Ở nước ta hiện nay thị trường tài chính đã thiết lập và đi vào hoạt động nhưng rất buồn tẻ, chưa thực sự phát huy hết chức năng và vai trò của nó. Trong thời gian tới, hoàn thiện thị trường liên ngân hàng nên là một mối quan tâm đặc biệt của NHNN. Thị trường liên ngân hàng chính là nơi xác định nhu cầu và khả năng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại, nơi mà ngân NHTW nắm bắt được một cách nhanh nhạy nhu cầu vốn của nền kinh tế qua hoạt động của NHTM để quyết định sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ thích hợp.
Để phát triển thị trường tài chính tôi xin đưa ra một số kiến nghị:
- Phải đa dạng hoá các công cụ như: Cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ đầu tư. Cần mở rộng hơn nữa phạm vi và quy mô giao dịch của thị trường tài chính.
- Cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và quy chế cần thiết làm cơ sở hoạt động và kiểm soát thị trường tài chính, đồng thời cần có tổ chức quản lý Nhà nước để điều khiển giám sát sự hoạt động của thị trường theo quy định của pháp luật.
- Phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và có hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động của thị trường.
- Phải bồi dưỡng cho các nhà kinh doanh, các nhà quản lý các kiến thức của thị trường tài chính để họ nắm vững về nghiệp vụ kỹ thuật hoạt động của thị trường. Ngoài ra cần phải thu hút đông đảo các nhà đầu tư có kiến thức, dám đương đầu với rủi ro, mạo hiểm.
42 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyết định tăng tỷ lệ dự trữ trên 35% và NHNN trả lãi cho mức tăng đó". Triển khai dự trữ bắt buộc theo Pháp lệnh, năm 1991, NHNN ban hành Quyết định 22/QĐ ngày 2/3/1991, tiếp theo là Quyết định số 108/QĐ NH5 ngày 9/6/1992 và đến năm 1995 trong sự đổi mới của chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá, NHNN ban hành Quyết định 260/QĐ NH1 ngày 19/9/1995 nhằm nâng cao một bước hiệu quả sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc trong điều hành chính sách tiền tệ.
Những kinh nghiệm có được ở giai đoạn đầu về việc thực hiện dự trữ bắt buộc theo Pháp lệnh là cơ sở chứng thực quan trọng để NHNN đổi mới quy chế dự trữ bắt buộc theo Luật NHNN được Quốc hội ban hành ngày 12/12/1997. Nhìn chung, chế độ dự trữ bắt buộc kể từ khi có luật NHNN có những đặc điểm sau (thể hiện ở các QĐ 396/1997 có hiệu lực từ 1/1/1998; QĐ 51 ngày 10/2/1999; QĐ5 ngày 16/2/1999...)
- Toàn bộ số tiền gửi dự trữ bắt buộc đều phải gửi vào NHNN. Tiền tính dự trữ bắt buộc bao gồm cả tiền nội tệ và tiền gửi ngoại tệ.
- Tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 0%. Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng cùng áp dụng thống nhất chung một tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng có phân biệt cho các TCTD ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn thì ưu đãi hơn.
- So với trước, mức trần tỷ lệ dự trữ bắt buộc có hạn thấp hơn, tối đa là 20%.
Nếu so sánh các lần tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các mức lạm phát và lãi suất qua các năm ta thấy, thời kỳ có lạm phát cao hay lãi suất cao cũng là lúc tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định ở mức cao, điều này cho thấy đã có sự phối hợp vận dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các công cụ khác của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Điều này rất dễ thấy trong diễn biến của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong năm 1999, đây là năm chính phủ thực hiện kích cầu bằng việc nới lỏng chính sách tiền tệ, NHNN đã liên tục giảm dần tỷ lệ dữ trữ bắt buộc. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc áp dụng từ 5/7/1999 đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng các TCTD từ 7% xuống còn 5% (giảm 2% so với ngày 16/2/1999) và 1% (giảm 4% so với ngày 16/2/1999) đối với Ngân hàng cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân, riêng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn giảm xuống mức 3%.
Hiện nay, các mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng nội tệ được điều hành giảm phù hợp với diễn biến tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối của ngân hàng Nhà nước. Việc nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 8% lên 15%; đồng thời việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng VNĐ từ 5% xuống 3% (riêng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn từ 3% xuống 2%) đã có tác động hỗ trợ rất lớn trong việc điều hành lãi suất và tỷ giá trong thời gian qua, giúp cho lãi suất VNĐ có xu thế có lợi hơn lãi suất USD, hạn chế được phần nào hiện tượng USD hoá trong tài sản có của hệ thống ngân hàng, một tình trạng mà trong dư luận thời gian qua hết sức quan tâm.
Tuy đã có nhiều đổi mới, cơ chế điều hành dự trữ bắt buộc hiện hành đã bộc lộ những yếu điểm cần được hoàn thiện để góp phần nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ.
- Theo thông lệ ở hầu hết các nước dự trữ bắt buộc gửi tại NHTW là không được hưởng lãi, nhưng đối ứng đại bộ phận các khoản tiền không kỳ hạn tại các TCTD đều không trải lãi, nên không gây áp lực làm tăng chi phí của các TCTD. Còn ở Việt Nam, các TCTD vẫn áp dụng trả lãi cho các loại tiền gửi không kỳ hạn huy động được; điều này dẫn đến thực trạng là không những một phần vốn tín dụng của các TCTD bị đóng băng tại NHNN mà còn làm cho chi phí kinh doanh của các tổ chức này tăng lên do phải gánh vác và bù đắp cho khoản vốn kỳ gửi tại NHNN không phát sinh lợi nhuận.
- Theo kinh nghiệm của các nước phát triển, quá trình vận dụng công cụ dự trữ bắt buộc phải có sự gắn kết và hỗ trợ đắc lực của công cụ thị trường mở thì mới đạt hiệu quả cao trong điều hành chính sách tiền tệ. Kể từ khi chưa có công cụ thị trường mở cho đến khi thị trường mở ở nước ta ra đời (12/7/2000), do mới đi vào hoạt động nên NHNN vẫn chưa phối hợp được hai công cụ này. Do đó, NHNN phải thường xuyên thay đổi dự trữ bắt buộc để điều chỉnh cung cầu tiền tệ và tín dụng trên thị trường (như sự điều chỉnh liên tục trong năm 1999 và những tháng cuối năm 2000 đối với đồng ngoại tệ, từ 5% lên 8% tháng 10/2000 và 12% tháng 12/2000). Một khi có sự thay đổi dồn dập về dự trữ bắt buộc, các TCTD không thể nào hoạch định một cách chắc chắn về nhu cầu vốn khả dụng, từ đó gây ra những bất ổn định trong hoạt động kinh doanh của các TCTD.
