan điểm và đánh giá chung của các học giả về những vấn đề chính trị mà các thành viên quan tâm, như “Hội thảo Chương trình an ninh toàn cầu mới và triển vọng trong hợp tác Á-Âu”, “Hội thảo bàn tròn về hòa bình và hòa giải”.
Trong hợp tác về doanh nghiệp, Việt Nam đã tham gia các cuộc họp của Diễn đàn Doanh nghiệp Á-Âu, Hội nghị Doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ động đăng cai tổ chức Diễn đàn Doanh nghiệp Á-Âu (AEBF) lần thứ 9.
Trong lĩnh vực tài chính, Việt Nam đã tham gia đóng góp từ những Hội nghị Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của ASEM. Việt Nam đã tích cực trao đổi tài chính, tham gia hầu hết các chương trình hợp tác như hợp tác chống rửa tiền, trao đổi kinh nghiệm về quản lý nợ công...
1.3.3. Vị trí, vai trò của Việt Nam trong diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC)
Ngày 14/11/1998, các thành viên của APEC đã thông qua việc kết nạp Việt Nam, cùng với Liên bang Nga và Pêru, làm thành viên chính thức của APEC; đánh dấu bước đi quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế của Việt Nam. Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia các chương trình hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và quá trình tự do hóa của APEC. Việt Nam đã đưa ra nhiều đề xuất, sáng kiến. Tại Hội nghị APEC lần thứ 11 tại Băng Cốc (Thái Lan), có 2 sáng kiến của Việt Nam là tăng cường hợp tác nội khối và thành lập Quỹ hỗ trợ các doanh nghiệp siêu nhỏ được Hội nghị đánh giá cao.
Việt Nam đã đứng ra tổ chức một số cuộc hội thảo trong khuôn khổ APEC như “Hội thảo về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa” (3/2003), hội thảo “Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch giữa các nền kinh tế APEC” (10/2003), “Hội nghị thường niên Diễn đàn Nghị viện châu Á – Thái Bình Dương (APPF) lần thứ 13” (1/2005)...
Đặc biệt, Việt Nam lần đầu tiên đăng cai Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC 2006) vào tháng 11/2006 một lần nữa khẳng định quyết tâm của Việt Nam chủ động, khẩn trương hơn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị vai trò chủ nhà APEC 2006, thúc đẩy tiến trình đàm phán gia nhập WTO và mở rộng quan hệ với các đối tác trong APEC.
Đến nay, Việt Nam đã đề xuất 11 dự án và đều được APEC thông qua, trong đó tập trung vào các lĩnh vực chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, thủy sản, nông nghiệp, khoa học - công nghiệp. Hiện Việt Nam đang tiến hành công tác chuẩn bị Hội nghị cấp cao APEC 2006 và coi đây là một trong những nhiệm vụ đối ngoại quan trọng. Việt Nam đã tham gia mạnh mẽ vào một số Kế hoạch hành động tập thể (CAPS) trong hai lĩnh vực hợp tác chủ yếu là Tiêu chuẩn và hợp tác (SCSC) và Thủ tục Hải quan (SCCCP), dành ưu tiên cho Chương trình hợp tác kinh tế công nghệ (ECOTECH).
1.3.4. Vị trí và vai trò của Việt Nam trong Liên hợp quốc
Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức là thành viên của LHQ. Ngay từ những ngày đầu tham gia LHQ, Việt Nam đã chủ động đóng góp tiếng nói về những vấn đề liên quan đến hòa bình, ổn định, hợp tác ở Đông - Nam Á. Đồng thời, tích cực cùng nhiều quốc gia thành viên các nước thúc đẩy LHQ thông qua các nghị quyết, quyết định cùng các biện pháp cụ thể nhằm phát huy vai trò của LHQ, tăng cường sự phối hợp giữa các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chạy đua vũ trang, giải trừ quân bị, ngăn ngừa và giải quyết các tranh chấp, xung đột quốc tế bằng biện pháp hòa bình, bảo vệ độc lập và quyền tự quyết của các dân tộc, cải thiện môi trường kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo đảm quyền con người.
