Tiểu luận Tác động của truyền thông với sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật
Trước hết là phải xác định lại nội hàm và tính chất của khái niệm
nghệthuật. Dĩnhiên hiện nay sự đồng nhất nghệthuật với tưtưởng, với
chính trịlà đã quá lỗi thời và ai cũng nhận thấy điều đó. Nhưng hiện nay
còn khá nhiều người trong giới nghệthuật ởta còn bảo lưu khái niệm
nghệthuật truyền thống, trong đó nghệthuật bị đồng nhất với tác phẩm
nghệthuật (quan điểm này cho rằng tác phẩm nghệthuật là trung tâm, là
những giá trị đã được khách thểhóa và ai cũng cần phải nhận ra những
giá trị đó!). Hạn chếcủa khái niệm nghệthuật này chính là ởchỗ: Nó
không phản ánh được tính quá trình của sản xuất- tiêu thụnghệthuật,
không phản ánh được tính đa nghĩa và đa chức năng của nghệthuật,
không phản ánh được đối tượng thẩm mỹ đa dạng (không chỉlà cái đẹp)
của nghệthuật, không phản ánh được nhưng quan hệkhông mang tính
thẩm mỹtrong cấu trúc tổng thểcủa nghệthuật và đặc biệt nó luôn phụ
thuộc vào thang giá trịcủa xã hội đương thời.
8 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1910 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tác động của truyền thông với sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÁC ĐỘNG CỦA TRUYỀN THÔNG
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THỰC
TIỄN VÀ LÝ LUẬN NGHỆ THUẬT
Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật - dù ở đâu, thời kỳ
lịch sử nào cũng vậy - thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ
quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; những chính sách
chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ
thuật); những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.
Bài viết này chỉ bàn đến những thay đổi có tính chất cách mạng của
công nghệ thông tin đã ảnh hưởng đến sự phát triển của thực tiễn và lý
luận nghệ thuật như thế nào?
Hiện nay, nhờ các phương tiện truyền thông mới mà các cá nhân đã
vượt qua được tất cả các đường biên giới quốc gia và qua đó tiếp cận
được với tất cả những thành tựu của loài người trong đó có nghệ thuật.
Nói cách khác, những hạn chế về bối cảnh kinh tế, chính trị của một quốc
gia không còn có ý nghĩa quyết định quan niệm thẩm mỹ, cách hiểu về
nghệ thuật, các kỹ năng và trào lưu sáng tác hay phê bình của người dân
ở nước đó như xưa nữa. Vì vậy, chưa bao giờ cái mới trong nghệ thuật ở
Việt Nam lại xuất hiện nhiều như những năm vừa qua. Chỉ cần điểm qua
các sự kiện trong đời sống mỹ thuật ở những năm qua chúng ta sẽ thấy
rõ: Không gì trên thế giới có mà ta không có! Từ các trường phái tranh
hiện đại (với nhiều chủ đề, đề tài xưa nay vốn là “cấm kị”) đến video art,
đến installation, đến performence art, đến việc tổ chức sự kiện mang tính
quảng cáo (như những đêm thời trang do Tạp chí Đẹp tổ chức). Điều đáng
nói ở đây là, tất cả những cái được coi là mới trong thực tiễn nghệ thuật ở
Việt Nam như đã nêu ở trên đều không hoặc chưa được dạy trong các
trường nghệ thuật chính thống của ta. Vậy những tri thức ấy, những quan
điểm và kỹ năng sáng tạo nghệ thuật ấy được học từ đâu nếu không phải
từ Internet???
1. Việc sử dụng các phương tiện truyền thông mới ngày càng trở
nên phổ biến là một chỉ báo của một quá trình cá nhân hoá
(individualization), theo đó các cá nhân trong xã hội đều mong muốn được
thể hiện cái tôi của mình, được tự do trong suy nghĩ, sinh hoạt và hành
động. Chính quá trình cá nhân hoá đã thay đổi cơ bản các hình thức và cả
phương thức sinh hoạt văn hoá của người dân hiện nay: Mỗi cá nhân đều
có sự lựa chọn hay từ chối những hàng hoá văn hoá (vốn rất phong phú,
đa dạng) chứ không phải kiểu tiêu thụ hàng hoá là sản phẩm của thời kỳ
thông tin một chiều, áp đặt của các phương tiện và quan điểm truyền
thông truyền thống. Hơn thế nữa, sự sáng tạo văn hóa, nghệ thuật không
chỉ là đặc quyền của riêng ai, về nguyên tắc, hiện nay nó là quyền và cơ
hội của tất cả mọi cá nhân.
