I. MỞ ĐẦU: 1
II. NỘI DUNG: 3
1. Thực trạng ĐDSH: 3
Đa dạng nguồn gen: 3
Đặc trưng đa dạng nguồn gen: 4
Đa dạng về loài: 5
Một số loài sinh vật mới được phát hiện trong thời gian gần đây ở Việt Nam: 7
Đặc trưng đa dạng loài ở Việt Nam: 7
Đa dạng hệ sinh thái: 8
Đặc trưng của đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam: 10
2. Tầm quan trọng của ĐDSH Việt Nam: 11
3. Sự suy giảm của đa dạng sinh học ở Việt Nam: 13
4. Nguyên nhân làm suy giảm đa dạng sinh học: 15
Nguyên nhân trực tiếp: 15
Nguyên nhân gián tiếp: 17
5. Đề xuất giải pháp: 18
5.1. Biện pháp kỹ thuật: 18
5.1.1. Bảo tồn nguyên vị: 18
5.1.2. Bảo tồn chuyển vị: 19
5.1.3. Bảo tồn trang trại: 19
5.1.4. Bảo tồn bên ngoài các khu bảo tồn: 19
5.1.5. Hồi phục và khôi phục các loài, chủng quần và HST 19
5.2. Biện pháp về giáo dục 19
5.2.1. Xây dựng nguồn nhân lực: 19
5.2.2. Mở rộng các hoạt động truyền thông và nâng cao nhận thức về ĐDSH: 19
3.3. Biện pháp về quản lý: 20
3.3.1. Quản lý vùng đệm: 20
3.3.2. Bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng: 20
3.3.3. Giảm sức ép về dân số: 20
4. Bảo tồn đa dạng sinh học bằng pháp chế: 20
4.1. Các bộ luật quốc gia: 20
4.2. Các thoả thuận quốc tế: 21
III. KẾT LUẬN: 22
I. MỞ ĐẦU:
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa. Do vị trí địa lý, Việt Nam rất đa dạng về địa hình, kiểu đất, cảnh quan, có đặc trưng khí hậu khác nhau giữa các miền. Trải dài từ 8030 tới 230 vĩ độ Bắc, với sự khác biệt về khí hậu và địa hình giữa các miền nên Việt Nam có sự đa dạng lớn về môi trường tự nhiên và sinh học. Hệ sinh thái từ rừng mưa thường xanh cận nhiệt đới ở phía Bắc tới rừng khộp nhiệt đới ở phía Nam, rừng ngập mặn và đất ngập nước ven biển đã tạo ra hệ động, thực vật phong phú và có giá trị. Đặc điểm đó là cơ sở rất thuận lợi để giới sinh vật phát triển đa dạng về thành phần loài, phong phú về số lượng. Lĩnh vực sinh học hiện nay vẫn còn nhiều điều mới lạ và bí ẩn bởi những gì chúng ta biết mới chỉ là một phần rất nhỏ của thiên nhiên rộng lớn này. Không chỉ các nhà sinh học trong nước mà nhiều nhà sinh học nước ngoài đến Việt Nam để nghiên cứu về đa dạng sinh học (ĐDSH) bởi sự bùng nổ của công nghệ sinh học, vấn đề kiểm soát các thông tin di truyền và an toàn sinh học được đặt ra trên phạm vi quốc tế.
Theo công ước về đa dạng sinh học được đưa ra vào năm 1992 tại hội nghị Liên Hiệp Quốc về môi trường và sự phát triển, đa dạng sinh học (ĐDSH) được định nghĩa: "là toàn bộ sự phong phú của các cơ thể sống và các tổ hợp sinh thái mà chúng là thành viên, bao gồm sự đa dạng bên trong giữa các loài vật và sự đa dạng của các hệ sinh thái". Đa dạng sinh học là sự phong phú về nguồn gen, về giống, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên. Trong hệ sinh thái, số lượng các giống, các loài nhiều tức là phong phú về nguồn gen thì tính đa dạng sinh học cao (theo luật Bảo vệ môi trường).
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3768 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Suy giảm đa dạng sinh học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giảm đa dạng sinh học.
Để có cái nhìn và cách hiểu chính xác, bằng phương pháp thu thập và kế thừa tài liệu qua sách, mạng và internet... phân tích theo cấu trúc logic của các tài liệu thu thập được, Nghĩ ngược lại những quan điểm thông thường. nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tế. lắng nghe lời phàn nàn của những người không am hiểu. những câu hỏi bất chợt xuất hiện không phụ thuộc lý do nào... Từ đó rút ra những đánh giá về thực trạng cũng như sự hợp lý của đa dạng sinh học, chúng ta cần đi sau nghiên cứu kỹ hơn về vấn đề này. Đây cũng chính là lý do để em lựa chọn đề tài tìm hiểu là :"vấn đề suy giảm đa dạng sinh học". Mục đích là nghiên cứu Giá trị đa dạng sinh học ở Việt Nam, đánh giá thực trạng và tình hình nhắm nâng cao nhận thức của mọi người về đa dạng sinh học đối với cuộc sống của họ và tăng quyền chủ động của họ trong việc quản lý, sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên mà cuộc sống của họ phụ thuộc vào đó.
II. NỘI DUNG:
1. Thực trạng ĐDSH:
Như đã đề cập ở trên thì đa dạng sinh học gồm có 3 loại: đa dạng nguồn gen, đa dạng về loài, đa dạng hệ sinh thái.
Đa dạng nguồn gen:
Đa dạng về gien di truyền được thể hiện bởi sự đa dạng về gen trong mỗi loài.
Theo đánh giá của Jucovski (1970), Việt Nam là 1 trong 12 trung tâm nguồn gốc giống cây trồng của thế giới. Mức độ ĐDSH của hệ thực vật cây trồng ở Việt Nam cao hơn nhiều so với dự đoán.
Nguồn gen giống cây trồng ở Việt Nam, hiện nay đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp có 16 nhóm các loại cây trồng khác nhau như cây lượng thực chính, cây lương thực bổ sung, cây ăn quả, cây rau, cây gia vị, cây làm nước uống, cây lấy sợi, cây thức ăn gia súc, cây bóng mát, cây công nghiệp, cây lấy gỗ... với tổng số trên 800 loài cây trồng với hàng nghìn giống khác nhau.
Bảng: Số lượng các loài cây trồng phổ biến ở Việt Nam
Số TT
Nhóm cây
Số loài
1
Nhóm cây lương thực chính
41
2
Nhóm cây lương thực bổ sung
95
3
Nhóm cây ăn quả
105
4
Nhóm cây rau
55
5
Nhóm cây gia vị
46
6
Nhóm cây làm nước uống
14
7
Nhóm cây lấy sợi
16
8
Nhóm cây thức ăn gia súc
14
9
Nhóm cây lấy dầu béo
45
10
Nhóm cây lấy tinh dầu
20
11
Nhóm cây cải tạo đất
28
12
Nhóm cây dược liệu
181
13
Nhóm cây cây cảnh
62
14
Nhóm cây bóng mát
7
15
Nhóm cây cây công nghiệp
24
16
Nhóm cây lấy gỗ
49
Tổng
802
Nguồn : Khoa học công nghệ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới-Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2005.
Có 3 nhóm cây trồng được nông dân sử dụng:
Các giống cây trồng bản địa: Nhóm giống cây trồng này hiện nay đang chiếm vị trí chủ đạo đối với nhiều loại cây trồng. Trong số nhóm giống cây trồng này có những giống đã được nông dân sử dụng vì lưu truyền hàng nghìn năm nay.
Các giống cây trồng mới: Là những giống cây có khả năng cho năng suất cao vì có một số đặc tính tốt khác như: phẩm chất nông sản tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh cao... được các nhóm khoa học chọn lọc, lai tạo thành. Những năm gần đây các giống cây trồng được các nhóm khoa học chọn lọc và lai tạo mới cũng như các loại giống cây trồng được nhập nội, trước khi đưa ra sản xuất rộng răi, được hội đồng khoa học Bộ NN & PTNT xem xét công nhận như lúa: 156 giống; ngô: 47 giống; đậu tương: 22 giống; cao su: 14 giống; cà phê: 14 giống...