2.1.2.2. Tình hình sử dụng công cụ tái cấp vốn.
Công cụ tái cấp vốn đã được từng bước đổi mới theo hướng nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ này, tỷ trọng tái cấp vốn theo hình thức thế chấp các chứng từ có giá tăng dần, tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định ngày càng giảm dần. Trên thực tế, bên cạnh 2 hình thức tái cấp vốn chủ yếu ban đầu từ cho vay thế chấp chứng từ và cho vay theo đối tượng chỉ định, NHNN đã thực hiện cho vay thanh toán bù trừ, một hình thứ tái cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM để bù đắp thiếu hụt thanh toán tạm thời. Riêng đối với hình thức cho vay thế chấp chứng từ, chứng từ thế chấp cũng được từng bước mở rộng theo quyết định số 285/QĐ - NH14 ngày 10/11/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì ban đầu chứng từ thế chấp bao gồm tín phiếu kho bạc chưa đến hạn thanh toán, khế ước cho gay ngắn hạn. Đến năm 1997, để phù hợp yêu cầu thực tế, NHNN bổ sung hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại NHNN.
Có thể thấy rằng cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ, công cụ tái cấp vốn đã được sửa đổi bao gồm các hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luật ngân hàng Nhà nước như: cho gay lãi theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Đặc biệt, quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được từng bước đổi mới phù hợp với hoàn cảnh trực tiễn. Từ năm 1994 đến đầu năm 1997, lãi suất tái cấp vốn được quy định theo tỷ lệ phần trăm trên lãi suất cho vay áp dụng đối với dự tán cho vay của tổ chức tín dụng (bằng 60% đến 100% lãi suất cho gay ghi trên khế ước). Chính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động, lãi suất tái cấp vốn còn có sự phân biệt giữa các ngân hàng.
Kể từ 3/1997, cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp vốn đã được xác định mức cụ thể phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời cung cấp tín hiệu về mục tiêu chính sách tiền tệ (nới lỏng hay thắt chặt). Tái cấp vốn đã thực sự trở thành công cụ tiền tệ được NHNN quan tâm trong việc điều tiết cung ứng tiền. Cứ mỗi lần thay đổi lãi suất trần thì lập tức NHNN cũng điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn một cách tương ứng. Ngày 29/05/1999, Thống đốc NHNN ban hành quyết định 190/1999/QĐ-NHNN về điều chỉnh trần lãi suất tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng từ 1%/tháng xuống thốc nhất một mức là 0,85%/tháng nhằm khuyến khích các NHTM vay vốn từ NHNN để đầu tư mở rộng tín dụng góp phần tăng trưởng kinh tế. Kể từ năm 1999, lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với diễn biến cung cầu vốn trên thị trường và phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ.
Từ khi NHNN chính thức chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN được điều chỉnh từ 0,4%/tháng (từ 1/8/2000), lên 0,5%/tháng (từ 1/11/2000); và lãi suất tái chiết khấu tăng từ 0,40% lên 0,45%/tháng.
Để hỗ trợ cho các công cụ khác, và thực hiện việc nới lỏng chính sách tiền tệ, trong thời gian qua NHNN đã liên tục hạ lãi suất tái chiết khấu và lãi sút tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 0,5% xuống còn 0,4%/tháng; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 0,45%. Đây cũng là một giải pháp để thực hiện chủ trương kích cầu của chính phủ và là tín hiệu của ngân hàng Nhà nước phát ra nhằm tác động tới xu thế hình thức cho vay có đảm bảo bằng cầm cố tín phiếu đảm bảo bằng cầm cố tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, nhằm cung ứng thêm vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các NHTM, thay cho việc thế chấp chứng từ, thay cho việc thế chấp chứng từ, thế chấp hồ sơ tín dụng và cho vay chỉ định trước đây. Song trong thực tế, mới chỉ có các NHTM quốc doanh được vay, còn các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn đứng ngoài cuộc.
Nhìn chung, công cụ này vẫn còn có một số hạn chế nhất định: tái cấp vốn thực hiện chủ yếu đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh theo hình thức chỉ định, việc tiếp cận của các NHTM khác với kênh tái cấp vốn từ ngân hàng Nhà nước còn hạn chế vì các đơn vị này thường không đủ điều kiện tham gia tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phát huy hiệu quả điều tiết thị trường, kích thích tăng hoặc giảm nhu cầu tiền tệ.
2.1.2.3. Tình hình sử dụng công cụ thị trường mở.
Thị trường mở ở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2000. Cho đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định, đạt được mục tiêu đề ra của việc sử dụng một công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các giao dịch trên thị trường mở đã có tác động nhất định tới vốn khả năng của các TCTD và đã góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, thúc đẩy chu chuyển vốn trong nền kinh tế, có tác động nhất định đến thị trường chứng khoán. Tuy chưa có kinh nghiệm thực tiễn nhưng các quy định về hoạt động thị trường đã ban hành trong thời gian qua là phù hợp với các tổ chức tín dụng, với các tổ chức tín dụng, với điều kiện hiện nay và sát với thông lệ quốc tế. Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở của NHNN chỉ đạo bài bản và sát sao tới các hoạt động của thị trường.
Từ khi bắt đầu giao dịch đến 31/12/2000, cứ 10 ngày NHNN tiến hành một phiên giao dịch trên thị trường mở. Trong tháng 8/2000, do khối lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng là dư thừa nên NHNN bán ra một lượng tín phiếu là 550 tỷ đồng (khối lượng chào bán trong tháng được mua hế toàn bộ với mức lãi suất từ 4% đến 5,35%). Từ tháng 9 đến cuối tháng 12/2000, do có sự hạn chế của NHNN ở cửa sổ chiết khấu (có thể đây là hình thức hỗ trợ cho sự vận hành nghiệp vụ thị trường mở mới ra đời) và nhu cầu tín dụng VNĐ tăng nhanh (vay ngoại tệ chịu sự rủi ro lớn vì tỷ giá chịu sức ép tăng cao) trong khi huy động tiền ngoại tệ chịu sự rủi ro lớn vì tỷ giá chịu sức ép tăng cao) trong khi huy động tiền gửi tăng chậm (có sự chuyển dịch cơ cấu huy động giữa nội tệ và ngoại tệ do lãi suất huy động ngoại tệ tăng) dẫn đến khan hiếm vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng, NHNN đã mua vào giấy tờ có giá trong 14 phiên liên tục với doanh số 1353,5 tỷ.
Từ 1/1/2001, NHNN thực hiện giao dịch định kỳ 7 ngày/lần.
Từ đầu năm 2001 đến 15/2 lượng vốn khả dụng tiếp tục thiếu hụt do nhu cầu tiền mặt tăng (trong đó có nguyên nhân đây là thời gian cuối năm âm lịch), NHNN tiếp tục mua vào giấy tờ có giá, chủ yếu là mua kỳ hạn do tính đến yếu tố lượng vốn khả dụng có thể tăng lên sau dịp tết nguyên đán.
Từ 21/2 đến 14/3, lượng vốn khả năng có biểu hiện dư thừa; để rút bớt phương tiện thanh toán khỏi hệ thống ngân hàng, NHNN thực hiện bán hẳn lượng giấy tờ có giá với giá trị là 470 tỷ VNĐ.