Không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà năm 2007, Tạp chí Time của
Mỹ đã bình chọn nhân vật xuất sắc nhất trong năm, và lần đầu tiên, ảnh
hưởng của các phương tiện truyền thông mới đã được thể hiện thông qua
việc nhân vật được bình chọn là YOU (bạn).
Trước hết, quá trình cá nhân hóa mạnh mẽ đã làm suy yếu đi sức
mạnh của những biểu tượng truyền thống (những biểu tượng từ lĩnh vực
chính trị đến nghệ thuật). Trước kia, mỗi một xã hội, mỗi một dân tộc
thường duy trì những giá trị và chuẩn mực văn hóa của mình, trong đó có
nền nghệ thuật, theo những biểu tượng riêng. Những biểu tượng ấy với tư
cách là các cấu trúc xã hội không chỉ thống nhất tâm trí và hành động của
các cá nhân trong một xã hội nhất định (theo cách đồng cảm- một thuật
ngữ khá quan trọng trong xã hội học), mà nó còn như là một áp lực xã hội
có tính chất mệnh lệnh. Điều đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là: Những ai
không tuân thủ “mệnh lệnh” của những biểu tượng đó đều bị coi là “thiểu
số”, là “lệch chuẩn”. Chính hệ biểu tượng ấy, hệ giá trị ấy đã trở thành hệ
quy chiếu thẩm mỹ cho các hoạt động sáng tạo và tiêu dùng nghệ thuật.
Điều này giải thích tại sao chúng ta thường phân biệt các tác phẩm có
chất lượng nghệ thuật cao - thấp, bác học - bình dân… phân biệt thị hiếu
lành mạnh với thấp hèn, hoặc thị hiếu cao, tinh tế với thị hiếu thấp, dung
tục...
Khi nền kinh tế thị trường chiếm vị trí ưu thắng cùng với khi chủ
nghĩa cá nhân đã hình thành và phát triển thì những sở thích cá nhân,
những thị hiếu cá nhân nhằm thỏa mãn những nhu cầu cá nhân được đặt
lên hàng đầu: tôi thích gì tôi sáng tạo hay tiêu dùng cái đó không cần phải
quan tâm nhiều đến việc xã hội có thừa nhận nó hay không! Điều đó dẫn
đến một tâm lý khá phổ biến trong xã hội tiêu dùng hiện đại là “không đụng
hàng”, là dùng ”hàng độc”... Thậm chí điều này còn trở thành một giá trị
thẩm mỹ trong xã hội hiện đại: Một người sẽ được coi là “tỉnh” khi các sản
phẩm mà anh ta tiêu dùng có tính cá nhân hóa cao, ngược lại sẽ bị coi là
“quê”. Giá trị này lấn át cả các giá trị chính trị hay kinh tế (nó không phụ
thuộc nhiều vào việc đắt hay rẻ, có ý nghĩa lịch sử hay không, có ích lợi
hay không). Xuất phát từ thực tiễn này của xã hội, trong nghệ thuật đương
đại đã có những thực tiễn mới: tất cả những phân loại theo kiểu cao -
thấp, bác học - bình dân, truyền thống- hiện đại trong nghệ thuật dần dần
bị bác bỏ, thậm chí những ranh giới giữa nghệ thuật với đời sống thường
ngày cũng bị xóa nhòa.
Chúng ta thấy rất rõ xu hướng cá nhân hóa trong sáng tạo và tiếp
nhận, tiêu dùng nghệ thuật đương đại. Mọi tác phẩm nghệ thuật dường
như đều xuất phát từ tình cảm, kinh nghiệm cá nhân của người nghệ sỹ
hoặc hướng tới quá trình tiếp nhận đa nghĩa, bởi sự tiếp nhận- theo quan
điểm mỹ học mới- tuỳ thuộc vào nền văn hoá mà các cá nhân sở thuộc và
tuỳ thuộc vào khả năng phản ánh hiện thực thông qua hành động giải trình
ngôn ngữ (discourse) của chúng. Ngoài ra, những nhà lý luận nghệ thuật
còn đưa ra nhiều thuật ngữ để minh họa, diễn giải cho thực tiễn nghệ
thuật mới này. Đó là những thuật ngữ như “liên văn bản”, hay như “cái
chết của tác giả”, hay “trò chơi ngôn ngữ”.v.v..
Trong lĩnh vực nghệ thuật, luận điểm này tuyệt đối hoá vai trò cá thể
trong quá trình sáng tạo- tiếp nhận nghệ thuật- Đó hoàn toàn là một quá
trình chủ quan hoá. Nó hoàn toàn đối lập với quan điểm của chủ nghĩa
hiện đại, coi tác phẩm là trung tâm và mang tính khách quan, mà người
tiếp nhận nó phải hướng đến những giá trị được coi là khách quan đó.