Các giống cây trồng được nông dân ở các tỉnh biên giới trao đổi với nhau qua biên giới hoặc mua bán qua đường tiểu ngạch.Hiện nay, Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia đang bảo tồn 12.300 giống của 115 loài cây trồng. Đây là tài sản quý của đất nước, phần lớn không còn trong sản xuất và trong tự nhiên nữa. Một bộ phận quan trọng của số giống này là nguồn gen bản địa với nhiều đặc tính quý hiếm duy nhất chỉ nước ta có.
Nguồn gen giống vật nuôi ở Việt Nam,
Bảng: Các giống vật nuôi chủ yếu
T.T
Giống
Giống
Tổng số
Giống nội
Giống nhập ngoại
1
Lợn
20
14
6
2
Bò
21
5
16
3
Dê
5
2
3
4
Trâu
3
2
1
5
Cừu
1
1
6
Thỏ
4
2
2
7
Ngựa
3
2
1
8
Gà
27
16
11
9
Vịt
10
5
5
10
Ngan
7
3
4
11
Ngỗng
5
2
3
Nguồn : Khoa học công nghệ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới-Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2005.
Các loài cá nuôi có nguồn gốc từ nước ngoài được nhập và thuần dưỡng ở Việt Nam khoảng 50 loài. Trong đó có 35 loài cá cảnh còn lại là các loài cá nuôi lấy thịt.
Đặc trưng đa dạng nguồn gen:
Các biểu hiện của kiểu gen ở Việt Nam rất phong phú. Riêng kiểu gen cây lúa có đến hàng trăm kiểu hình khác nhau, thể hiện ở gần 400 giống lúa khác nhau.
Các kiểu gen ở Việt Nam thường có nhiều biến dị, đột biến. Trong đó có những biến dị xảy ra dưới tác động của các yếu tố tự nhięn (sấm, chớp, bức xạ..), có những đột biến xảy ra do những tác nhân nhân tạo. Đây lŕ một trong những nguồn tạo giống mới.
ĐDSH gen ở Việt Nam chứa đựng khả năng chống chịu vŕ tính mềm dẻo sinh thái cao của các kiểu gen.
Đa dạng về loài:
Đa dạng loài là số lượng và sự đa dạng của các loài được tìm thấy tại một khu vực nhất định tại một vùng nào đó.
s
?
Số loài trên Trái Đất
Chưa được mô tả
?
Đã được mô tả
Tổng số ước tính = 10 triệu.
Chưa được mô tả = 8.3 triệu.
Đã được mô tả = 1.7 triệu
Trong những năm qua, cùng với những nổ lực về bảo tồn đa dạng sinh học, công tác điều tra nghiên cứu về đa dạng sinh học cũng được nhiều cơ quan Việt Nam cũng như các tổ chức quốc tế thực hiện. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào thành phần loài động, thực vật, các hệ sinh thái đặc trưng. Các kết quả nghiên cứu được tập hợp từ các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu cho thấy:
Bảng: Thành phần loài sinh vật đã biết được cho đến nay
TT
Nhóm sinh vật
Số loài đã xác định được
1
Thực vật nổi
1.939
- Nước ngọt
1.402
- Biển
537
2
Rong, tảo
697
Nước ngọt
Khoảng 20
Biển
682
Cỏ biển
15
3
Thực vật ở cạn
13.766
Thực vật bậc thấp
2.393
Thực vật bậc cao
11.373
4
Động vật không xương sống ở nước
8.203
Nước ngọt
782
Biển
7.421
5
Động vật không xương sống ở đất
khoảng 1.000
6
Côn Trùng
7.750
7
Cá
2.738
Nước ngọt
700
Biển
2.038
8
Bò sát
296
Rắn biển
50
Rùa biển
4
9
Lưỡng cư
162
10
Chim
840
11
Thú
310
Thú biển
16
Nguồn: Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật,2005
Theo các tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ ĐDSH cao tręn thế giới với dự tính có thể có tới 20.000-30.000 loài thực vật. Việt Nam được xếp thứ 16 về mức độ ĐDSH (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới).
Đa dạng loài trong hệ sinh thái trên cạn:
Khu hệ thực vật: Tổng kết các công bố về hệ thực vật Việt Nam, đă ghi nhận có 15.986 loài thực vật ở Việt Nam. Trong đó, có 4.528 loài thực vật bậc thấp và 11.458 loài thực vật bậc cao. Trong số đó có 10 % số loài thực vật là đặc hữu.
Khu hệ động vật: cho đến nay đă thống kê được 307 loài giun tròn, 161 loài giun sán ký sinh ở gia súc, 200 loài giun đất, 145 loài ve giáp, 113 loài bọ nhảy, 7.750 loài côn trùng, 260 loài bò sát, 120 loài ếch nhái, 840 loài chim, 310 loài và phân loài thú.
Trong hệ thống các khu bảo vệ vùng Đông Dương - Mã Lai của IUCN, Việt Nam được xem là nơi giàu về thành phần loài và có mức độ đặc hữu cao so với các nước trong vùng phụ Đông Dương. Động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim, 78 loài và phân loài thú đặc hữu. Riêng trong số 25 loài thú linh trưởng đã được ghi nhận thẻ ở Việt Nam có tới 16 loài, trong đó có 4 loài và phân loài đặc hữu của Việt Nam, 3 phân loài chỉ phân bố ở Việt Nam và Lào, 2 phân loài chỉ có ở vùng rừng hai nước Việt Nam - Cămpuchia.
Đa dạng loài trong hệ sinh thái đất ngập nước nội địa
Các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam rất đa dạng về hệ thực vật cũng như hệ động vật, bao gồm các nhóm vi tảo, rong, các loŕi cây cỏ ngập nước và bán ngập nước, động vật không xương sống và cá.
- Vi tảo: đă xác định được có 1.438 loŕi tảo thuộc 259 chi và 9 ngành;
- Cho đến nay đă thống kê và xác định được 794 loŕi động vật không xương sống. Trong đó, đáng lưu ý là trong thành phần loài giáp xác nhỏ, có 54 loài và 8 giống lần đầu tiên được mô tả ở Việt Nam. Riêng hai nhóm tôm, cua (giáp xác lớn) có 59 loài thì có tới 7 giống và 33 loài (55,9% tổng số loài) lần đầu tiên được mô tả. Trong tổng số 147 loài trai ốc, có 43 loài (29,2% tổng số loài), 3 giống lần đầu tiên được mô tả, tất cả đều là những loài đặc hữu của Việt Nam hay vùng Đông Dương. Điều đó cho thấy sự đa dạng và mức độ đặc hữu của khu hệ tôm, cua, trai, ốc nước ngọt nội địa Việt Nam là rất lớn.
- Theo các dẫn liệu thống kê, thành phần loài cá các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam bao gồm trên 700 loài và phân loài, thuộc 228 giống, 57 họ và 18 bộ. Riêng họ cá chép có 276 loài và phân loài thuộc 100 giống và 4 họ, 1 phân họ được coi là đặc hữu ở Việt Nam. Phần lớn các loài đặc hữu đều có phân bố ở các thủy vực sông, suối, vůng núi.
Đa dạng loài trong các hệ sinh thái biển và ven bờ:
Đặc tính của khu hệ sinh vật biển Việt Nam thể hiện rõ ở đặc tính nhiệt đới, đặc tính hỗn hợp, đặc tính ít đặc hữu và đặc tính khác biệt bắc - nam. Trong vùng biển nước ta đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình và thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau, trong đó có hai vùng biển: Móng Cái - Đồ Sơn, Hải Vân - Vũng Tàu có mức độ đa dạng sinh học cao hơn các vùng còn lại. Đặc biệt, tại vùng thềm lục địa có 9 vùng nước trồi có năng suất sinh học rất cao, kèm theo là các bãi cá lớn. Tổng số loài sinh vật biển đã biết ở Việt Nam có khoảng 11.000 loài, trong đó cá (khoảng 130 loài kinh tế) có 2.458 loài; rong biển có 653 loài; động vật phù du có 657 loài; thực vật phù du có 537 loài; thực vật ngập mặn có 94 loài; tôm biển có 225 loài...Các nghiên cứu về biến động nguồn lợi đă cho thấy danh sách khu hệ cá biển của Việt Nam đến tháng 1/2005 là 2.458 loài, tăng 420 loài so với danh sách được lập năm 1985 (có 2.038 loài) và đã phát hiện thêm 7 loài thú biển mới.