Trong các lĩnh vực công việc cụ thể của LHQ, Việt Nam với tư cách là một trong 66 thành viên của Hội nghị giải trừ quân bị tại Genève đã tích cực tham gia vào các hoạt động của diễn đàn nhằm thực hiện mục tiêu giải trừ quân bị toàn diện và triệt để do LHQ đề ra. Việt Nam nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ thành viên của các điều ước quốc tế về chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, thực hiện đầy đủ các nghị quyết của HĐBA về báo cáo các biện pháp thực hiện các điều ước này, mới đây đã phê chuẩn Hiệp ước Cấm thử hạt nhân toàn diện và ký Nghị định thư bổ sung cho Hiệp ước Bảo đảm Hạt nhân theo Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân.
Việt Nam được LHQ đánh giá cao về việc hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, triển khai thành công đồng thời chia sẻ kinh nghiệm của mình trong việc thực hiện các chương trình hành động của các hội nghị LHQ về phát triển xã hội, môi trường, an ninh lương thực, tài chính cho phát triển, nhà ở, nhân quyền, dân số và phát triển, phụ nữ, trẻ em, chống phân biệt chủng tộc, phòng chống HIV/AIDS...
Ghi nhận những đóng góp nhiều mặt của Việt Nam vào công việc của LHQ, các quốc gia thành viên đã nhiều lần bầu Việt Nam vào cơ chế lãnh đạo của nhiều cơ quan LHQ như Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ, thành viên ECOSOC, Chủ tịch Đại hội đồng Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Phó Chủ tịch Hội đồng chấp hành tổ chức UNDP/UNFPA, Ủy ban Nhân quyền, Hội đồng thống đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử Quốc tế (IAEA), Hội đồng điều hành các tổ chức Liên minh Bưu chính thế giới (UPU) và Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Hội đồng chấp hành các Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa LHQ (UNESCO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Hội đồng quản trị Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Ủy viên không thường trực của HĐBA nhiệm kỳ 2008 - 2009.
Tóm lại, trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực phát huy vai trò và chủ động tham gia, đóng góp nhiều sáng kiến xây dựng tại các tổ chức, diễn đàn quốc tế đa phương khác như Liên Hợp quốc, ASEAN… Đồng thời, Việt Nam cũng tăng cường hợp tác vì lợi ích chung của các nước đang phát triển như trong phong trào Không Liên Kết, Hợp tác Nam – Nam, Nhóm 77… Vị thế và uy tín của Việt Nam tiếp tục được nâng cao với việc tất cả các nước trong Nhóm Châu Á ở Liên Hợp quốc nhất trí đề cử Việt Nam làm ứng cử viên Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc khóa 2008 - 2009. Đó là sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế về uy tín quốc tế của Việt Nam và về khả năng đóng góp đầy trách nhiệm của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề an ninh - chính trị quốc tế quan trọng.
Cùng với thế giới, Việt Nam tiếp tục giương cao ngọn cờ "hòa bình, hợp tác và phát triển" và vững bước tiến lên trong thập niên đầu của thế kỷ 21, một thế kỷ đang mở ra những cơ hội to lớn cho các dân tộc cùng nhau hợp tác và phát triển.
Bên cạnh những thành công đã đạt được thì quá trình thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ những hạn chế: Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng bị động. Chưa xây dựng quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước. Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh; không đồng bộ gây khó khăn cho việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết. Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được cả nhu cầu cả về số lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, về kỹ thật kinh doanh; công tác tổ chức chỉ đạo chưa sát và chưa kịp thời.
Vì vậy, theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng, công tác đối ngoại trong thời gian tới của nước ta được xác định là:
“Tiếp tục mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại của ta đi vào chiều sâu, ngày càng ổn định và bền vững”. Đặc biệt coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với các nước láng giềng có chung biên giới, các nước Đông - Nam Á và Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN). Thúc đẩy quan hệ hợp tác ổn định lâu dài với các nước lớn, các trung tâm kinh tế, chính trị của thế giới. Tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh, các nước trong phong trào Không liên kết...
Chương 2.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI CỦA LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN
2.1. Phương châm mở rộng quan hệ đối ngoại trong công tác của LựC lực lượng Công an nhân dân
Ngày 13.06.1992 Ban bí thư TW Đảng (Khóa VII) đã ra chỉ thị số 11-CT/TW về “Đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại”. Sau khi Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị 100/2000/CT-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2000, ngày 15 tháng 8 năm 2001, Bộ Công an đã Chỉ thị số 09/CT-BCA về “Tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại trong lực lượng Công an nhân dân”, đồng thời ban hành Quyết định số 1198/QĐ-BCA ngày 03.12.2001 về thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại của Bộ do đồng chí thứ trưởng thường trực làm trưởng ban; các thành viên là đại diện lãnh đạo một số Tổng cục, Vụ, Cục chức năng trực thuộc Bộ.