Từ 21/3 đến cuối tháng 4, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, NHNN tổ chức các phiên giao dịch thị trường mở với mục tiêu cung ứng thêm cho hệ thống (có phiên giao dịch ngày 11/4 do lỗi từ phía các TCTD bỏ thấy không hợp lệ, nên không tổ chức nào trúng thầu, mặc dù vẫn có nhu cầu về vốn khả dụng).
Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở đã bộ lộ một số tồn tại, hạn chế. Khó khăn nhất về nghiệp vụ thị trường mở, theo ông Nguyễn Đồng Tiến, vụ trưởng Vụ chính sách tiền tệ, là số lượng thành viên còn rất hạn chế. Số thành viên tham gia chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Tại các phiên giao dịch, mới chỉ có 1-3 thành viên tham gia, chiếm 5-15% trong tổng số thành viên và chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các TCTD. Trong số 20 thành viên đó thì chủ yếu là 4 NHTM quốc doanh và trên thực tế, các NHTM quốc doanh nắm giữ hơn 70% lượng tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN (hai hàng hoá chính thức được giao dịch trên thị trường mở hiện nay). Thậm chí các ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa tham gia, Mức giao dịch bình quân khoảng 100 tỷ đồng chứng tỏ doanh số mua bán còn hạn chế.
Về mặt khách quan do hàng hoá của thị trường mở là các loại tín phiếu ngắn hạn chỉ tập trung một số các NHTM quốc doanh, cho nên chưa thu hút được nhiều các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở. Vì vậy, người ta cho rằng, đây chỉ là thị trường của NHTM quốc doanh.
Các phiên đấu thầu mua vào và bán ra các loại tín phiếu các loại còn thời hạn ngắn có tính cạnh tranh cao cả trên thị trường sơ cấp và thị trường mở nên các TCTD tham gia nghiệp vụ thị trường mở nên các TCTD nhỏ không đủ điều kiện cạnh tranh với các TCTD có quy mô lớn; vì thế thị trường chưa thật sôi động, nếu không nói là buôn lẻ.
Các thị trường khác của ngành ngân hàng như: thị trường liên ngân hàng, thị trường mua bán lại tín phiếu giữa các TCTD với khách hàng chưa phát triển, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc hoạt động chưa ổn định và chưa thu hút được đông đảo các TCTD tham gia, cho nên cũng ảnh hưởng tới hoạt động thị trường mở.
Về mặt chủ quan nghiệp vụ thị trường mở còn rất mới ở Việt Nam. Vì vậy, các TCTD chưa hiểu biết nhiều về thị trường này. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, hướng dẫn đối với các TCTD để hiểu sâu về thị trường này còn hạn chế. Hệ thống máy móc thiết bị, thông tin giữa trung tâm giao dịch của thị trường với một số TCTD còn có một số trục trặc chậm được khắc phục (trong số 20 thành viên chỉ có 8 thành viên đã nối mạng hoặc có thể truyền file để tham gia giao dịch. Hơn nữa, trình độ các cán bộ ngân hàng còn hạn chế.
*** Trong điều kiện mở cửa kinh tế, các hoạt động kinh tế đối ngoại với những luồn hàng hoá và vốn vào ra một quốc gia có ảnh hưởng to lớn tới các biến số kinh tế vĩ mô của quốc gia đó. Sự di chuyển của các luồng hàng hoá và vốn này luôn gắn liền với sự di chuyển của các luồn tiền tệ của các nước khác nhau. Với ý nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa đồng tiền quốc gia này với đồng tiền quốc gia khác, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng quan trọng, có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự di chuyển của luồng tiền nói trên. ở Việt Nam hiện nay, tỷ giá hối đoái được sử dụng như là công cụ hỗ trợ cho các công cụ khác của chính sách tiền tệ.
2.1.2.4. Tình hình sử dụng công cụ tỷ giá.
Trong thời gian qua, NHNN đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ cơ chế điều hành tỷ giá phù hợp với yêu cầu của xu thế phát triển của đất nước. Có thể nói rằng từ năm 1994, cùng với sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng NHNN đã bắt đầu thực hiện điều hành tỷ giá cơ chế mới thay thế cho chế độ đa tỷ giá trước đây. Theo đó, NHNN bắt đầu công bố tỷ giá chính thức giữa ngoại tệ và đồng Việt Nam, tỷ giá mua bán trên thị trường được phép dao động trong biên độ cho phép. Từ năm 1997, trước những thay đổi trong nước và quốc tế, việc điều hành tỷ giá đã được chuyển hướng tự nhấn mạnh tính ổn định sang mục tiêu điều hành linh hoạt trên cơ sở đảm bảo ổn định giá trị đồng Việt Nam tỷ giá. Trên thực tế, trong các năm 1997 - 1998, việc ngân hàng chủ động điềun chỉnh biên độ giao dịch và tiếp theo việc NHNN ấn định tỷ giá chính thức trên cơ sở tỷ giá mua bán trên và tiếp tho việc NHNN ấn định tỷ giá chính thức trên cơ sở tỷ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng khiến cho tỷ giá phù hợp hơn với tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường, tăng khả năng điều tiết thị trường của tỷ giá do NHNN công bố. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế khu vực, với việc điều hành tỷ giá như trên NHNN đã góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô với tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1998 ở mức 6%, lạm phát được kiềm chế ở mức 9,2%.
Sang năm 1999, NHNN đã thực hiện bước đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá theo các nguyên tắc thị trường bằng việc hàng ngày giao dịch trước đó. Các tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch giữa VNĐ và USD không vượt tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch giữa VNĐ và USD không vượt quá 0,1% so với tỷ giá do NHNN công bố. Đến những tháng đầu năm 2001, tỷ giá biến động ổn định, từ tháng 5/2001 đến nay tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 6 tháng đầu năm là 2,2% so với tỷ giá cuối năm 2000: tỷ giá trên thị trường tự do tăng khoảng 2,8%. Tỷ giá tăng chủ yếu là do: đồng USD có xu hướng tăng giá trên thị trường thế giới, thâm hụt ngoại thương tăng, lượng kiều hối giảm so với những tháng đầu năm, tỷ lệ kết hối giảm từ 50% xuống 40%. Tỷ giá tăng đã có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, góp phần kiểm soát nhập khẩu nhưng cũng gây ra tâm lý bất ổn trong dân chúng, tình trạng ngăn ngoại tệ gia tăng.
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tỷ giá theo hướng hình thành mức tỷ giá phản ánh thực hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khuyến khích xuất khẩu để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, theo dõi sát diễn biết tỷ giá hàng ngày để có biện pháp can thiệp, giữ cho tỷ giá vận động theo tín hiệu thị trường nhưng không có biến động lớn, vượt quá tầm kiểm soát trong điều hành chính sách tiền tệ.
2.2. Đánh giá tồn tại và nguyên nhân của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Nếu như trước đây, NHNN phải dùng mệnh lệnh hành chính để tăng giảm lãi suất, tăng giảm lượng tiền cung ứng trên thị trường... với việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, NHNN đã dựa vào tín hiệu thị trường điều hành chính sách tiền tệ. Đây là một bước tiến bước tiến căn bản của NHNN trong quản lý thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường.