Một số loài sinh vật mới được phát hiện trong thời gian gần đây ở Việt Nam:
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, từ các kết quả điều tra cơ bản các vůng lãnh thổ khác nhau ở Việt Nam, một số loài mới được phát hiện và mô tả, trong đó nhiều chi, loài mới cho khoa học. Một số các nhóm sinh vật trước đây chưa được nghiên cứu, nay đã có những dẫn liệu bước đầu
Đặc trưng đa dạng loài ở Việt Nam:
Số lượng các loài sinh vật nhiều, sinh khối lớn. Tính ra bình quân trên 1 km2 lãnh thổ Việt Nam có 4,5 loài thực vật, gần 7 loài động vật, với mật độ hŕng chục nghìn cá thể. Đây là một trong những mật độ đậm đặc các loài sinh vật so với thế giới.
Cấu trúc loài rất đa dạng. Do đặc điểm địa hình, do phân hóa các kiểu khí hậu, cấu trúc các quần thể trong nội bộ loài thường rất phức tạp. Có nhiều loài có hàng chục dạng sống khác nhau.
Khả năng thích nghi của loŕi cao. Thích nghi của các loài được thực hiện thông qua các đặc điểm thích nghi của từng cá thể, thông qua chuyển đổi cấu trúc loŕi. Loài sinh vật ở Việt Nam nói chung có đặc tính chống chịu cao đối với các thay đổi của các yếu tố và điều kiện ngoại cảnh.
Về thực vật, trong giai đoạn 1993 – 2003, đã có 13 chi, 222 loài và 30 taxon dưới loài đó được phát hiện và mô tả mới cho khoa học v.v.
Đa dạng hệ sinh thái:
Đa dạng hệ sinh thái là sự phong phú về các kiểu hệ sinh thái khác nhau ở cạn cũng như ở nước tại một vùng nào đó. Hệ sinh thái là hệ thống bao gồm sinh vật và môi trường tác động lẫn nhau mà ở đó thực hiện vòng tuần hoàn vật chất, năng lượng và trao đổi thông tin.
Nguồn tài nguyên đa dạng sinh học trong tự nhiên của Việt Nam hiện nay tập trung ở 3 hệ sinh thái (HST) chính là: HST trên cạn ( HST rừng), HST đất ngập nước và HST biển.
Hệ sinh thái đất ngập nước:
Công ước Ramsar định nghĩa "Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển kể cả những vùng nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi triều thấp".
Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hình và hệ sinh thái, thuộc 2 nhóm ĐNN: ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu có tính ĐDSH cao:
Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị như cung cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ, bãi ăn và ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh tế khác; xâm chiếm và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại tác động của sóng biển và bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã bản địa và di cư (chim, thú, lưỡng cư, bò sát).
Đầm lầy than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông Nam Á. U Minh thượng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng đầm lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
Đầm phá: thường thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính pha trộn giữa khối nước ngọt và nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm phá rất phong phú bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu trúc quần xã sinh vật đầm phá thay đổi theo můa rõ rệt.
Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển ven bờ, đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xã rạn san hô rất phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp xác), cá rạn. Thảm cỏ biển thường là nơi cư trú của nhiều loại rùa biển và đặc biệt loài thú biển Dugon.
Vùng biển quanh các đảo ven bờ: ven bờ biển Việt Nam có hệ thống các đảo rất phong phú. Vůng nước ven bờ của hầu hết các đảo lớn được đánh giá có mức độ ĐDSH rất cao với các hệ sinh thái đặc thů như rạn san hô, cỏ biển...Việt Nam có 2 vùng ĐNN quan trọng là ĐNN vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng và ĐNN đồng bằng sông Cửu Long:
ĐNN ở vůng cửa sông đồng bằng sông Hồng có diện tích 229.762 ha. Đây là nơi tập trung các hệ sinh thái với thành phần các loài thực vật, động vật vùng rừng ngập mặn phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài chim nước.
ĐNN đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684 ha. Đây là bãi đẻ quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn sông Mê Công. Những khu rừng ngập nước và đồng bằng ngập lũ cũng là những vùng có tiềm năng sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính ở đồng bằng sông Cửu Long, đó lŕ hệ sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái rừng tràm ở vùng ngập nước nội địa và hệ sinh thái cửa sông.
Mỗi kiểu hệ sinh thái ĐNN đều có khu hệ sinh vật đặc trưng của měnh. Tuy nhiên, đặc tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào từng vùng cảnh quan và vùng địa lý tự nhiên.
Hệ sinh thái đất ngập nước rất đa dạng, theo đánh giá của Viện Điều tra quy hoạch rừng (1999) có 39 kiểu đất ngập nước, bao gồm:
Đất ngập nước tự nhiên 30 kiểu
Đất ngập nước ven biển 11 kiểu
Đất ngập nước nội địa 19 kiểu
Đất ngập nước nhân tạo 9 kiểu
Hệ sinh thái biển:
Việt Nam có vùng lãnh hải gắn với bờ biển rộng khoảng 226.000 km2. Do vậy hệ sinh thái biển cũng rất phong phú, có 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, có tính đa dạng sinh học và năng suất sinh học cao.Trong vùng biển nước ta đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong các vùng đa dạng sinh học biển khác nhau. Thành phần quần xã trong hệ sinh thái giàu, cấu trúc phức tạp, thành phần loài phong phú. Đây là môi trường sản xuất thuận lợi và rộng lớn gắn chặt với đời sống của hàng triệu cư dân sống ven biển của Việt Nam.
Hệ sinh thái rừng:
Các hệ sinh thái của rừng Việt Nam rất đa dạng, mỗi hệ sinh thái rừng thực chất là một phức hệ rất phức tạp, được vận hành và chi phối bởi các quy luật nội vi và ngoại vi. Một số hệ sinh thái điển hình: rừng trên núi đá vôi, rừng rụng lá và nửa rụng lá, rừng thường xanh núi thấp, núi trung bình, núi cao v.v. có giá trị đa dạng sinh học cao và có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam.
Diện tích rừng của Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn biến động khác nhau. Theo thống kê của tác giả Paul Maurand (1943), năm 1943 Việt Nam có diện tích rừng là 14,3 triệu hecta, đạt tỷ lệ che phủ lãnh thổ là 43%. Từ năm 1943-1975, diện tích rừng đã bị suy giảm còn 11,2 triệu hecta với tỷ lệ che phủ là 34% (Viện Điều tra quy hoạch rừng, năm 1976).
Giai đoạn 1976 đến 1990 là thời kỳ tài nguyên rừng bị khai thác mạnh để phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước sau chiến tranh. Diện tích rừng trong giai đoạn này tiếp tục giảm xuống, diện tích rừng năm 1990 chỉ còn chưa đầy 9,2 triệu hecta với tỷ lệ che phủ chỉ đạt 27,8%.
Giai đoạn 1990 đến nay Chính phủ đã có nhiều biện pháp về chính sách và đầu tư nên diện tích rừng đã dần được phục hồi kể cả diện tích rừng tự nhiên và rừng trồng. Năm 2005, diện tích rừng đã đạt trên 12,6 triệu hecta với độ che phủ 37%.
Bảng: Diễn biến diện tích và độ che phủ rừng qua các thời kỳ
Năm
Diện tích rừng (1000 ha)
Độ che phủ
(%)
Ha/Đầu người
Tổng cộng
Rừng tự nhiên
Rừng trồng
1943
14.300,0
14.300,0
0
43,2
0,57
1976
11.169,3
11.169,7
92,6
33,7
0,31
1980
10.683,0
10.180,0
422,3
32,1
0,19
1985
9.891,9
9.308,3
583,6
30,0
0,14
1990
9.175,6
8.430,7
744,9
27,8
0,12
1995
9.302,2
8.252,5
1.049,7
28,2
0,12
2000
10.915,6
9.444,2
1.491,4
33,2
0,14
2002
11.784,6
9.865,0
1.919,6
35,8
0,14
2003
12.095,0
10.005,0
2.090,0
36,1
0,14
2004
12.306,9
10.088,3
2.218,6
36,7
0,15
2005
12.616,7
10.283,2
2.333,5
37,0
0,15
Nguồn: Viện Điều tra Quy hoạch Rừng và Cục Kiểm lâm
Do nhiều nguyên nhân đã làm cho diện tích rừng tự nhiên bị giảm sút trong thời gian qua đã kéo theo sự suy giảm về đa dạng sinh học đối với các hệ sinh thái rừng nói chung.