Cùng với việc thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Chỉ thị số 09/CT-BCA và Quyết định số 1198/QĐ-BCA của Bộ Công an còn xác định phương châm mở rộng quan hệ đối ngoại của ngành Công an như sau:
Một là, xây dựng chương trình kế hoạch công tác, định hướng mục tiêu, nội dung hoạt động cụ thể; Phân công trách nhiệm cụ thể cho từng đơn vị chức năng và tổ chức quán triệt nhiệm vụ đối ngoại cho cán bộ chiến sỹ Công an các đơn vị địa phương.
Hai là, định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, qua công tác này có tác dụng nâng cao sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau; Đồng thời phối hợp trao đổi thông tin trên nhiều lĩnh vực như trao đổi kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có tổ chức, tội phạm khủng bố, ma túy, buôn bán trẻ em, phụ nữ.... góp phần giữ vững ổn định đất nước, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng.
Ba là, các đơn vị chức năng phối hợp với cán bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất Đảng, Nhà nước chỉ đạo đổi mới các mặt công tác có liên quan đến công tác đối ngoại như cải tiến thủ tục xuất nhập cảnh, miễn thị thực..... nhằm tạo điều kiện cho khách trong và ngoài nước xuất, nhập cảnh thuận lợi.
Bốn là, chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thông báo cho cán bộ học sinh, sinh viên đi công tác, học tập, tham quan, du lịch ở nước ngoài thấy được âm mưu thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch chống phá ta nhằm nâng cao cảnh giác, tự bảo vệ mình, không để kẻ thù lôi kéo mua chuộc làm tay sai cho chúng.
Năm là, thực hiện tuyên truyền cho bạn bè quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hiểu rõ hơn về đất nước, con người Việt Nam; Về đường lối, chính sách của Đảng nhất là các chính sách về tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những thành tựu đổi mới của đất nước, trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ, tăng cường và mở rộng hợp tác toàn diện giữa Việt Nam với các nước, phục vụ yêu cầu giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Sáu là. tăng cường quản lý số đối tượng nước ngoài nhập cư vào Việt Nam có biểu hiện hoạt động phạm tội để chủ động phát hiện, ngăn chặn các hoạt động xâm phạm đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội của nước ta.
Bảy là, cùng với việc đặc xá các phạm nhân là người Việt Nam phạm tội đang chấp hành án phạt tù, hàng năm vào các dịp lễ tết, Đảng và Nhà nước ta cũng đã xem xét giảm án, ân xá, đặc xá cho những đối tượng là người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thể hiện sự khoan hồng của pháp luật và tăng cường mối quan hệ hợp tác hữu nghị của Việt Nam với thế giới.
Tám là, chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ và Công an các tỉnh biên giới chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại nhân dân thông qua việc thực hiện cắm mốc trên các tuyến biên giới, nhất là biên giới Việt - Trung, Việt - Campuchia; Đồng thời tổ chức các cuộc giao lưu, gặp gỡ trao đổi thông tin phòng chống tội phạm giữa Công an các tỉnh biên giới với nước bạn.
2.2. Kết quả công tác đối ngoại của lực lượng Công an nhân dân
Trong những năm qua, lực lượng Công an nhân dân đã không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng, đối tác có quan hệ truyền thống như các cơ quan thi hành pháp luật của Lào, Campuchia, Trung Quốc, Nga... và những đối tác mới như các cơ quan thi hành pháp luật của Mỹ, Anh, Đức, Australia... Qua những hoạt động này, lực lượng Công an nhân dân của Việt Nam đã xây dựng được những mối quan hệ tin cậy từng bước nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và góp phần không nhỏ vào sự thành công của chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng và Nhà nước ta, từ đó nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bước sang thập kỷ 90, trước bối cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị tan rã, công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế của lực lượng Công an đã chủ động, sáng tạo điều chỉnh các mối quan hệ hợp tác theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau với những hình thức phong phú và bước đi phù hợp.