Trong thực tế, việc sử dụng các công cụ trực tiếp đã đem lại sự thành công đáng kể cho chính sách tiền tệ trong thập kỷ 90 khi nhìn vào các chỉ số phản ánh sự biến động của mục tiêu vĩ mô: lạm phát, sản lượng và công ăn việc làm. Chính sách tiền tệ đã đạt được hiệu quả tối đa của nó: tỷ lệ lạm phát dưới một chữ số cùng với tốc độ tăng trưởng bình quân 8,6%/năm trong gần 10 năm. Điều này dường như trái với kết luận của các nhà kinh tế học hiện đại khi cho rằng, chính sách tiền tệ chỉ có thể ảnh hưởng đến các yếu tố thực của nền kinh tế như sản lượng hoặc công ăn việc làm trong thời gian ngắn từ một đến hai năm. Về mặt dài hạn, các yếu tố này có xu hướng quay về mức tự nhiên của nó, do đó mọi sự thay đổi của khối lượng tiền cung ứng không gây nên những ảnh hưởng đến sản lượng và thất nghiệp, ngoại trừ sự biến động về giá cả. Thực chất hiệu quả bền vững của chính sách tiền tệ trong thời gian qua không chỉ là kết quả của chính sách tiền tệ, mà chủ yếu là kết quả của việc Chính phủ Việt Nam đã sử dụng các giải cách mạnh mẽ có khả năng mở rộng liên tục mức sản lượng tiềm năng, trong đó phải kể đến chính sách kinh tế đa thành phần, chính sách khoán đến hộ nông thôn dân, chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước...
Nếu quan niệm rằng mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị tiền tệ với ý nghiã là ổn định tỷ lệ lạm phát ở mức thấp thì trong thời gian qua, mục tiêu này chưa được thực hiện một cách hoàn hảo: tỷ lệ lạm phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán từ năm này sang năm khác. Những tác động về hiệu quả và phân phối lại lạm phát do ảnh hưởng đến giá trị thực của các chỉ tiêu giá trị không nảy sinh từ mức lạm phát cao, mà chủ yếu từ sự bất ổn định của tỷ lệ lạm phát. Và điều quan trọng hơn là bắt đầu từ năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục, nhưng giá cả có xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 19978 và sự giảm giá này diễn ra hầy hết các tháng trong năm 1999. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm mạnh từ năm 1998. Điều này chứng tỏ chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước tỏ ra lúng túng và thiếu chủ động trong việc điều tiết lượng cung ứng để đảm bảo cho nó phù hợp với nhu cầu về tiền tệ của nền kinh tế.
Lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng này có lẽ là xuất phát từ những hạn chế vốn của nó các công cụ trực tiếp.
Một là, các công cụ trực tiếp không cho phép NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện ứ thừa. Tình trạng dự trữ không mong muốn ở các NHTM bắt đầu từ 1994 và kéo dài cho đến nay. Lý do ban đầu có lẽ bởi việc duy trì lãi suất tiền gửi cao vùng với việc không chế trần tín dụng trong những năm 1--4 - 1996; bởi dự trữ ngoại tệ tăng lên rất mạnh trong thời gian này và tỷ lệ tiền gửi có xu hướng giảm xuống (năm 1995 tỷ lệ này là 1,3; năm 1996 là 0,8: năm 1998 là 0,5). Tuy nhiên, lý do chủ yếu của tình trạng này từ năm 1997 đến nay lại nằm ở sự giảm sút tổng cầu của nền kinh tế, phả ánh sự giảm sút nhu cầu tiền tệ, đặc biệt nhu cầu giao dịch. Thực tế này làm cho các NHTM phải chịu áp lực rất mạnh về chi phí vốn, đồng thời làm giảm thiểu tính hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Hai là, công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ. Điều này được thể hiện rõ rệt trong 2 năm 1998 - 1999 khi trần lãi suất công cụ chính sách tiền tệ chủ yếu giảm liên tục nhưng giá cả và sản lượng không những không tăng mà tiếp tục giảm. Đương nhiên, sự giảm sút này xuất phát chủ yếu từ các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát từ yếu tố tiền tệ danh nghĩa. Nhưng chính sách tiền tệ đã không chủ động khi đối mặt với tình trạng này và do đó làm cho sự tác động của chính sách tiền tệ trở nên kém hiệu quả.
Ba là, hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợi dụng được các kênh dẫn đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và qua thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá ngoại tệ.
Chúng ta cũng đã chỉ ra những hạn chế của công cụ trực tiếp cả trên lý luận và thực tế áp dụng tại Việt Nam. Mặt khác, chúng ta cũng đã chỉ ra lợi thế của các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ thị trường mở trên lý thuyết. Và chính từ thực tiễn ở hầu hết các nước phát triển đã sử dụng rất có hiệu quả các công cụ này. NHNN bước đầu sử dụng khá hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ theo xu hướng thay thế và giảm dần tính trực tiếp cứng nhắc và ít hiệu lực để chuyển sang phát huy tính gián tiếp, linh hoạt, thích hợp và đồng bộ của một số các công cụ. Hiện nay, việc đổi mới, chuyển đổi các công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp của NHNN Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới. Chuyển sang các công cụ gián tiếp đã làm cho việc điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, ít gây những hiệu ứng tiêu cực đối với nền kinh tế, là cơ sở NHNN Việt Nam có thể kiểm soát tiền tệ và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi chuyển sang sử dụng các công cụ gián tiếp thì cần có sự phối hợp giữa các công cụ chính sách tiền tệ. Hiện nay, NHNN Việt Nam cũng đã điều chỉnh và bước đầu phối hợp với các công cụ với nhau. Theo báo cáo hoạt động của ngân hàng Nhà nước những tháng đầu năm 2001, hiệu quả của các công cụ điều hành chính sách tiền tệ được đánh giá là: "Phối hợp hài hoà các công cụ trực tiếp và gián tiếp theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế" và "có tác dụng tích cực tới thị trường, hạn chế những tác động tiêu cực do ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế".
Nhìn vào thực trạng của việc sử dụng các công cụ gián tiếp ở phần trên, chúng ta thấy vẫn còn nhiều tồn tại. Các công cụ gián tiếp chưa thực sự phát huy hết hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân nhiều dẫn đến tình trạng này nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do các điều kiện sử dụng công cụ gián tiếp chưa chín muồi:
+ Hệ thống ngân hàng hoạt động chưa lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh.
+ Thị trường tiền tệ thứ cấp chưa tích cực và chưa được điều tiết có hiệu quả.
Các công cụ của chính sách tiền tệ là cánh tay phải đặc lực để NHNN đạt được các mục tiêu của mình. Vì vậy, trong thời gian tới chúng ta cần nhanh chóng tìn một số giải pháp để các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN phát huy hiệu quả.