Các hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, tuy nhiên các hệ sinh thái này hiện nay cũng đang đối mặt với nhiều thách thức chủ yếu từ các hoạt động kinh tế xã hội của con người và những biến động của sự thay đổi khí hậu của trái đất. Diện tích rừng tự nhiên đang có chiều hướng suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Môi trường biển cũng đang bị tác động bới các hoạt động khai thác tài nguyên như dầu khí, hải sản và cả ô nhiễm v.v.
Đặc trưng của đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam:
Tính phong phú và đa dạng của các kiểu hệ sinh thái: Với một diện tích không rộng, nhưng trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau. Ở từng vùng địa lý không lớn cũng tồn tại nhiều kiểu hệ sinh thái.
Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái rất giàu. Cấu trúc quần xã trong các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Điểm đặc trưng này làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nước khác trên thế giới.
Tính phong phú của các mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý và các yếu tố sinh học, giữa các nhóm sinh vật với nhau, giữa các loài, giữa các quần thể trong cùng một loài sinh vật. Mạng lưới dinh dưỡng, các chuỗi dinh dưỡng với nhiều khâu nối tiếp nhau làm tăng tính bền vững của các hệ sinh thái. Các mối quan hệ năng lượng được thực hiện song song với các mối quan hệ vật chất rất phong phú, nhiều tầng, bậc thông qua các nhóm sinh vật: tự dưỡng (sinh vật sản xuất), dị dưỡng (sinh vật tięu thụ), hoại sinh (sinh vật phân hủy) trong các hệ sinh thái ở Việt Nam là những chuỗi quan hệ mà ở nhiều nước khác trên thế giới không có được.
Các hệ sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng tính mềm dẻo sinh thái cao, thể hiện ở sức chịu tải cao; khả năng tự tái tạo lớn; khả năng trung hoà và hạn chế các tác động có hại; khả năng tự khắc phục những tổn thương; khả năng tiếp nhận, chuyển hóa, đồng hóa các tác động từ bęn ngoài.
Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái nhạy cảm. Tính mềm dẻo sinh thái của các hệ sinh thái ở Việt Nam làm cho các hệ đó luôn ở trong trạng thái hoạt động mạnh, vì vậy, thường rất nhạy cảm với các tác động từ bên ngoài, kể cả các tác động của thiên nhiên, cũng như những tác động của con người.
2. Tầm quan trọng của ĐDSH Việt Nam:
Giá trị sinh thái và môi trường:
Các hệ sinh thái là cơ sở sinh tồn của sự sống trên trái đất, trong đó có loài người. Các hệ sinh thái đảm bảo sự chu chuyển của các chu trình địa hóa, thủy hóa (thủy vực): ôxy và các nguyên tố cơ bản khác như cacbon, nitơ, photpho. Chúng duy trì sự ổn định và màu mỡ của đất, nước ở hầu hết các vùng trên trái đất, làm giảm nhẹ sự ô nhiễm, thiên tai. Gần đây, khái niệm các dịch vụ của hệ sinh thái được đưa ra trên cơ sở các thuộc tính, chức năng của chúng được con người sử dụng.
Bảo vệ tài nguyên đất và nước: các quần xã sinh vật đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ rừng đầu nguồn, đặc biệt thảm thực vật có thể làm giảm nhẹ mức độ hạn hán, lũ lụt cũng như duy trì chất lượng nước. Việc hủy hoại thảm rừng do khai thác gỗ, do khai hoang làm nông nghiệp, ngư nghiệp cũng như các hoạt động khác của con người trong quá trình phát triển kinh tế làm cho tốc độ xói mòn đất, sạt lở đất, hoang mạc hóa đất đai tăng lên rất nhanh. Đất bị suy thoái khiến thảm thực vật khó có thể phục hồi càng gia tăng các thảm họa thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán... hoặc gây ô nhiễm môi trường đất và nước.
Điều hòa khí hậu: quần xã thực vật có vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu địa phương, khí hậu vùng và cả khí hậu toàn cầu: tạo bóng mát, khuyếch tán hơi nước, giảm nhiệt độ không khí khi thời tiết nóng nực, hạn chế sự mất nhiệt khi khí hậu lạnh giá, điều hòa nguồn khí ôxy và cacbonic cho môi trường trên cạn cũng như dưới nước thông qua khả năng quang hợp...Phân hủy các chất thảiCác quần xã sinh vật, đặc biệt các loài nấm và vi sinh vật có khả năng hấp phụ, hấp thụ và phân hủy các chất ô nhiễm như kim loại nặng, thuốc trừ sâu và các chất thải nguy hại khác.
Giá trị kinh tế:
Theo một số tài liệu, ĐDSH trên toàn cầu có thể cung cấp cho con người một giá trị tương đương 33.000 tỷ USD/năm. Trong Kế hoạch hành động ĐDSH của Việt Nam (1995) cũng ước tính, hàng năm việc khai thác tài nguyên nông, lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam có giá trị tương đương 2 tỷ USD. Lấy số liệu thực của năm 2004, riêng hàng xuất khẩu của ngành thủy sản Việt Nam đã có giá trị 2 tỷ USD. Ngành nông - lâm nghiệp hiện đang quản lý nguồn tài nguyên rừng có giá trị vô cùng to lớn. Với giá khoảng 250 USD/m3 gỗ, thì hàng năm chỉ riêng mặt hàng gỗ làm nguyên liệu giấy, ĐDSH đă cho giá trị khoảng 1,5 - 3,5 tỷ USD. Đó là chưa kể hàng năm rừng đă cung cấp các mặt hàng lâm sản ngoài gỗ đã có giá trị khoảng 1,5 tỷ USD cho xuất khẩu và cũng khoảng đó cho tiêu dùng trong nước.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2003 ngành nông nghiệp đóng góp một tỷ lệ đáng kể trong Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): gần 21%, ngŕnh lâm nghiệp chiếm tỷ lệ gần 1,1% và, ngành thủy sản chiếm tỷ lệ hơn 4% GDP. Theo số liệu thống kê năm 1995, nhu cầu cây thuốc cho công nghiệp dược, mỹ phẩm hương liệu khoảng 20.000 tấn/năm. Hàng trăm doanh nghiệp xuất khẩu thuốc khoảng 10.000 tấn/năm trị giá khoảng 15-20 triệu USD.
Giá trị kinh tế của ĐDSH có thể nęu khái quát về các mặt sau đây:
- Giá trị được tính ra tiền do việc khai thác, sử dụng mua bán hợp lý các tài nguyên ĐDSH.- ĐDSH đảm bảo cơ sở cho an ninh lương thực và phát triển bền vững của đất nước, đảm bảo các nhu cầu về ăn, mặc của nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo.
- ĐDSH cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản: mía đường, bông vải, cây lấy dầu, cây lấy sợi, thuốc lá, cói, hạt điều...
- ĐDSH góp phần nâng cao độ phì nhiêu của đất, qua đó làm tăng giá trị nông sản.
Giá trị xã hội và nhân văn:
Trong các nền văn hóa của nhiều dân tộc tręn thế giới, một số loài động vật hoang dã được coi là biểu tượng trong tín ngưỡng, thần thoại hoặc các tác phẩm hội họa, điêu khắc. Sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên sinh vật đã hình thành các lễ hội của một số bộ tộc ít người như lễ hội săn bắn theo mùa, hoặc hình thành sự quản lý tài nguyên theo tính chất cộng đồng như vai trò của già làng, trưởng bản trong việc phân định phạm vi, mức độ khai thác, sử dụng tài nguyên đất và rừng. Cuộc sống văn hóa của con người Việt Nam rất gần gũi thiên nhiên, các loài động, thực vật nuôi trồng hay hoang dã và các sản phẩm của chúng đã quen thuộc với mọi người dân, đặc biệt người dân sống ở vùng nông thôn và miền núi, như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn (Hải Phòng), lễ hội đua thuyền... Nhiều loài cây, con vật đă trở thành thiêng liêng hoặc vật thờ cúng đối với các cộng đồng người Việt như: gốc đa thiêng, đền thờ cá Ông ở các tỉnh miền Nam Trung bộ. Các khu rừng thiêng, rừng ma là những nét văn hóa độc đáo của nhiều dân tộc miền núi. Nghề dệt thổ cẩm, làm hương, làm hàng mỹ nghệ từ gỗ, tre nứa hay song mây là những sự gắn bó của đời sống văn hóa con người Việt Nam với ĐDSH.