Việt Nam đã có nhiều nổ lực hơn và trở thành thành viên chính thức của ASEAN (1995); tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) và trở thành thành viên của Hiệp hội Cảnh sát các nước ASEAN (ASEANAPOL), từ đó kết hợp có hiệu quả giữa các yêu cầu chính trị, đối ngoại và nghiệp vụ góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Bước sang thế kỷ XXI, Bộ Công an cũng đã đẩy mạnh hợp tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm ma túy, tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em, tội phạm công nghệ cao... đạt hiệu quả thiết thực. Cụ thể, qua kênh Interpol, Cảnh sát Việt Nam đã tiếp nhận và xử lý trên 24.000 lượt thông tin trong đó bao gồm 11.000 lượt thông tin liên quan đến công tác truy nã; Trên 9.000 lượt thông tin liên quan đến đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự xuyên quốc gia; Gần 2.000 lượt thông tin liên quan đến tội phạm kinh tế và gần 3.000 lượt thông tin về tội phạm ma túy.
Bên cạnh đó, Bộ Công an chú trọng hợp tác nhiều mặt với hầu hết các nước trong khu vực, đặc biệt chú trọng nâng cao hiệu quả hợp tác toàn diện với Trung Quốc, Lào, Campuchia, Cuba góp phần tạo vành đai an ninh, ổn định xung quanh đất nước, đồng thời tích cực thúc đẩy mở rộng hợp tác với các nước lớn, các nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Trong khuôn khổ hợp tác với Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) và Hiệp hội Cảnh sát các nước ASEAN (ASEANPOL), Diễn đàn An ninh khu vực Đông Nam á (ARF), diễn đàn hợp tác phòng chống tội phạm xuyên quốc gia giữa các nước ASEAN, hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông phòng chống ma túy (MOU)... lực lượng công an đã phát hiện, điều tra làm rõ hàng trăm vụ án hình sự, các đường dây buôn bán ma túy, buôn bán phụ nữ trẻ em xuyên quốc gia, đồng thời tiếp nhận và dẫn độ về Việt Nam nhiều đối tượng phạm tội lẩn trốn ở nước ngoài.
Chỉ tính riêng 5 năm (2001 - 2005), Bộ Công an đã tổ chức các kế hoạch công tác cho hàng trăm đoàn với hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ Công an đi tham quan, học tập, ký kết, trao đổi kinh nghiệm với nước ngoài và đón tiếp, làm việc với hơn 350 đoàn, hàng ngàn lượt khách nước ngoài đến Việt Nam. Đã tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn về cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ từ bạn bè đồng nghiệp quốc tế trị giá hàng triệu đôla Mỹ và hàng trăm tỷ đồng Việt Nam.
Chúng ta còn tham gia tích cực tại các diễn đàn hợp tác đa phương quốc tế và khu vực, tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế quan trọng, nâng cao vai trò và vị thế của Công an Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhìn chung qua thực tiễn phối hợp quốc gia và quốc tế trong đấu tranh chống tội phạm ở nước ta trong thời gian vừa qua đã từng bước đạt được kết quả đáng mừng, thể hiện rõ nỗ lực của Đảng, Nhà nước và lực lượng Công an nhân dân trong hội nhập vào đời sống cộng đồng quốc tế và khu vực.
Với những kết quả đáng khích lệ như trên, chúng ta có thể tin rằng, trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, lực lượng Cảnh sát nhân dân sẽ tiếp tục thực hiện tốt công tác ngoại giao trong công tác của mình, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, và trật tự an toàn xã hội tạo nên thế trận hòa bình, hữu nghị và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại của lực lượng Công an nhân dân
Thứ nhất, Nhà nước cần sớm ban hành Luật hoặc pháp lệnh về dẫn độ và tương trợ tư pháp hình sự để tạo khung pháp lý cho việc ký kết các hiệp định song phương cũng như tạo cơ sở pháp luật về dẫn độ tội phạm và tương trợ tư pháp hình sự. Chuyển hóa các quy định đã ký kết thành những quy định cụ thể trong pháp luật nước ta nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phổ biến, tuyên truyền cũng như thi hành các hiệp định này. Ban hành các văn bản cần thết để giải thích nội dung và hướng dẫn thi hành hiệp định, thống nhất nhận thức, triển khai tổ chức thực hiện đúng quy định.
Thứ hai, phải đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng bổ sung kiến thức cho cán bộ, trong đó chú trọng nâng cao kiến thức xã hội, ngoại ngữ, tin học, pháp luật, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, đầu tư…
Thứ ba, từng bước trang bị và triệt để khai thác công nghệ thông tin hiện đại, đáp ứng nhu cầu cung cấp trao đổi thông tin của Cảnh sát các nước.