Cũng cần phải thêm rằng, chính truyền thông mới tạo điều kiện cho
cách tiếp nhận nghệ thuật mới. Thời nay, thông qua Internet các tác phẩm
có thể đi thẳng, trực tiếp đến người tiếp nhận mà không cần phải qua bất
kỳ một trung gian nào (như giới thiệu, phê bình, kiểm duyệt). Như thế,
người tiếp nhận nghệ thuật được tôn trọng tuyệt đối, họ có thể cảm thụ và
bình giá tác tác phẩm bằng chính cảm quan của mình, bằng chính vốn
sống và kinh nghiệm sống của mình... Điều này cũng giải thích cho tính đa
nghĩa và đa chức năng của nghệ thuật đương đại.
2. Mặt khác, chính nhờ quá trình cá nhân hoá này, các cá nhân có
điều kiện kết nối với những người khác có cùng sở thích, thị hiếu cũng
như những quan điểm chính trị, xã hội và thậm chí cả những liên kết kinh
tế. Những liên kết này kiến tạo ra những cộng đồng đặc biệt (các nhà
nghiên cứu gọi là cộng đồng văn bản). Nếu như ở thời các phương tiện
truyền thông đại chúng cũ, các thông tin được truyền ra mang tính một
chiều- các cá nhân không có cơ hội tương tác, đặc biệt là những nhóm xã
hội “ở phía dưới” hay những nhóm “thiểu số”; thì nay, nhờ có các phương
tiện truyền thông mới, các nhóm thiểu số được “trao quyền”“tiếng nói” lớn
hơn đối với cộng đồng. Những kết nối ngược chiều này (mặc dù sự kết nối
chỉ ở dạng cộng đồng văn bản) đã tạo ra những sức mạnh thực tế làm yếu
đi sức mạnh của “vòng xoáy của sự im lặng” (spiral of silence)7. Có thể
nói rằng, chính các phương tiện truyền thông mới đã thúc đẩy tích cực vào
quá trình dân chủ hoá xã hội. Nhờ đó, sinh hoạt xã hội trở nên dân chủ
hơn, đa chiều hơn và đời sống văn hoá cũng trở nên phong phú và đa
dạng hơn, không còn mang tính một chiều nữa.
Các phương tiện truyền thông mới ra đời đã giúp phá bỏ “vòng xoáy
của sự im lặng” trong đời sống nghệ thuật ở Việt Nam. Giờ đây, hầu như
ai cũng có cơ hội nói những tâm tư, nguyện vọng và ý tưởng của mình bất
chấp ý kiến của họ có được xã hội chấp nhận hay không. Nếu không được
đăng tải trên những phương tiện truyền thông chính thống thì giờ đây mỗi
người đều có thể tự viết blog hay dùng YouTube để chia sẻ các hình ảnh
riêng tư, những ý tưởng độc đáo của mình. Dần dần, những cộng đồng
mạng được hình thành và nó có sức mạnh không kém gì những cộng
đồng khác trong xã hội. Rất nhiều ví dụ trên thế giới và ở Việt Nam cho
thấy, nhiều khi những ý kiến thiểu số trở nên thắng thế trong một bối cảnh
xã hội ngày càng cởi mở hơn đối với những ý kiến khác biệt. Các phương
tiện truyền thông đại chúng giờ đây đã tự nguyện hay “bị ép buộc” đăng tải
các ý kiến cá nhân để thoả mãn xu hướng chung toàn cầu.
3. Chính quá trình hóa cá nhân mạnh mẽ ấy trong xã hội đương đại
đã trở thành cơ sở để các nhà tư tưởng xem xét lại toàn bộ hệ thống giá
trị đã được coi là “thiên đình”, “là bất di bất dịch”. Những “grand narative”
(đại luận thuyết) với tư cách là “chân lý khách quan” dần dần không còn
chỗ đứng vững chắc nữa và chen vào đó là những “petit narative” (tiểu sự)
của giới bình dân, của các nhóm thiểu số. Trong lĩnh vực nghệ thuật cũng
vậy, những tiểu tự sự, những lý lẽ giải thích cho những hành động nhỏ bé,
những biến cố có tính chất địa phương thay vì những khái niệm lớn có tính
cách bao quát và toàn thể... được cổ súy. Những chủ đề, nội dung của các
tác phẩm nghệ thuật thường được nhìn dưới góc độ của hoàn cảnh tạm
thời, ngẫu nhiên, không tuyên xưng tính thống nhất toàn thể, tính ổn định,
tính hợp lý hay sự thật khách quan.