Rất nhiều loài động vật hoang dã được thuần dưỡng với mục đích làm bầu bạn với con người hoặc thuần hóa để chăn nuôi làm thực phẩm sử dụng hàng ngày.Rất nhiều thú vui của con người được tạo nên thông qua việc tổ chức tham quan, theo dõi tập tính của nhiều loài động vật hoang dã. Gần đây, ngành du lịch sinh thái đã hình thành và đang phát triển rộng rãi trên cơ sở sự ham hiểu biết thiên nhiên của con người đồng thời cũng là điều kiện để nâng cao nhận thức tầm quan trọng của công tác bảo tồn thiên nhiên cũng như làm cho con người gần gũi hơn, thân thiện hơn với thiên nhiên hoang dã.
Giá trị xã hội - nhân văn của ĐDSH thể hiện tập trung ở các mặt sau đây:
- Tạo nhận thức, đạo đức và văn hóa hưởng thụ thẩm mỹ công bằng của người dân. Qua các biểu hiện phong phú nhiều dáng vẻ, nhiều hình thù, nhiều màu sắc, nhiều kết cấu, nhiều hương vị của thế giới sinh vật con người trở nên hiền hòa, yêu cái đẹp.
- ĐDSH góp phần đắc lực trong việc giáo dục con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước.
- ĐDSH là yếu tố chống căng thẳng, tạo sự thoải mái cho con người. Điều này đặc biệt có giá trị trong thời đại công nghiệp, trong cuộc sống hiện tại căng thẳng và đầy sôi động.
- ĐDSH góp phần tạo ổn định xã hội thông qua việc bảo đảm an toàn lương thực, thực phẩm, thỏa mãn các nhu cầu của người dân về đầy đủ các chất dinh dưỡng, về ăn mặc, tham quan du lịch và thẩm mỹ.
3. Sự suy giảm của đa dạng sinh học ở Việt Nam:
Thực trạng của đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay:
- Các hệ sinh thái tự nhiến bị suy thoái.
- Các loài tự nhiên bị suy giảm.
- Nguồn gen cây trồng vật nuôi bị suy giảm.
Trong tiến trình lịch sử của sự phân hoá và tiến hoá, số lượng các loài còn nhiều gấp bội, song chúng đã bị tiêu diệt phần lớn do những biến động lớn lao của vỏ trái đất và của khí hậu toàn cầu. Con người đóng góp vào nạn diệt chủng của các loài chỉ sau khi họ ra đời và phát triển nền văn minh của mình và cũng là tác nhân chủ yếu làm mất đa dạng sinh học.
Sự mất đa dạng sinh vật ở Việt Nam cũng giống như trên thế giới ngày một gia tăng, tốc độ suy giảm đa dạng sinh vật ngày một tăng do ảnh hưởng các hoạt động con người vào tự nhiên. Trên thực tế, tốc độ suy giảm đa dạng sinh vật của nước ta nhanh hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực.
Suy giảm hệ sinh thái:
Hệ sinh thái rừng bị tổn thất nặng nề:
Diện tích rừng bị thu hẹp. Rừng bị khai thác: 120.000-250.000ha/năm.
Độ che phủ rừng bị giảm sút tới mức báo động: độ che phủ của rừng năm 1943 là 43% thì nay chỉ còn 28.8% (Phạm Bình Quyền-2005).
Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) đã xác định chỉ tiêu thảm rừng che phủ đất đai lãnh thổ các quốc gia thuộc miền Nhiệt đới ở mức >33%, dưới đó là báo động môi trường.
Tình trạng mất rừng hầu hết xảy ra ở các rừng phòng hộ xung yếu. VD: Độ che phủ của rừng tự nhiên ở một số lưu vực các sông như sau:
- Lưu vực sông Đà: <11%.
- Lưu vực sông Hồng: 23%.
- Lưu vực sông Đồng Nai: 25%.
- Lưu vực sông Ba (Gia Lai): <23%.
Chất lượng rừng bị giảm: bị thu hẹp và chia cắt. (rừng nguyên sinh, rừng giàu chỉ còn <13% tổng diện tích rừng). Độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm (rừng tái sinh chiếm 55% tổng diện tích rừng) (nguồn: Bộ TNMT, 2007).
Suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước: đầm phá Tam Giang, rừng ngập mặn Cần Giờ, rừng U Minh Thượng, ...
Suy thoái về số lượng: diện tích bị giảm...
Suy thoái về chất lượng: 70% diện tích đất ngập nước bị ô nhiểm (nguồn: Bộ TNMT, 2009).
Rừng ngập nước và tràng cỏ ngập nước ở đồng bằng Bắc Bộ (>1,7 triệu ha) và đồng bằng sông Cửu Long (khoảng 3,9 triệu ha) đã chuyển đổi thành đất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản (Bộ TNMT, 2007).
Diện tích đất ngập nước hiện nay: chỉ còn 10 triệu ha (Bộ TN&MT, 2009).
Rừng ngập mặn: diện tích rừng ngập mặn đã giảm 183.724 trong 20 năm qua (Bộ TN&MT, 2008).
Các hệ sinh thái đầm phá và trảng cỏ ở miền trung cũng suy thoái nặng nề do khai thác thuỷ hải sản không bền vững và mở rộng nuôi trồng thuỷ sản.
Các hệ sinh thái đất ngập nước thuộc các sông hề cũng bị khai thác cạn kiệt và do xây dựng cơ sở hạ tầng
Mở rộng đất ngập nước để nuôi trồng thuỷ sản làm suy gimr tài nguyên sinh học tại chỗ: mất nơi sống, nơi sinh sản, vườn ươm của nhiều loài động vật dưới nước và trên cạn. (nghiên cứu đầm tôm bỏ hoang ở Nam triệu - Hải Phòng cho thấy sinh khối động vật đáy giảm tới 9 lần so với vùng lân cận rừng ngập mặn).
Làm mất nguồn thức ăn phong phú của nhiều sinh vật vùng triều, hậu quả là sản lượng cá, tôm, cua đánh bắt ở ngoài biển cũng giảm...
Hầu hết hệ sinh thái biển khơi ở Việt Nam đều đang bị suy thoái do: khai thác quá mức " huỷ diệt; ô nhiễm... dẫn đến hậu quả là : thay đổi cấu thúc quần xã thuỷ sinh. Giảm mật độ các loài thuỷ sản. 80 loài hải sản bị đe doạ, 70 loài được đưa vào sách đỏ, 20 loài chim bị đe doạ toàn cầu.
Sự suy giảm các loài tự nhiên: 855 loài bị đe doạ tuyệt chủng (so với hơn 700 loài trong những năm 1992 - 1996) và ít nhất 10 loài khác đã không còn tồn tại tại ở Việt Nam. Trong đó: Động Vật là 407 loài (90 loài thú, 74 loài chim, 40 loài bò sát, 13 loài lưỡng cư, 36 loài cá nước ngọt, 53 loài cá biển, 101 loài động vật không xương sống) thực vật là 448 loài.
Suy giảm nguồn gen giống vật nuôi và cây trồng: các giống cây trồng và vật nuôi đang bị mai một (theo tính toán, 80 % giống cây trồng bản địa đã mất, giống vật nuôi suy giảm gần 10 % một năm) " sự mất mát nguồn gen là thiệt hại cho cả nhân loại.
Bảng: sự suy giảm diện tích và mất mát giống cây trồng bản địa từ 1970 đến 1999
Giống cây
Giảm diện tích
gieo trồng(%)
Tỷ lệ mất giống
địa phương (%)
Lúa
50
80
Ngô, đậu
75
50
Cây có củ
75
20
Chè và đay
20
90
Cây ăn quả
50
70
4. Nguyên nhân làm suy giảm đa dạng sinh học:
Nguyên nhân trực tiếp:
Khai thác quá mức và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học:
Nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái lượm thực phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên khác
Chiến tranh: chiến tranh không những là nguyên nhân trực tiếp mà còn là nguyên nhân sâu xa gây suy thoái ĐDSH. Trong giai đoạn 1945 đến 1990 nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh và 2 cuộc xung đột biên giới hết sức khốc liệt.Chiến tranh đã gây biến động lớn về phân bố dân cư giữa các vùng, đồng thời một diện tích lớn đất rừng bị khai phá để trồng cây lương thực bảo đảm hậu cần tại chỗ cho quân và dân. Không những thế các loài động vật hoang dã còn bị đe dọa bởi các loại vũ khí do chiến tranh để lại sau đó.