Chương 3
Định hướng và các giải pháp để nâng cao hiệu quả
sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
3.1. Mục tiêu chiến lược.
Mục tiêu chiến lược TC- TT 2001 - 2010 đã xác định: xây dựng nền tài chính quốc gia có tiềm lực đủ mạnh, đảm bảo chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh, công bằng, phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, hệ thống cơ sở động viên, phân phối tài chính công bằng ổn định, tích cực, năng động phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, đủ sức phát triển nội lực, chủ động hội nhập, thu hút ngoại lực, quản lý và sử dụng có hiệu quả toàn bộ nguồn lực tài chính của đất nước, xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, công khai, minh bạch, đầy đủ, được kiểm toán, kiểm kê kiểm soát, làm cho tài chính trở thành thước đo hiệu quả quá trình hoạt động kinh tế của các chủ thể trong xã hội, năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước và tài chính được tăng cường, đổi mới và cải cách mạnh thủ tục hành chính, từng bước hiện đại hoá công nghệ quản lý tài chính, đội ngũ cán bộ tài chính thực sự là những cán bộ cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; củng cố và nâng cao vị trí tài chính Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu cơ bản đó chiến lược tài chính tiền tệ cũng đã xác lập hệ thống 7 quan điểm sau đây:
Một là: Phải thực sự coi hệ thống tài chính là mạch máu của nền kinh tế quốc dân, CSTT là công cụ sắc bén của Nhà nước để quản lý và điều chỉnh kinh tế vĩ mô; đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính tiền tệ là một nội dung trọng yếu trong khâu đột phá về xây dựng thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là: Tài chính tiền tệ phải tạo ra môi trường và thị trường ổn định, thuận lợi, hấp dẫn đầu tư, giải phóng sức sản xuất và khuyến khích thúc đẩy kinh tế phát triển.
Ba là: Coi trọng việc khai thác và phát triển các nguồn lực, đặc biệt các nguồn lực tài chính trung và dài hạn trong các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư trong nước, tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả, hợp lý các nguồn lực tài chính nước ngoài cho đầu tư phát triển, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội trong mười năm tới.
Bốn là: Thực hiện nguyên tắc công bằng hiệu quả trong chính sách phân phối, phân phối lại tổng sản phẩm trong nước, góp phần duy trì các cân đối lớn trong nền kinh tế, nhất là cân đối giữa tích luỹ với tiêu dùng, giữa tích tụ với tập trung, nâng cao tỷ lệ tiết kiệm dành cho đầu tư, giải quyết căn bản lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động, lợi ích giữa Nhà nước doanh nghiệp và xã hội.
Năm là: Xây dựng và điều hành chính sách tài chính tiền tệ nhất quán, tôn trọng các quan hệ và quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị trường nhằm tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Sáu là: Thực hiện hộp nhập và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về tài chính tiền tệ theo hướng chủ động, có bước đi thích hợp, an toàn, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia trong hộp nhập và phát triển kinh tế.
Bảy là: Tăng cường quản lý tài chính tiền tệ quốc gia bằng pháp luật, nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính đối với các hoạt động kinh tế.
Dựa trên hệ thống các mục tiêu quan điểm chiến lược tài cính tiền tệ đã đề cập đến lĩnh vực cần tập trung đổi mới bao gồm tăng cường động viên khai thác nguồn nhân lực tài chính, phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính; đổi mới và phát triển tài chính doanh nghiệp; cơ cấu lại và nâng cao năng lực điều hành CSTT tín dụng ngân hàng; phát triển thị trường tài chính và dịch vụ tài chính; mở rộng và chủ động hội nhập tài chính tiền tệ quốc tế đổi mới kế toán và tăng cường giám sát tài chính tiền tệ.
(Trích bài phát biểu của tiến sĩ Nguyễn Sinh Hùng - Bộ trưởng bộ tài chính tại hội thảo khoa học "Vai trò và nhiệm vụ của công tác đào tạo cán bộ tài chính ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010").
3.2. Định hướng.
- NHNN Việt Nam cần xác định rõ và lựa chọn mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ để có các quyết định chính xác điều hành các công cụ một cách có hiệu quả nhằm đạt được các mục tiêu mình đề ra.
- Hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ. Trong thời gian tới, cần phối hợp hài hoà các công cụ trực tiếp và gián tiếp, phát huy hơn nữa hiệu quả của việc sử dụng các công cụ gián tiếp đặc biệt là công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
3.3. Các biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ.
3.3.1. Xác định rõ mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Cần dựa trên tình hình thực tế của nền kinh tế và khả năng phát triển trong tương lai để đề ra các mục tiêu phấn đấu. Phải có kế hoạch trước, dự đoán tình hình phát triển kinh tế trong tương lai để có định hướng về các biện pháp điều hành. Từ đó, NHNN hướng các công cụ của mình vào thực hiện mục tiêu này. Nghĩa là các công cụ của chính sách tiền tệ cần phải hoạt động có hướng đích. Trên cơ sở dự đoán tình hình phát triển trong tương lai, NHNN quyết định đưa ra công cụ nào, mức độ tác động như thế nào cho phù hợp với tình hình nhằm đạt được mục tiêu của mình. Việc dự đoán tình hình chính xác là cơ sở để sử dụng có hiệu quả các công cụ. Muốn vậy thì cần đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, kết hợp chặt chẽ kế hoạch với thị trường; nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường thông tin kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế...; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
Việc điều hành chính sách tiền tệ phải luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít với các chính sách kinh tế vĩ mô khác (chính sách tài chính, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu...) ngay từ giai đoạn hoạch định đến quá trình thực thi. Nhờ vậy đảm bảo hỗ trợ tốt thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực, gây trở ngại và hạn chế hiệu năng của chính sách tiền tệ.
3.3.2. Hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
3.3.2.1. Các giải pháp để hoàn thiện công cụ lãi suất.
Cần theo dõi, bám sát diễn biến thị trường để có sự điều chỉnh lãi suất cơ bản và biên độ phù hợp làm cho lãi suất cơ bản thực sự đóng vai trò là tín hiệu để điều tiết lãi suất thị trường; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bỏ biên độ của lãi suất cơ bản. Vì vậy, việc hoàn thiện điều hành lãi suất trong giai đoạn tới chủ yếu là nhằm vào sự hoàn thiện nguyên tắc xác định lãi suất cơ bản. Như chúng ta đã biết, lãi suất phải vừa đáp ứng lợi ích của người đi vay và người cho vay; đối với người cho vay thì lãi suất phải bao gồm lạm phát dự kiến, rủi ro và mức lợi nhuận mong đợi; còn người đi vay thì mức lãi suất phải nhỏ hơn mức lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, về phía ngân hàng cần xác định chính xác mức lạm phát dự kiến, rủi ro và lợi nhuận mong đợi. Theo như hiện nay, NHNN xác định lãi suất cơ bản chỉ dựa trên một số NHTM là rất phiến diện, chưa phản ánh hết cung cầu tín dụng thực của thị trường; trong khi đó, thành phố Hồ Chí Minh hiện đã có gần 100 tổ chức tín dụng hoạt động trong lĩnh vực tài chính.