Trước đây, những nghệ thuật được coi là chính thống ở ta (như
nhạc giao hưởng thính phòng, như nghệ thuật dân tộc, mỹ thuật, nhiếp
ảnh, điện ảnh theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa...) được Nhà
nước bao cấp, được giới đại học và giới phê bình tuyên xưng và dĩ nhiên
nó trở thành những giá trị thẩm mỹ mà các cá thể trong xã hội phải hướng
tới. Và quả thật, trong một thời kỳ khá dài, chính đại đa số công chúng
nghệ thuật ở ta (chứ không chỉ là giới lãnh đạo hay giới phê bình nghệ
thuật thôi đâu) đã “tự giác” tư duy và tiếp nhận theo lý tưởng thẩm mỹ đó.
Ngày nay, thực tiễn nghệ thuật đã đổi khác, công chúng- với gian hàng về
tri thức lý luận và nghệ thuật khổng lồ được trình ra ở Internet – đã tự
chọn cho mình lý tưởng thẩm mỹ riêng của mình mà không bị đóng khung
bởi những gì xã hội Việt Nam cung cấp và áp đặt nữa. Rõ ràng, việc hiện
nay Nhà nước ta vẫn chỉ tập trung vào bao cấp và khuyến khích các hoạt
động nghệ thuật chính thống mà không khuyến khích, hỗ trợ cho các loại
hình nghệ thuật mới là một sự chậm trễ đáng tiếc. Bởi trên thực tế, những
tổ chức nghệ thuật của nước ngoài tại Việt Nam (như Viện Goethe, Hội
đồng Anh, Trung tâm Văn hóa Pháp- Việt, hoặc một số đại sứ quán Đan
Mạch, Thụy Điển...) đã khá nhanh nhạy và thu hút được giới nghệ sỹ trẻ
hội nhập với những trào lưu nghệ thuật của thế giới và điều quan trọng là
hiệu quả thực tế của những hoạt động này cao hơn so với những hoạt
động nghệ thuật của ta (kể cả hiệu quả chính trị, ví dụ như xây dựng hình
ảnh văn hóa và con người Việt Nam trong thời đại mới).
4. Các phương tiện truyền thông mới ra đời đã sáng tạo ra một thế
giới nữa cho loài người: đó là một thế giới ảo mà con người có thể sống
và can thiệp như một thế giới thật. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lối tư
duy, đến lựa chọn các chủ đề, đến thủ pháp kỹ thuật trong sáng tạo và tiếp
nhận nghệ thuật. Đó chính là một khác biệt lớn khi so nghệ thuật hậu hiện
đại với tất cả những trường phái nghệ thuật trước đó.
***
Như vậy, ngay cả ở Việt Nam, thực tiễn nghệ thuật cũng đã thay đổi
và điều đó đòi hỏi phải có một sự lột xác về mặt lý luận sao cho tương
thích.
Trước hết là phải xác định lại nội hàm và tính chất của khái niệm
nghệ thuật. Dĩ nhiên hiện nay sự đồng nhất nghệ thuật với tư tưởng, với
chính trị là đã quá lỗi thời và ai cũng nhận thấy điều đó. Nhưng hiện nay
còn khá nhiều người trong giới nghệ thuật ở ta còn bảo lưu khái niệm
nghệ thuật truyền thống, trong đó nghệ thuật bị đồng nhất với tác phẩm
nghệ thuật (quan điểm này cho rằng tác phẩm nghệ thuật là trung tâm, là
những giá trị đã được khách thể hóa và ai cũng cần phải nhận ra những
giá trị đó!). Hạn chế của khái niệm nghệ thuật này chính là ở chỗ: Nó
không phản ánh được tính quá trình của sản xuất- tiêu thụ nghệ thuật,
không phản ánh được tính đa nghĩa và đa chức năng của nghệ thuật,
không phản ánh được đối tượng thẩm mỹ đa dạng (không chỉ là cái đẹp)
của nghệ thuật, không phản ánh được nhưng quan hệ không mang tính
thẩm mỹ trong cấu trúc tổng thể của nghệ thuật và đặc biệt nó luôn phụ
thuộc vào thang giá trị của xã hội đương thời.
Tôi luôn tin rằng, khi lý luận về nghệ thuật phát triển thì thực tiễn
nghệ thuật sẽ phát triển theo và nếu ngược lại thì nghệ thuật sẽ bị kìm
hãm, què quặt./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_dong_cua_truyen_thong_voi_su_phat_trien_cua_thuc_tien_va_ly_luan_nt_8737.pdf