Khai thác quá mức:
- Khai thác gỗ:
Các phương thức khai thác gỗ (hợp pháp hay bất hợp pháp) không bền vững từ trước đến nay đều được coi là mối đe dọa lớn đối với ĐDSH. Nó không những làm nghèo kiệt tài nguyên gỗ tự nhiên mà còn làm giảm sút nghiêm trọng chất lượng rừng và gây ảnh hưởng lớn đối với vùng cư trú của các loài động vật hoang dã.
- Khai thác củi làm nhiên liệu:
Khai thác củi làm nhiên liệu có quy mô lớn và kho kiểm soát, đây cùng là mối đe dọa rất lớn đối với ĐDSH.
- Khai thác, buôn bán lâm sản ngoại gỗ (kể cả động vật).
- Đánh bắt cá:
Tại nhiều nơi vẫn còn tình trạng đánh bắt cá mang tính huỷ diệt như dùng mìn, chất nổ, điện, thậm chí cả chất đôc (Xyanua). Đánh bắt quá mức có thể thấy rõ hậu quả qua sản lượng đánh bắt một số loài cá suy giảm mặc dù cường độ đánh bắt tăng.
- Khai thác trái phép tài nguyên các rạn san hô.
Bảo tồn rạn san hô ít được chú ý trực tiếp. Một số rạn san hô bị phá huỷ, chủ yếu là do sử dụng các phương pháp đánh bắt cá mang tính huỷ hiệt như đã nói ở trên. Tất cả những phương pháp đánh bắt cá không chọn lọc đõ sẽ giết chết hoặc làm tất cả các loài hoảng sợ.
Mở rộng đất làm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản:
Mở rộng đất canh tác nông, nghư nghiệp lấn vào đất rừng là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm suy thoái ĐDSH. Nhiều loài sinh vật mất nơi cư trú, mất môi trường sống, mất nguồn thức ăn, mất nơi sinh đẻ nên một khối lượng lớn cá thể bị chết, các chuỗi dinh dưỡng bị xáo trộn, cân bằng sinh thái bị tổn thương.
Cháy rừng:
Hiện nay, Việt Nam có trên 6 triệu ha rừng dễ cháy (Phạm Bình Quyền và các cộng sự, 1997), bao gồm rừng thông, rừng tràm, rừng tre nứa, rừng bạch đàn, rừng khộp... Cùng với diện tích rừng dễ cháy tăng thêm hàng năm thì tình hình diễn biến thời tiết ngày càng phức tạp và khó lường ở Việt Nam đang làm nguy cơ tiềm ẩn về cháy rừng ngày càng nghiêm trọng hơn.
Di nhập và xâm lấn của các loài sinh vật lạ:
Trong thời gian qua việc trao đổi, di nhập một số giống cây trồng, vật nuôi đã mang lại hiệu quả kinh tế. Trong cơ cấu cây trồng ở nhiều nơi số giống mới đã chiếm tới 70- 80% và cho năng suất cao. Tuy nhiên việc di nhập nhiều giống mới một cách tràn lan, thiếu kiểm soát là nguy cơ tiềm tàng làm các giống bản địa bị mai một. Các giống mới có thể có những điểm bất lợi và thường không bền vững trước tác động của ngoại cảnh và sâu bệnh. Tác hại ngay lập tức và có thể thấy là một số loài di nhập vào Việt Nam đã phát triển thμnh dịch và gây hại nghiêm trọng. Điều này còn liên quan đến sự thiếu hiểu biết và sơ hở trong quản lý.
Mất và phá huỷ nơi cư trú:
Mất và phá hủy nơi cư trú bởi các hoạt động của con người: Đó chính là tác động của việc thay đổi mục đích sử dụng tài nguyên sinh học như: sự phát triển nông nghiệp, đô thị, sự du canh du cư, đốt nương làm rẫy dẫn đến cháy rừng, khai thác rừng bừa bãi, sản xuất công nghiệp thải lượng cacbon dioxit và các khí khác vào khí quyển, đốt các nhiên liệu có nguồn gốc cacbon như than, dầu và gas. …
Mất và phá hủy nơi cư trú bởi các vận động của tự nhiên: Việc phát sinh mới hay hoạt động trở lại của các núi lửa, sóng thần, sạt lở đất, động đất, sa mạc hóa, cháy rừng...
Ô nhiễm môi trường sống:
Có thể liệt kê một số nguyên nhân sau:
Ô nhiễm do thuốc trừ sâu: Thuốc trừ sâu là nhân tố gây ô nhiễm nặng nề và được khuyến cáo từ năm 1962 (Rachel Carson, 1962).
Ô nhiễm nước: Ô nhiễm nước cũng là nguyên nhân gây suy thoái ĐDSH thuỷ sinh như các loài cá, ốc, trai, hến... Nguyên nhân gây ô nhiễm nước chủ yếu là do các chất thải công nghiệp, chất thải dân dụng, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, rò rỉ xăng dầu từ các tàu vận tải, các kim loại nặng(thuỷ ngân, chì, thiếc...). Các chất thải này theo dòng chảy và lan tràn trong một vùng rộng lớn. Kết quả là một loạt loài ở các bậc dinh dưỡng tiếp theo trong chuỗi thức ăn cũng bị nhiễm độc theo.
Ô nhiễm không khí và mưa axít: Các hoạt động công nghiệp xả thải vào khí quyển, đốt rừng làm nương rẫy,... làm thay đổi và làm ô nhiễm bầu khí quyển của trái đất. Các nền công nghiệp như luyện thép, các nhà máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu là than dầu đã thải ra một lượng lớn nitrat, sulphat vào không khí, các khí này khi gặp hơi nước trong khí quyển sẽ tạo ra axit nitric và sunphuric. Các axit này liên kết với những đám mây và khí tạo thành mưa đã làm giảm độ pH của nước mưa xuống thấp và tăng khả năng hấp thụ các kim loại nặng độc hại.
Sư sản sinh ôzôn, các kim loại độc hại và lắng đọng khí nitơ: . Nồng độ ôzôn cao ở tầng khí quyển gần mặt đất sẽ giết chết các mô thực vật, làm cho cây dễ bị tổn thương, làm hại đến các quần xã sinh học, giảm năng suất nông nghiệp.
Sự biến đổi khí hậu: Sự biến đổi khí hậu và nồng độ khí cacbonic trong khí quyển gia tăng sẽ có khả năng làm thay đổi triệt để cấu trúc của các quần xã sinh học và sẽ chỉ còn một số loài có khả năng phát triển thích ứng với điều kiện sống mới (Bazzaz và Fajer, 1992).
Sự chuyên hóa trong sản xuất nông nghiệp:
Do sức ép của sự gia tăng dân số trên thế giới, dẫn đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm và các loại nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có trong tự nhiên, đồng thời cũng thúc đẩy loài người lựa chọn hoặc lai tạo ra các giống động thực vật có năng suất, chất lượng cao; và sử dụng đại trà các giống này cho sản xuất trên phạm vi toàn cầu trong những khu vực có điều kiện khí hậu tương tự nhau. Do đó, các giống địa phương sẽ bị mai một và cuối cùng là tuyệt chủng..
Sự lây lan của các dịch bệnh:
Sự lây nhiễm các sinh vật gây bệnh là điều thường xảy ra đối với động vật nuôi hay động vật hoang dã. Các tác nhân gây nhiễm có thể là các vật ký sinh nhu virus, vi khuẩn, nấm, các động vật đơn bào hay các ký sinh trùng kích cỡ lớn hơn như giun, sán. Các loại dịch bệnh có thể là nguy cơ đe dọa đối với một số loài quý hiếm/
Nguyên nhân gián tiếp:
Gia tăng dân số và di cư.