3.3.2.2. Các giải pháp để hoàn thiện công cụ dự trữ bắt buộc.
Khi các công cụ lãi suất và thị trường mở còn đang trong quá trình hoàn thiện, dự trữ bắt buộc vẫn là một trong những công cụ quan trọng để ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ. Để nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ này. NHNN cần có các giải pháp hoàn thiện công cụ theo hướng mở rộng khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN và khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn linh hoạt và hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới dự trữ cần phải hoàn thiện theo các hướng sau:
- Cơ chế dự trữ bắt buộc phải đảm bảo tính ổn định. Vì liên quan đến vốn khả dụng, nếu thay đổi thường xuyên các mức bắt buộc và những luật lệ quy định về nó sẽ khiến cho các tổ chức tín dụng phải thường xuyên thay đổi danh mục phân bổ vốn của mình. Do đó, những kết hoạch cho vay vốn dài hạn sẽ gặp phải rủi ro. Vì thế, cần quan niệm, thay đổi trong dự trữ bắt buộc như là dấu hiệu thông báo cho một sự bắt đầu thay đổi cơ bản trong chính sách tiền tệ, tức là những thay đổi tiếp theo về chính sách lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở để giúp các TCTD chủ động điều chỉnh hoạt động kinh doanh cho phù hợp.
- Dự trữ bắt buộc phải đảm bảo tính công bằng để nâng cao hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Vì là công cụ của chính sách tiền tệ với chức năng cơ bản là kiểm soát tiền tệ, do vậy mọi tổ chức tín dụng có chức năng đều là đối tượng thống nhất mà ngân hàng Nhà nước sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để điều chỉnh hệ thống tạo tiền. Không nhất thiết phải có sự phân biệt đối xử giữa các tổ chức tín dụng.
- Dự trữ bắt buộc cần kiểm soát có chọn lọc khả năng tạo tiền của các TCTD. Khi áp dụng dự trữ bắt buộc cần tính đến mức độ rủi ro về khả năng thanh toán do sự tạo tiền của từng loại tiền gửi mà các tổ chức tín dungj huy động được. Đối với loại tiền gửi không kỳ hạn đây là loại tiền gửi phát hành séc có tính lỏng cao nên có thường xuyên biến động. Vì thế, việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi không kỳ hạn là rất cần thiết. Để tăng cường kiểm soát có hiệu quả khả năng tạo tiền đối với loại tiền gửi này, NHNN có thể quy định mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc luỹ tiến từng phần theo quy mô tăng lên của số tiền gửi không kỳ hạn mà các TCTD này huy động được. Có thể chia số tiền gửi không kỳ hạn làm 3 bậc: bậc 1 có quy mô đến băng 50% số vốn pháp định của các tổ chức tín dụng; bậc 2 từ 50% đến 100% số pháp định và bậc 3 từ 100% vốn pháp định vốn pháp định trở lên. Tương ứng với mỗi bậc là có tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức thấp, trung bình và cao (so sánh giữa vốn pháp định và số tiền gửi không kỳ hạn huy động) thì các TCTD có khả năng tạo tiền càng lớn và ngược lại.
Đối với loại tiền gửi có kỳ hạn nói chung thì nên áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hợp lý vì những lý do sau:
+ Tiền gửi có kỳ hạn phần lớn là loại tiền gửi tiết kiện và hiện đang được Nhà nước triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi bắt buộc, tức là đã tạo ra vẫn an toàn, đảm bảo khả năng thanh toán cho các NHTM.
+ Đây là những loại tiền gửi có tính lỏng thấp và việc chuyển đổi nó thành loại tiền có tính lỏng cao đều được xác định thời gian. Do đó, các TCTD vẫn có thể chủ động nguồn vốn từ thị trường để bảo đảm khả năng chi trả. Mặt khác, để khắc phục những rủi ro có tính đột biến do sự thay đổi tiền gửi có tính lỏng thấp thành tiền có cao trước thời hạn, gây bất lợi cho các tổ chức tín dụng, nên cho phép các loại chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm được phép chuyển nhượng trên thị trường.
+ Khắc phục phần nào nhược điểm của công cụ này gây ra cho các TCTD là tăng phương pháp, giảm lợi nhuận và sức cạnh tranh.
Ngoài ra, việc thực hiện công cụ dự trữ bắt buộc có hiệu quả theo mục tiêu đề ra cần phải có sự kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ việc chấp hành dự trữ bắt buộc và xử phạt nghiêm khắc những vi phạm.
Bên cạnh đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được điều chỉnh hoạt, phối hợp đồng bộ với việc điều chỉnh đối với các công cụ khác như tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở...
3.3.2.3. Các giải pháp để hoàn thiện công cụ tái cấp vốn.
Công cụ tái cấp vốn cần được hoàn thiện theo hướng thực hiện vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn của NHNN, NHNN cung ứng phương tiện thanh toán cho các NHTM và thực hiện vai trò "người cho vay cuối cùng". Quy chế tái cấp vốn cần được tiếp tục hoàn thiện, quy định rõ từng hình thức tái cấp vốn (tái cấp vốn cần được tiếp tục hoàn thiện, quy định rõ từng hình thức tái cấp vốn, vì các tổ chức khác có quá nhiều nguồn vốn bổ sung với quy mô nhiều loại và lãi suất thấp, khác nhau trên thị trường.
Công cụ tái cấp vốn chỉ có thể phát huy hiệu quả khi nó được phối hợp với lãi suất. Nếu NHNN muốn các TCTD ra sức khai thác nguồn vốn trong nhân dân thì quy định mức tái cấp vốn càng cao, ngược lại việc quy định một mức lãi suất tái cấp vốn thấp chỉ khuyến khích các TCTD vay của NHNN. Trong thời gian tới, khi mà thị trường mở đã đi vào hoạt động ổn định thì đòi hỏi phải thận trọng hơn nữa trong việc quy định mức lãi suất tái cấp vốn như thế nào là hợp lý. Bởi vì một mức tái cấp thấp sẽ khuyến khích các TCTD vay của NHNN sau đó mua lại các giấy tờ có giá. Trường hợp này chẳng khác nào NHNN dùng chính tiền của mình để mua các giấy tờ có giá, kết quả là nghiệp vụ thị trường mở không có tác dụng. Như vậy, mức lãi suất tái cấp vốn hợp lý phải là mức xấp xỉ với lãi suất các giấy tờ có giá ngắn hạn hay lãi suâtài sản tiền gửi ngắn hạn.
3.3.2.4. Các giải pháp để hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Công cụ nghiệp vụ thị trường là một công cụ mà trong thời gian tới chúng ta cần quan tâm đặc biệt, cần tiếp tục một số giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở để từng bước đưa nghiệp vụ thị trường mở trở thành công cụ chủ yếu linh hoạt, hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Song để nghiệp vụ này thực sự có hiệu quả thì còn rất nhiều vấn đề to lớn đặt ra cũng như phải có thời gian kiểm nghiệm. Thử thách đối với nghiệp vụ mới mẻ này là rất nặng nền mà chỉ có sự quyết tâm đồng bộ kiên quyết của NHNN và các tổ chức tín dụng mới có thể giải quyết được.
- Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ này thì trước hết cần phải rà soát lại các cơ chế, quy chế làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường mở để kịp thời điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện thu hút thành viên tham gia thị trường. Nhà nước cần sớm ban hành khung luật pháp về việc phát hành và lưu thông các chứng từ có giá trị việc điều hành khung luật pháp về việc phát hành và lưu thông các chứng từ có giá để việc điều hành mua bán các giấy tờ có giá của NHTW được sử dụng một cách nhạy bén và để tạo điều kiện cho vấn đề chuyển nhượng, mua bán các chứng từ có giá, hình thành các giao dịch trên thị trường.
- Giá của các giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường nói chung; vì vậy, lãi suất là mục tiêu mà NHNN cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở. Đấu thầu lãi suất hay đấu thầy khối lượng là tuỳ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ. Muốn căn thiệp trực tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng, khi đó lãi suất cố định do NHNN chỉ đạo, còn khi mục tiêu của chính sách tiền tệ nghiêng về giác độ bơm hoặc rút tiền ra theo một lượng mong muốn thì thực hiện đấu thầu lãi suất, khi đó lãi suất được thả nổi theo cung cầu thị trường, còn lãi suất trung thầu được xác định tại điểm đạt được khối lượng trên cần bơm vào hoặc rút bớt khỏi lưu thông. Lãi suất chỉ đạo đối với đấu thầu lãi suất là cơ sở để tính giá các giấy tờ có giá. Đối với thị trường mở ở nước ta hiện nay, Bộ tài chính nên hạn chế dần việc phát hành trái phiếu bán lẻ ra công chúng, mà tập trung phát hành qua hình thức đấu thầu, trong đó có đấu thầu qua NHNN để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng nắm giữ thêm nhiều lượng hàng hoá có thể giao dịch trên thị trường mở. Bộ tài chính nên bỏ việc khống chế lãi suất đấu thầu dưới hình thức lãi suất chỉ đạo mà để thị trường quyết định.
Nghiệp vụ thị trường mở cho phép mua hoặc bán với số lượng thời gian giao dịch và phương thức giao dịch tuỳ ý phù hợp với yêu cầu của chính sách tiền tệ. Khi dự báo dự trữ không thay đổi, biểu hiện có sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ thì phương thức giao dịch sẽ là mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá nhằm tạo một sự chuyển động tiền tệ ban đầu cần thiết. Ngoài nghiệp vụ mua hoặc bán hẳn dễ dàng cho phép sửa sai bằng cách đảo ngược giao dịch, nếu phiên giao dịch trước mua quá nhiều thì phiên kế tiếp có thể thực hiện giao dịch bán để giải quyết số chênh lệch đó hoặc ngược lại. Nếu dự báo cho thấy dự trữ thay đổi thất thường do nhiều nguyên nhân như: thời vụ, thiên tai, hoặc do dự đoán tình hình khó khăn chính xác... Để hạn chế sai sót trong việc cung ứng tiền, phương thức giao dịch được áp dụng trên thị trường mở là phương thức mua bán có kỳ hạn nhằm làm tăng tạm thời hay giảm tạm thời một lượng tiền nhất định trong thời gian giao dịch mua bán.
- Đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường.
Xuất phát từ chỗ hàng hoá của thị trường mở là các giấy tờ có giá ngứan hạn có độ thanh khoản cao, bảo đảm quản lý dễ dàng, đồng thời đáp ứng yêu cầu điều hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác đạt được ý mong muốn. Do đó, trong thời gian tới cần bổ sung vào cơ cấu hàng hoá này các trái phiếu kho bạc Nhà nước, trái phiếu chính phủ, trái phiếu và kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu doanh nghiệp... Tuy nhiên, về lâu dài khi điều kiện pháp lý cho phép, phạm vi giấy tờ có giá sẽ được mở rộng không chỉ gồm các loại ngắn hạn mà cả các loại trung, dài hạn có thể xem xét làm công cụ giao dịch miễn là chúng có độ thanh khoản cao. ở đây, thời hạn của giấy tờ có giá không mâu thuẫn với yêu cầu nhanh nhạy của chính sách tiền tệ, vì đã có phương thức giao dịch mua lại trên nghiệp vụ thị trường mở.
- Hiện đại hoá hệ thống thanh toán.
Để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần trang bị hệ thống thanh toán và quản lý hiện đại, có phần mềm hiện đại kết nối giữa nội bộ trong NHNN và giữa NHNN với các tổ chức tín dụng thành viên, đăng ký giữ điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký giấy tờ có giá, xét thầu, tạo lập và ký hợp đồng mua lại đến khâu thanh toán chuyển khoản và thông báo cáo...
Như vậy, chất lượng công tác dự báo, điều hành thị trường cần từng bước hoàn thiện trên cơ sở nâng cao trình độ cán bộ dự báo, cải tiến chế độ cung cấp thông tin trong và ngoài ngành với sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị NHNN, các TCTD, các Bộ ngành liên quan (bộ tài chính, Kho bạc Nhà nước).
3.3.2.5. Các giải pháp để hoàn thiện công cụ tỷ giá.
Trong thời gian tới, khi mà lãi suất chưa được tự do hoá vẫn còn sự can thiệp của Nhà nước, dự trữ ngoại tệ còn quá ít, kinh tế tăng trưởng nhưng chưă thật sự vững chắc, thị trường tiền tệ chưa phát triển thì việc duy trì cơ chế tỷ giá công bố và biên độ giao dịch như hiện nay vẫn là cần thiết.
Bên cạnh đó cần theo dõi sát các diễn biến trên thị trường tiền tệ để có biện pháp xử lý kịp thời phù hợp với biến động trên thị trường ngoại hối nhằm hoàn thành tỷ giá hợp lý, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng giao dịch kiều hối qua ngân hàng, tăng dự trữ ngoại tệ cho Nhà nước. Điều chỉnh để tỷ giá ngoại tệ sát với thị trường ổn định tỷ giá ở mức phù hợp với thị trường, có sự dao động tăng giảm để xoá đi tình trạng ngăn giữ ngoại tệ đang diễn ra hiện nay.
Về lâu dài, trước xu hướng hội nhập quốc tế, việc điều hành tỷ giá cần được điều hành một cách chủ động linh hoạt, thích ứng với diễn biến vĩ mô của nền kinh tế trong nước, tình hình tài chính - tiền tệ và thương mại của khu vực và quốc tế. Thay cho việc gắn đồng Việt Nam với đồng USD, tỷ giá chính thức nên được gắn với tiền tệ (gồm USD và các đồng tiền của các bạn hàng lớn như Nhật, khối EU và của các nước trong khu vực). Hơn nữa, ngân hàng Nhà nước cần có các biện pháp tiếp tục phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để tỷ giá thực sự do các lực lượng thị trường quyết định.