Thứ tư, tăng cường công tác bảo vệ nội bộ, ngăn chặn tình trạng rò rỉ thông tin bí mật nhà nước.
Thứ năm, trang bị, áp dụng khoa học kỹ thuật để thông tin nhanh, nối mạng; bổ sung thiết bị, kỹ thuật cho trung tâm thông tin chỉ huy cho các văn phòng Interpol và Aseanapol Việt Nam.
Thứ sáu, khẩn trương xây dựng hệ thống thông tin, chỉ đạo ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; trang phương tiện kỹ thuật hiện đại để các bộ phận có thể dễ dàng chia sẻ thông tin, cập nhật nhanh các phương thức thủ đoạn phạm tội phục vụ có hiệu quả trong công tác phòng, chống tội phạm.
Thứ bảy, tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình Quốc gia phòng, chống tội phạm, chương trình hành động phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em giai đoạn 2004-2010, Kế hoạch tổng thể phòng chống ma tuý đến 2010.
Thứ tám, đẩy mạnh một bước công tác hợp tác quốc tế với công an các nước trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Các giải pháp trên cần được thực hiện đồng bộ, liên tục và kịp thời nhằm từng bước phát triển quan hệ đối ngoại chặt chẽ với cộng đồng quốc tế, từng bước nâng dần hiệu quả công tác Công an, bảo vệ vững chắc nền an ninh trật tự của tổ quốc.
KẾT LUẬN
Trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam đã kiên trì chính sách đối ngoại mở rộng, chủ động hội nhập quốc tế và gặt hái được những thành tựu to lớn trên mặt trận ngoại giao, đấu tranh vì quyền lợi, chủ quyền của một quốc gia độc lập. Cùng với việc gia nhập WTO, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo thêm nhiều thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế xã hội với mục tiêu Việt Nam thực sự là “điểm đến của thiên niên kỷ mới”.
Bên cạnh những cơ hội mới trong quá trình hội nhập WTO, nước ta cũng đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục âm mưu “Diễn biến hoà bình” gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ” “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Cùng với sự xuất hiện một số loại tội phạm nguy hiểm hoạt động mang tính chất quốc tế tăng nhanh trên phạm vi toàn cầu. Hậu quả do tội phạm này gây ra cực kỳ nghiêm trọng, không thể lường hết được ở mỗi quốc gia, trong từng khu vực cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Đây là một loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm và hoạt động rất tinh vi trên một phạm vi rộng, gây nhiều thiệt hại cho các quốc gia.
Vì vậy, thực tế đã và đang đòi hỏi lực lượng CAND với chức năng, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ an ninh đối nội và đối ngoại của Nhà nước phải không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường sự hợp tác và đối ngoại với các quốc gia nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm trong tình hình như hiện nay. Bên cạnh đó, cùng với sự nỗ lực của toàn lực lượng, mỗi cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân cần phải chú ý học tập nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn, rèn luyện, trau dồi sự hiểu biết về chính trị, pháp luật và nghiệp vụ xứng đáng là người Công an nhân dân Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
“Giáo trình Luật Quốc tế” (dùng cho đào tạo cao học), trường Đại học CSND, Tp.HCM, năm 2008.
“Giáo trình Luật Quốc tế”, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2004.
GS, TS Nguyễn Xuân Yêm “Tình hình tội phạm ở Việt Nam – các giải pháp phòng chống tội phạm thời kỳ hội nhập quốc tế”, tạp chí Công an nhân dân.
PGS. TS Nguyễn Ngọc Anh “Công ước Liên Hợp Quốc về chống tội phạm xuyên quốc gia và các nghị định thư bổ sung”, Nxb CAND, Hà Nội năm 2005.
TS Nguyễn Thị Quế “Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế”, tạp chí Giáo dục lý luận, số 4 năm 2008.
ThS Nguyễn Thị Mai Hoa “Bước phát triển tư duy đối ngoại của Đảng trong quan hệ các nước láng giềng và khu vực thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Lịch sử Đảng tháng 5/2005.
Phạm Thị Lan “Từ tư tưởng toàn cầu hóa trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản suy nghĩ về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay”, tạp chí Giáo dục lý luận, số 1 năm 2008.
Nguyễn Trường Giang “Công tác thông tin đối ngoại của lực lượng công an nhân dân từ năm 2000 đến nay”, báo điện tử Công an nhân dân, năm 2008.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (127).doc