Những thách thức về dân số của nước ta rất nghiêm trọng đối với các vấn đề tài nguyên, môi trường và ĐDSH. Tăng dân số nhanh đã là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái ĐDSH của Việt Nam. Sự gia tăng dân số dẫn đến tăng nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu thiết yếu khác trong khi lượng tài nguyên có hạn, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Hệ quả tất yếu dẫn tới là phải mở rộng đất nông nghiệp, xâm lấn vào đất rừng, làm suy thoái ĐDSH.
Sự nghèo đói.
Việt Nam được xếp loại là một trong những nước nghèo trên thế giới với gần 80% dân số sống ở nông thôn, hoạt động kinh tế chủ yếu là nông – lâm – ngư nghiệp, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn. Những người nghèo thường không có ruộng đất, phải sống dựa vào đất bạc màu, đất dốc, đất có độ phì kém, lại thiếu vốn đầu tư lâu dài cho sản xuất, buộc họ phải khai thác nhanh ruộng đất của mình hoặc phá rừng lấy đất canh tác.
Mối quan hệ giữa xóa đói giảm nghèo với bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế xã hội là mối quan hệ nhân quả. Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của phát triển, là điều kiện để bảo vệ môi trường
Sự thay đổi trong thành phần HST
Chẳng hạn như mất hoặc suy giảm của một loài có thể dẫn đến sự suy giảm ĐDSH. Ví dụ, nỗ lực loại trừ chó sói châu Mỹ ở miền nam California dẫn đến việc giảm sút các quần thể chim hót trong vùng. Khi quần thể chó sói châu Mỹ giảm sút, quần thể con mồi của chúng, gấu trúc Mỹ, sẽ tăng lên. Do gấu trúc Mỹ ăn trứng chim, nên khi số lượng chó sói ít hơn thì số lượng gấu trúc ăn trứng chim lại nhiều lên, kết quả là số lượng chim hót sẽ ít đi.
Sự bất lực của chính quyền và những chiến lược phát triển không hợp lý:
Nguyên nhân này có vai trò tương đối lớn, nhất là đối với các loài có nguy cơ tuyệt chủng và ở các nước nghèo. Hệ thống các văn bản pháp luật chưa hoàn thiện và không được những người có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc. Do cuộc sống khó khăn nên những người dân bản địa đã tiến hành khai thác bất hợp pháp các loài động thực vật cung cấp cho thị trường, song các cấp chính quyền dường như không làm được nhiều để hạn chế tình trạng trên, thậm chí do nguồn lợi kinh tế rất lớn nên một số nhà chức trách còn tiếp tay cho các hoạt động phi pháp. Bên cạnh đó chính sách di dân đã làm cho rất nhiều diện tích rừng bị mất đi nhanh chóng. Các chính sách kinh tế sai lầm đã làm giá cả gia tăng nhanh và đẩy một bộ phận người dân thuộc vùng sâu, vùng xa, những vùng có mức độ ĐDSH cao nhất, ngày càng trở nên khốn khó, để tự nuôi sống mình và gia đình họ đã khai thác triệt để nguồn lợi sinh học tại địa phương.
5. Đề xuất giải pháp:
5.1. Biện pháp kỹ thuật:
5.1.1. Bảo tồn nguyên vị:
Bảo tồn nguyên vị bao gồm các phương pháp và công cụ nhằm mục đích bảo vệ các loài, các chủng và các sinh cảnh, các hệ sinh thái trong điều kiện tự nhiên. Thông thường bảo tồn nguyên vị được thực hiện bằng cách thành lập các khu bảo tồn (KBT) và đề xuất các biện pháp quản lý phù hợp. Theo Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế Giới - IUCN thì có 6 loại KBT:
- Loại I: Khu bảo tồn nghiêm ngặt (hay KBT hoang dã).
- Loại II: Vườn Quốc gia chủ yếu để bảo tồn các HST và sử dụng vào mục đích du lịch, giải trí, giáo dục.
- Loại III: Công trình thiên nhiên chủ yếu để bảo tồn các cảnh quan thiên nhiên đặc biệt.
- Loại IV: Khu bảo tồn sinh cảnh hay các loài, chủ yếu là nơi bảo tồn một số sinh cảnh hay một số loài đặc biệt cần bảo vệ.
- Loại V: Khu bảo tồn cảnh quan đất liền hay cảnh quan biển chủ yếu bảo tồn các cảnh quan thiên nhiên đẹp, sử dụng cho giải trí, du lịch.
- Loại VI: Khu bảo tồn quản lý tài nguyên thiên nhiên chủ yếu quản lý với mục đích sử dụng một cách bền vững các HST và tài nguyên thiên nhiên.
Bảng 1: Phân loại hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam
T.T
Loại
Số lượng
Diện tích (ha)
I
Vườn Quốc gia
30
1.041.956
II
Khu Bảo tồn thiên nhiên
60
1.184.372
IIa
Khu dự trữ thiên nhiên
48
1.100.892
IIb
Khu bảo tồn loài/sinh cảnh
12
83.480
III
Khu Bảo vệ cảnh quan
38
173.764
Tổng cộng (Khu bảo tồn)
128
2.400.092
Nguồn: Số liệu thống kê đến 10/2006- Cục Kiểm lâm và Viện Điều tra quy hoạch rừng.
5.1.2. Bảo tồn chuyển vị:
Bảo tồn chuyển vị là biện pháp chuyển dời và bảo tồn các loài cây, con và các vi sinh vật ra khỏi môi trường sống thiên nhiên của chúng. Mục đích của việc di dời này là để nhân giống, lưu giữ, nhân nuôi vô tính hay cứu hộ. Bảo tồn chuyển vị bao gồm các vườn thực vật (VTV), vườn động vật, các bể nuôi thuỷ hải sản, các bộ sưu tập vi sinh vật, các bảo tàng, các ngân hàng hạt giống, bộ sưu tập các chất mầm, mô cấy...Do các sinh vật hay các phần của cơ thể sinh vật đựoc lưu giữ trong môi trường nhân tạo, nên chúng bị tách khỏi quá trình tiến hoá tự nhiên. Vì thế mà mối liên hệ gắn bó giữa bảo tồn chuyển vị với bảo tồn nguyên vị rất bổ ích cho công tác bảo tồn ĐDSH.
5.1.3. Bảo tồn trang trại:
Hình thức này có ý nghĩa quan trọng đặc biệt cho sự bảo tồn một số giống cây trồng địa phương, có đặc tính nông sinh học quý như vải thiều Thanh Hà, nhãn lồng Hưng Yên, bưởi Đoan Hùng, các loại cây có giá trị: hồi, quế...
5.1.4. Bảo tồn bên ngoài các khu bảo tồn:
5.1.5. Hồi phục và khôi phục các loài, chủng quần và HST
5.2. Biện pháp về giáo dục
5.2.1. Xây dựng nguồn nhân lực:
- Lớp ngắn hạn về khoa học chuyên ngành, về kỹ thuật quản lý, hay về vấn đề hành chính. - Lớp đại học hay sau đại học về chuyên ngành trong nước hay ngoài nước.
- Hội thảo, tập huấn về vấn đề riêng.
- Trao đổi khoa học, kinh nghiệm giữa các nước hay các cơ quan khoa học, viện nghiên cứu.
- Tập huấn ngắn ngày cho cán bộ thực địa.
- Chương trình soạn thảo tài liệu chuyên môn và phân phát tài liệu.
- Tổ chức xây dựng chiến lược, kế hoạch quốc gia, địa phương có sự tham gia của các cơ quan chính phủ, các cộng đồng địa phương, các tổ chức kinh doanh, các nhóm dân tộc và những có liên quan.
5.2.2. Mở rộng các hoạt động truyền thông và nâng cao nhận thức về ĐDSH:
- Giáo dục trong nhà trường: Cần chính thức đưa vấn đề bảo tồn ĐDSH vào nội dung giáo dục chính quy trong tất cả các trường học, từ lớp mầm non đến các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Nội dung giáo dục môi trường, trong đó có ĐDSH nhất thiết phải được đưa vào chương trình đào tạo ở các trường dạy nghề, các trường trung học chuyên nghiệp và các trường đại học, đặc biệt là các trường sư phạm các cấp, các trường nội trú ở miền núi. Do tính chất liên ngành mà nội dung ĐDSH có thể lồng ghép vào nội dung của nhiều môn học khác như Sinh học, Địa lý, Văn học, Hoá học, Giáo dục công dân, sinh hoạt ngoại khoá.