3.4. Những điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
3.4.1. Cần phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng.
Trước hết cần xây dựng một NHTW có tầm cỡ, nâng cao tính chủ động, linh hoạt của nó trong điều hành chính sách tiền tệ. Cần hạn chế sự can thiệp quá sâu đối với ngân hàng Nhà nước của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động và thực hiện chính sách tiền tệ. NHNN cần được chủ động và chịu trách nhiệm trước quốc hội, chính phủ về thực hiện chính sách tiền tệ. Các cơ quan tổ chức không can thiệp quá sâu vào hoạt động NHNN; đặc biệt giải quyết tốt quan hệ giữa cấp uỷ Đảng và Chính quyền địa phương đối với các chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, đảm bảo thực thi chính sách tiền tệ thống nhất quốc gia. Hạn chế nhiệm vụ của NHNN với vai trò một bộ phận trong chính phủ và một bộ chủ quản để NHNN tập trung thực hiện vai trò NHTW của đất nước. NHTW cần đóng được vai trò là người can thiệp cuối cùng, không ôm đồm những công việc ngoài chức năng của NHTW. Cần phải kiện toàn hệ thống thanh tra của NHTW có cơ chế tổ chức và chỉ đạo theo chiều dọc thống nhất. Lập tiêu chí thanh tra giám sát đóng vai trò của NHTW với mục tiêu giữ vững an toàn hệ thống ngân hàng. Việc xử lý cho phá sản một vài NHTM yếu kém cũng chính là để giữ vững an toàn chung. Tổ chức thi tuyển, lựa chọn cán bộ thanh tra phải chặt chẽ về trình độ và phẩm chất. Tăng quyền lực cho thanh tra tương xứng với nhiệm vụ được giao.
Khẩn trương chấn chỉnh hệ thống ngân hàng, nâng cao chất lượng và đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng. Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng cần tiếp tục được hoàn thiện theo xu hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, xác lập quan hệ bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại với doanh nghiệp và đối tượng khách hàng khác. Nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các NHTM. Các NHTM chủ động cạnh tranh với nhau tìm kiếm khách hàng có tín nhiệm, tìm kiếm dự án có hiệu quả để đầu tư, cho vay; tham gia cho vay vốn các dự án kích cầu, xây dựng cơ sở hạ tầng của các tỉnh thành phố.
Phải thực hiện một chiến lược ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành ngân hàng để tạo cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Thông tin phải trở thành công cụ không thể thiếu của NHNN nhằm đưa hoạt động dự báo, ra quyết định, điều hành vĩ mô đủ năng lực tiếp cận sâu với thị trường, phát hiện và xử lý kịp thời đảm bảo điều hành linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ và phục vụ đắc lực cho hoạt động giám sát bảo vệ tính ổn định của hệ thống ngân hàng.
3.4.2. Phát triển thị trường tài chính.
ở nước ta hiện nay thị trường tài chính đã thiết lập và đi vào hoạt động nhưng rất buồn tẻ, chưa thực sự phát huy hết chức năng và vai trò của nó. Trong thời gian tới, hoàn thiện thị trường liên ngân hàng nên là một mối quan tâm đặc biệt của NHNN. Thị trường liên ngân hàng chính là nơi xác định nhu cầu và khả năng vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại, nơi mà ngân NHTW nắm bắt được một cách nhanh nhạy nhu cầu vốn của nền kinh tế qua hoạt động của NHTM để quyết định sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ thích hợp.
Để phát triển thị trường tài chính tôi xin đưa ra một số kiến nghị:
- Phải đa dạng hoá các công cụ như: Cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ đầu tư... Cần mở rộng hơn nữa phạm vi và quy mô giao dịch của thị trường tài chính.
- Cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và quy chế cần thiết làm cơ sở hoạt động và kiểm soát thị trường tài chính, đồng thời cần có tổ chức quản lý Nhà nước để điều khiển giám sát sự hoạt động của thị trường theo quy định của pháp luật.
- Phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và có hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động của thị trường.
- Phải bồi dưỡng cho các nhà kinh doanh, các nhà quản lý các kiến thức của thị trường tài chính để họ nắm vững về nghiệp vụ kỹ thuật hoạt động của thị trường. Ngoài ra cần phải thu hút đông đảo các nhà đầu tư có kiến thức, dám đương đầu với rủi ro, mạo hiểm.
Lời kết
Dựa vào những vấn đề đã trình bày, có thể thấy rằng trên bình diện rộng của nền kinh tế Việt Nam, hoạt động ngân hàng và CSTT nước ta chưa đạt được độ hoàn thiện và tương xứng với những yêu cầu mà nền kinh tế đặt ra. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường CSTT ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong việc điều tiết nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu ổn định hệ thống tiền tệ kiềm chế lạm phát, tạo môi trường kinh tế ổn định và phát triển bền vững, lành mạnh. Trong bối cảnh đó bên cạnh việc nâng cao trách nhiệm và tính độc lập của NHNN Việt Nam, hạn chế những biện pháp tình thế, CSTT phải có những thay đổi thích hợp. NHNN sẽ tiếp tục thực hiện việc chuyển đổi điều hành CSTT từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp một cách năng động và linh hoạt hơn, có sự phối hợp điều hành đồng bộ giữa các công cụ trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường. Ngoài ra cũng cần có sự phối hợp giữa CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác một cách phù hợp để xây dựng một nền tài chính quốc gia có tiềm lặc đủ mạnh phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, với kiến thức còn hạn chế nên nội dung của bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong được sự giúp đỡ, góp ý kiến của các bạn và của các thầy cô giáo để bổ sung, trau dồi thêm kiến thức.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
Lý thuyết tiền tệ (ĐHTC - KT Hà Nội) - NXB Tài chính 1998.
Tiền Tệ - Ngân hàng - thị trường tài chính (Frederic. S.Mishkin).
Tiền tệ và ngân hàng - Hoàng Kim.
Tiếp cận các học thuyết và chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường - Trương Xuân Lệ.
Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng và những văn bản hướng dẫn thi hành.
Ngân hàng với nền kinh tế tri thức - Viện nghiên cứu khoa học Ngân hàng. NXB Thống kê 2001.
Báo cáo thường niên NHNN Việt Nam.
Tạp chí ngân hàng; Tạp chí tài chính; Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 2002.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương 1: Lý luận chung về các công cụ của chính sách tiền tệ 3
1.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. 3
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế. 3
1.1.2. Kiểm soát lạm phát. 4
1.1.3. Tạo việc làm. 4
1.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 5
1.2.1. Các công cụ trực tiếp. 5
1.2.2. Các công cụ gián tiếp. 8
2.2.1. Dự trữ bắt buộc. 9
Chương 2: Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay 13
2.1. Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. 13
2.1.1. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ trực tiếp. 13
2.1.2. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ gián tiếp ở Việt Nam. 19
2.2. Đánh giá tồn tại và nguyên nhân của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam. 26
Chương 3: Định hướng và các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ 30
3.1. Mục tiêu chiến lược. 30
3.2. Định hướng. 31
3.3. Các biện pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. 32
3.3.1. Xác định rõ mục tiêu của chính sách tiền tệ. 32
3.3.2. Hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. 32
3.4. Những điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ 38
3.4.1. Cần phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. 38
3.4.2. Phát triển thị trường tài chính. 39
Lời kết 40
Tài liệu tham khảo 41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29942.doc