- Giáo dục ngoài nhà trường: Nâng cao nhận thức về ĐDSH nhất thiết phải được đẩy mạnh thực hiện ngoài phạm vi nhà trường mà đối tượng là đông đảo quần chúng, cộng đồng dân cư, nhất là những người sống chủ yếu dựa vào khai thác nguồn tài nguyên sinh học. Công việc này cũng cần được thực hiện ở những nơi có đông đảo nhân dân đến thăm như các bảo tàng, vườn thú, vườn thực vật, vườn quốc gia, KBT thiên nhiên,...
- Thành lập bộ phận chuyên trách về giáo dục, nâng cao nhận thức về ĐDSH, đảm nhận công tác giáo dục ĐDSH như:
+ Xây dựng chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức về ĐDSH.
+ Nghiên cứu và xây dựng các hình thức giáo dục về nâng cao nhận thức ĐDSH phù hợp với từng đối tượng, từng lứa tuổi.
+ Tổ chức tờ tin về giáo dục và truyền thông ĐDSH.
+ Xây dựng mạng lưới giáo dục, liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức thực hiện công tác giáo dục, nâng cao nhận thức ĐDSH.
3.3. Biện pháp về quản lý:
3.3.1. Quản lý vùng đệm:
Vùng đệm là những vùng được xác định ranh giới rõ ràng, có hoặc không có rừng, nằm ngoài ranh giới của KBT và được quản lý để nâng cao việc bảo tồn của KBT và của chính vùng đệm, đồng thời mang lại lợi ích cho nhân dân sống quanh KBT.
3.3.2. Bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng:
- Giải quyết được các mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên bao gồm cả ĐDSH.
- Quản lý và sử dụng ổn định bền vững tài nguyên thiên nhiên.
- Hạn chế các mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế xã hội và bảo tồn thiên nhiên.
- Giảm thiểu được các tác động tới đa dạng sinh học và môi trường sống tự nhiên.
- Giảm thiểu mức đầu tư ngân sách nhà nước đối với công tác bảo tồn thiên nhiên;….
3.3.3. Giảm sức ép về dân số:
- Có những chính sách, giải pháp mạnh mẽ, được thể chế hoá thành các văn bản pháp quy.
- Bảo đảm kinh phí cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình. Thực hiện phương thức quản lý các nguồn kinh phí theo chương trình mục tiêu, bảo đảm phân bổ và sử dụng có hiệu quả.
- Kiện toàn Uỷ ban dân số và kế hoạch hoá gia đình các cấp từ Trung ương đến cơ sở.
- Tăng cường công tác thông tin về dân số, tuyên truyền rộng rãi các chủ trương và biện pháp kế hoạch hoá gia đình, thực hiện giáo dục dân số với nội dung thích hợp, hình thức đa dạng, có sự tham gia của toàn xã hội.
- Cung cấp đầy đủ, kịp thời dụng cụ, phương tiện theo yêu cầu của người sử dụng. Từng bước đa dạng hoá các biện pháp trành thai, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, an toàn và thuận tiện.
- Có chính sách khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với những cặp vợ chồng tích cực thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
4. Bảo tồn đa dạng sinh học bằng pháp chế:
4.1. Các bộ luật quốc gia:
Luật tuân theo quy định bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH phải tuân thủ nguyên tắc:
- Kết hợp hài hòa giữa bảo tồn với khai thác, sử dụng hợp lý ĐDSH; giữa bảo tồn, khai thác, sử dụng hợp lý ĐDSH với việc xóa đói, giảm nghèo.
- Bảo tồn tại chỗ là chính, kết hợp bảo tồn tại chỗ với bảo tồn chuyển chỗ.
- Tổ chức, cá nhân hưởng lợi từ việc khai thác, sử dụng ĐDSH phải chia sẻ lợi ích với các bên có liên quan
- Bảo đảm hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước với lợi ích của tổ chức, cá nhân.
- Bảo đảm quản lý rủi ro do sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gen gây ra đối với ĐDSH…
Luật cấm các hành vi:
- Săn bắt, đánh bắt, khai thác loài hoang dã trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn, trừ việc vì mục đích nghiên cứu khoa học.
- Lấn chiếm đất đai, phá hoại cảnh quan, hủy hoại hệ sinh thái tự nhiên, nuôi trồng các loài ngoại lai xâm hại trong khu bảo tồn.
- Xây dựng công trình, nhà ở trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn, trừ công trình phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh.
- Xây dựng công trình, nhà ở trái phép trong phân khu phục hồi sinh thái của khu bảo tồn.
- Điều tra, khảo sát, thăm dò, khai thác khoáng sản; chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô trang trại, nuôi trồng thuỷ sản quy mô công nghiệp.
- Cư trú trái phép, gây ô nhiễm môi trường trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt và phân khu phục hồi sinh thái của khu bảo tồn…
4.2. Các thoả thuận quốc tế:
Hợp tác quốc tế là một điều kiện tiên quyết vì nhiều lí do khác nhau:
- Trước hết, các loài thường di chuyển qua các biên giới. Các hoạt động bảo tồn chim di cư ở phía Bắc Châu Âu sẽ không thể thành công nếu nơi cư trú qua mùa đông của chim tại Châu Phi bị phá hủy.
- Thứ hai, việc buôn bán quốc tế về các sản phẩm sinh học có thể gây nên hậu quả là sự khai thác quá mức các loài nhằm đáp ứng nhu cầu thương mại. Việc quản lí và kiểm soát buôn bán đòi hỏi phải cả trên lĩnh vực xuất và nhập khẩu.
- Thứ ba, những lợi ích của đa dạng sinh học là có tầm quan trọng quốc tế. Các quốc gia giàu có thuộc vùng ôn đới được hưởng lợi ích từ tính đa dạng sinh học của vùng nhiệt đới cần phải sẵn sàng giúp đỡ các nước nghèo khó hơn nhưng đã tham gia thực hiện việc bảo tồn các nguồn đa dạng sinh học đó.
- Cuối cùng, rất nhiều vấn đề của các loài hay các hệ sinh thái bị đe dọa có qui mô toàn cầu nên đòi hỏi sự hợp tác quốc tế để giải quyết. Những mối đe dọa như vậy bao gồm đánh bắt thủy sản quá mức, ô nhiễm không khí và mưa acid, ô nhiễm sông, hồ và đại dương, biến đổi khí hậu toàn cầu và suy thoái tầng ôzôn.
III. KẾT LUẬN:
Việc bảo tồn ĐDSH ít được quan tâm vì sự mất mát về đa dạng sinh học, đặc biệt là ở biển ít được nhìn thấy; sự mất mát này không tác động ngay lập tức và trông thấy được trong cuộc sống hàng ngày; đa số quần chúng ít cảm nhận được lợi ích trong việc bảo tồn đa dạng sinh học. Nhiều lý do được đưa ra để mọi người thấy được việc bảo tồn đa dạng sinh học là cần thiết ví dụ như: phục vụ cho mục đích sử dụng trong hiện tại và tương lai các nhân tố của đa dạng sinh học như các nguồn tài nguyên sinh học; phục vụ cho việc duy trì sinh quyển trong trạng thái có thể hỗ trợ cho cuộc sống của con người; phục vụ bảo tồn bản thân đa dạng sinh học mà không vì một mục đích nào khác, đặc biệt tất cả các loài đang sống hiện nay.
Trong thời đại ngày nay, bảo vệ đa dạng sinh học đang được quan tâm không chỉ ở phạm vi riêng lẽ của từng quốc gia mà là mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Bởi vì bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như sự hạn chế các tác động của sự thay đổi khí hậu.
Mục tiêu của bảo tồn thiên nhiên và phát triển bền vững đều hướng tới sự thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu cuộc sống của con người về tất cả mọi mặt. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi có sự liên kết, hỗ trợ giúp đỡ giữa các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học, các doanh nghiệ, cộng đồng,...nhằm làm cho quá trình phát triển không ảnh hưởng tới các hoạt động bảo tồn và hoạt động bảo tồn sẽ hỗ trợ ngày càng tốt hơn cho quá trình phát triển.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_4197.doc